Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

CHUYỂN HƯỚNG CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, KINH TẾ THẾ GIỚI 2008 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 48 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
CHUYỂN HƯỚNG CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI SAU KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH, KINH TẾ THẾ GIỚI 2008-2009
GIẢNG VIÊN : PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM ANH
NHÓM 3 : LÊ THỊ BẮC
PHẠM THẢO LY
DƯƠNG THỊ MẾN
ĐỖ HUY PHÚ
NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
NGUYỄN THỊ THANH THÚY
LỚP : K22 – KTQT

Hà Nội, tháng 6 năm 2014
2

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1 2.1 Những thay đổi trong các chính sách đầu tư của các
quốc gia, 2000-2012
21
2 2.2 Các gói kích cầu của các quốc gia 23
3 3.1 Thách thức chính sách đầu tư quốc gia 36
4 3.2 Thách thức chính sách đầu tư quốc tế 37
4
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Số hiệu Tên hình Trang
1 1.1 Khối lượng FDI nhập trên thế giới và các khu vực 3


2 1.2 Tác động của nhiều khía cạnh khủng hoảng tới kế hoạch đầu tư của
các công ty
6
3 1.3 Chỉ số lợi nhuận và mức lợi nhuận của các TNCs năm 1997-2008 7
4 1.4 Tỷ lệ phần trăm các TNCs cắt giảm đầu tư tại các khu vực khác
nhau vì cuộc khủng hoảng
8
5 1.5 FDI toàn cầu, trung bình giai đoạn 2005-2007, giai đoạn 2007-2013 10
6 1.6 FDI vào các nhóm nước, giai đoạn 1991-2013 11
7 1.7 Dòng vào FDI năm 2005-2011 của các nền kinh tế chuyển tiếp 13
8 1.8 Dòng ra FDI năm 2005-2011 của các nền kinh tế chuyển tiếp 13
9 2.1 Xu hướng IIAs giai đoạn 1983 - 2012 18
10 2.2 Những thay đổi trong các chính sách đầu tư quốc gia năm 2000 -
2012
22
11 2.3 Dòng vốn FDI vào Trung Quốc 24
12 2.4 FDI vào Trung Quốc năm 2010 25
13 2.5 Vốn FDI hàng năm đầu tư vào Trung Quốc, 1982-2012 26
14 2.6 Vốn FDI vào Trung Quốc và Ấn Độ 28
15 2.7 Vốn FDI vào khu vực Asean 29
16 3.1 Thị phần trong dòng ra FDI thế giới của nhóm nền kinh tế năm
2000 - 2012
32
17 3.2 Cấu trúc và thành phần của IPFSD 39
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BIT Hiệp định đầu tư song phương
CSR Trách nhiệm xã hội
DTTs Hiệp định chống đánh thuế hai lần
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA Hiệp định thương mại tự do
GCC Hội đồng hợp tác vùng vịnh
IIA Hiệp định đầu tư quốc tế
ISDS Hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư quốc gia
IWF Quỹ hợp tác đầu tư quốc tế
M&A Mua lại và sáp nhập
SWFs Các quỹ đầu tư quốc gia
TNC Tập đoàn xuyên quốc gia
UNCTAD Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc
6
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế bền vững là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của các nước đang phát triển. Đặc điểm của các nước đang phát triển là thu nhập
bình quân thấp, trữ lượng vốn thấp trong khi tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm
lại phổ biến. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác động đến tăng trưởng kinh tế
thông qua việc bổ sung nguồn vốn, tạo thêm việc làm, đào tạo kỹ năng cho người
lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý hay chuyển giao công nghệ cho
nước tiếp nhận.
FDI đã và đang đóng một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của
các nước đang phát triển trên thế giới. Tại các quốc gia có chính sách khuyến khích
đầu tư nước ngoài hợp lý, FDI không chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà còn có
vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ đặc biệt là thúc đẩy quá trình tích tụ vốn
con người, một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Khi hướng vào mục đích tăng cường những lợi ích của mình, hầu hết các
nước đang phát triển đều kết hợp ở mức độ qui định nào đó giữa FDI và những
chính sách khuyến khích khác nhau để thu hút đầu tư. Trong những năm 1960 và
phần lớn những năm 1970 đã xuất hiện một xu thế chung hướng tới những biện
pháp hạn chế lớn hơn: có nhiều hình thức của nguồn tài chính bên ngoài hơn, do kết
quả của một số hoạt động FDI trước đó không được khả quan,và tính tự hào dân tộc
ở nhiều nước tăng lên. Một số nước đang phát triển cũng đã hạn chế các hạng mục

đầu tư nước ngoài để bảo hộ các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, từ sau khủng
hoảng tài chính, kinh tế thế giới năm 2008-2009, một số nước buộc phải chuyển
hướng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài để lựa chọn chính sách linh hoạt hơn.
Nhằm giới thiệu và phân tích vấn đề này, nhóm em xin chọn đề tài: Chuyển hướng
chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài sau khủng hoảng tài chính, kinh tế thế
giới 2008-2009
7
Chương 1. Tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới
giai đoạn 2008- 2009 đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn
cầu
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã có tác động
mạnh mẽ đến dòng vốn FDI toàn cầu trong hai năm 2008 và 2009. Giai đoạn này
đánh dấu kết thúc một chu kỳ tăng trưởng của hoạt đầu đầu tư trực tiếp nước ngoài,
bắt đầu từ năm 2003 và kết thúc vào năm 2007. Dòng vốn FDI đạt đỉnh điểm vào
năm 2007 với trên 1,9 nghìn tỷ USD. Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính, dòng vốn FDI toàn cầu đã sụt giảm 14% trong năm 2008, xuống
còn gần 1,7 nghìn tỷ USD.
Bước sang năm 2009, khi mà nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy
thoái trầm trọng, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chứng kiến sự sụy giảm
mạnh nhất trong hơn một thập kỷ trở lại đây, ở mức âm 39%.
Nhóm các nền kinh tế phát triển vẫn dẫn đầu về khối lượng FDI toàn cầu
nhưng phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực nhất từ cuộc khủng hoảng và suy thoái
kinh tế. Tốc độ suy giảm dòng vốn FDI khu vực nhóm các nước phát triển trong hai
năm liên tiếp 2008, 2009 lần lượt ở mức 25,3% và 41%. Tốc độ thoái lui đầu tư
mạnh đã kéo thụt lùi dòng vồn FDI vào các quốc gia phát triển, đồng thời cũng dần
thu hẹp lại khoảng cách với nhóm đi sau, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển. Tuy nhiên, do những tác động ngày càng lan rộng của cuộc khủng
hoảng và suy thoái kinh tế, trong năm 2009, dòng vốn FDI vào nhóm các nền kinh
tế đang phát triển giảm 35%, mức sụt giảm mạnh nhất, kết thúc 6 năm có tăng
trưởng dương liên tục.

8
Hình 1.1: Khối lượng FDI nhập trên thế giới và các khu vực
(đơn vị: tỷ USD)
Nguồn: World Investment Report 2009
Đối mặt với cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, điều kiện tín
dụng bị thắt chặt, suy giảm lợi nhuận sản xuất kinh doanh, triển vọng ảm đạm và
không chắc chắn cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhiều công ty đã phải cắt
giảm sản xuất, sa thải công nhân và cắt giảm chi phí vốn, tất cả đều có xu hướng
làm giảm hoạt động FDI.
9
Tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế trên thế giới rất khác nhau
tùy theo từng khu vực và từng quốc gia. Vì thế, mức độ tác động và ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng đến dòng chảy FDI cũng rất khác nhau trên nhiều vùng và nền
kinh tế trên thế giới. Tóm lại, tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế
đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được phản ánh qua hai yếu tố cơ
bản: những thay đổi trong chiến lược đầu tư của tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia –
TNC thời kỳ khủng hoảng và những biến đổi về môi trường đầu tư toàn cầu.
1.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đến
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty, tập đoàn xuyên
quốc gia
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 82.000 công ty, tập đoàn xuyên quốc gia -
TNC, cùng với nó là trên 810.000 các chi nhánh đang hoạt động tại nước ngoài.
Những công ty này giữ một vị trí quan trọng, góp phần vào quá trình phát triển của
nền kinh tế thế giới. Vai trò của các TNC được thể hiện thông qua hoạt động thương
mại quốc tế, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển và chuyển giao công
nghệ và đặc biệt quan trọng là vai trò nổi bật trong hoạt động thúc đẩy đầu tư quốc
tế. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiên thông qua
các TNC, với tỷ lệ chiếm tới trên 90% tổng FDI toàn thế giới
1
. Với tư cách là chủ

thể quan trọng của hoạt động đầu tư trên thế giới, TNC là nhân tố đặc biệt quan
trọng có vai trò mang tính quyết định tới quá trình lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc
tế. Do vậy, những ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế đến
hoạt động của các TNC có tác động đương nhiên đến khối lượng cũng như cơ cấu
dòng vốn FDI toàn cầu.
1.1.1. Tác động làm thiếu hụt nguồn lực tài chính của các công ty, tập đoàn đa
quốc gia
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới đã trực tiếp ảnh hưởng đến
nguồn lực tài chính của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia. Những tác động của
nó đến từ cả yếu tố tài chính nội tại cũng như các yếu tố nguồn lực tài chính từ bên
ngoài doanh nghiệp.
Một mặt, diễn biến trên thị trường tài chính thế giới cho thấy mức độ ngày
một phức tạp. Hàng loạt sự sụp đổ của các định chế tài chính lớn đã kéo theo
khuynh hướng sụt giảm mạnh trên các thị trường chứng khoán thế giới. Việc nhiều
định chế tài chính giữ vai trò trung gian quan trọng cung cấp nguồn tín dụng cho
hoạt động đầu tư nước ngoài bị thua lỗ hay phá sản đã ảnh hưởng lớn đến nguồn
1 World Investment Report 2009 - United Nations Conference on Trade and Development
10
cung tài chính cho các TNC. Trong khi đó, thị trường chứng khoán thế giới đi
xuống mạnh với việc mất điểm của các chỉ số quan trọng tại Hoa Kỳ, Nhật Bản,
châu Âu và châu Á. Tại Hoa Kỳ, các chỉ số chứng khoán Dow Jones, Standard &
Poor’s 500 và chỉ số tổng hợp Nasdaq mất điểm khoảng 40% trong năm 2008 và
nửa đầu năm 2009. Các chỉ số như Nikkei của Nhật Bản, FTSE 100 của Anh, CAC
của Pháp hay DAX của Đức cũng có diến biến tương tự. Mất đi khoảng 50% giá trị
trên thị trường chứng khoán toàn cầu
2

đã làm yếu đi rất nhiều khả năng tài chính của
các TNC do tác động làm giảm nguồn vốn huy động được thông qua cổ phiếu và
trái phiếu, đồng thời hoạt động mua bán sáp nhập sử dụng cổ phần vì thế cũng bị

hạn chế. Trong năm 2008, giá cổ phiếu trên hầu khắp các thị trường chứng khoán
sụt giảm tương đương với sự giảm giá 81 tỉ đô la về giá trị các thương vụ M&A,
đóng góp 18% trong sự sụt giảm chung của FDI toàn cầu. Cũng trong năm 2008, số
lượng các siêu thương vụ M&A (thương vụ có giá trị trên 1 tỉ đô la) cũng giảm
21%. Ở các nước phát triển thì con số này là 26%. Tại những nước đang phát triển
và các nền kinh tế chuyển tiếp thì số lượng siêu thương vụ tăng mạnh trong năm
2008 nhưng bắt đầu giảm từ quý 1 năm 2009. Bên cạnh những tác động từ thị
trường chứng khoán, việc thắt chặt điều kiện tín dụng làm chi phí kinh tế tăng cao
cũng khiến cho các công ty khó có khả năng tiếp cận nguồn tài chính bên ngoài để
đầu tư cho các dự án mới. Mặt khác, lợi nhuận suy giảm do lực cầu yếu từ thị
trường tiêu thu thế giới cũng ảnh hưởng đến xu hướng mở rộng đầu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư đối phó với tình hình chung bằng những biện pháp như đẩy mạnh
chuyển lợi nhuận về nước, giảm vốn tài trợ cho các công ty con ở nước ngoài quay
hướng về trong nước.
2 World Investment Report 2009 – United Nations Conference on Trade and Development
11
Hình 1.2:
Tác động của nhiều khía cạnh khủng hoảng tới kế hoạch đầu tư của các công
ty
Đơn vị: phần trăm
Nguồn: World Investment Report 2009
Chiến lược phát triển thận trọng của hầu hết các TNCs đã buộc dòng vốn
FDI sụt giảm trong hai năm 2008, 2009.
1.1.2. Tác động do tâm lý e ngại về tình hình kinh tế ảm đạm đến hoạt động
đầu tư nước ngoài của các TNC
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế với những hậu quả nghiêm
trọng để lại trong ngắn hạn đã tác động tiêu cực đến triển vọng FDI trong hai năm
2008 và 2009. Diễn biến khó lường của nền kinh tế thế giới tiềm ẩn rất nhiều rủi ro,
gây ảnh hưởng đến kế hoạch cũng như chiến lược đầu tư của các TNC trong ngắn
hạn cũng như trong dài hạn. Những dự báo không khả quan về tiến trình phục hồi

của nền kinh tế toàn cầu, sự bất ổn định trên thị trường tài chính, và những thay đổi
chính sách tạo bất lợi cho nhà đầu tư khi các quốc gia gia tăng các biện pháp bảo hộ
trong nước là các mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng, tác động lớn đến hoạt động đầu
tư nước ngoài của các TNC. Bên cạnh đó, những biến động giá bất thường của dầu
mỏ, nguyên vật liệu và sự không ổn định về tỷ giá cũng được coi là những mối đe
dọa lớn tác động đến dòng chảy FDI trong hai năm 2008 và 2009. Tâm lý e ngại do
mức độ rủi ro kinh doanh cao khi đưa ra quyết định đầu tư đã khiến dòng vốn FDI
bị hạn chế về cả số lượng cũng như quy mô, đồng thời phạm vi đầu tư cũng bị thu
hẹp hơn.
12
Hình 1.3: Chỉ số lợi nhuận và mức lợi nhuận của các TNC năm 1997-2008
Nguồn: World Investment Report 2009
Chỉ số lợi nhuận và mức lợi nhuận của các TNC sụt giảm trong năm 2008.
Theo điều tra của UNCTAD về triển vọng đầu tư trong năm 2008, những tín hiệu
thận trọng trong đầu tư đã xuất hiện. Có 61% trong các công ty được điều tra vẫn
gia tăng các kế hoạch đầu tư vào năm 2008 so với năm 2007. Tuy nhiên, phần lớn
trong đó chỉ dự định tăng quy mô trên mức độ vừa phải. Đa số các công ty đều cho
thấy những kế hoạch cắt giảm kế hoạch đầu tư, nhất là những kế hoạch đầu tư ở
nước ngoài (Hình 1.4). Những số liệu cũng cho thấy lo ngại của các TNC về ảnh
hưởng tiêu cực từ sự suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính ngày một gia tăng,
cũng tác động mạnh làm suy giảm dòng vốn FDI trong thời kỳ khủng hoảng.
13
Hình 1.4: Tỷ lệ phần trăm các TNC cắt giảm đầu tư tại các khu vực khác nhau
vì cuộc khủng hoảng
Đơn vị: phần trăm
Nguồn: World Investment Report 2009
Mức độ rủi ro tăng cao, đặc biệt là từ những biến động về tỷ giá và những
thay đổi trong chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài của các quốc gia, đã khiến
các TNC có định hướng thu hẹp phạm vi đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động tìm kiếm
và nghiên cứu thị trường được tăng cường nhằm giúp các công ty có thể phân loại

nhằm tập trung vào những thị trường ít rủi ro hơn. Phần lớn các TNC đều có chiến
lược thu hẹp hoạt động đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng về thị trường trong nước,
nhằm tạo những cú hích vực lại nền kinh tế đồng thời cũng tận dụng được những ưu
đãi về chính sách nội địa. Những tác động sâu sắc này cũng đã tạo ra xu hướng
thoái lui lớn trong dòng vốn FDI trên thế giới, tuy nhiên ở các mức độ khác nhau
tùy theo từng khu vực địa lý và nền kinh tế.
Tuy nhiên cuộc khủng hoảng không hoàn toàn ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt
động đầu tư của các công ty đa quốc gia. Trong giai đoạn khủng hoảng, giá trị tài
sản của công ty, tập đoàn kinh tế có xu hướng giảm mạnh. Đây là điều kiện thuận
lợi để các tập đoàn có nguồn tài chính dồi dào thực hiện các thương vụ mua bán sáp
nhập (M&A) nhằm củng cố sự hiện diện của mình ở thị trường nước ngoài và đầu
tư cải tiến kĩ thuật. Trong năm 2008, nhóm 100 TNC lớn nhất thế giới đã tiến hành
21 vụ mua bán sáp nhập với tổng giá trị 3 tỉ đô la. Có thể kể đến những thương vụ
của Bank of America mua lại Merrill Lynch, Santander thâm nhập vào thị trường
Mĩ bằng cách mua lại cổ phần của Sovereign Bancorp, Numura (Nhật Bản) và
Barclays (Anh) mua lại tài sản của Lehman Brothers nhằm mở rộng hoạt động của
mình. Đầu năm 2009, Royal Bank of Scotland (Anh) đã bán toàn bộ cổ phần của
mình ở Bank of China với giá 2,3 tỉ đô la, Bank of America giảm cố phần của mình
ở China Construction Bank bằng cách bán 7.3 tỉ đô la cổ phần. Những công ty đã có
14
tình hình tài chính đáng lo ngại từ trước khủng hoảng không còn lựa chọn nào khác
ngoài việc bị mua lại với giá rẻ. Chryler, Endesa, Volvo đều đã bị mua lại. Ngược
lại, những công ty chịu ảnh hưởng ít hơn, có nguồn tài chính dồi dào như Suez, Fiat,
Roche tận dụng cơ hội để mua lại các công ty khác và tăng lợi thế cạnh tranh.
1.2. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đến dòng
vốn FDI theo từng khu vực trên thế giới
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế có tác động sâu sắc đến môi
trường đầu tư và kinh doanh trên toàn thế giới, tuy nhiên với các mức độ khác nhau
tùy thuộc vào từng khu vực kinh tế cũng như từng quốc gia cụ thể. Chính những
khác biệt này cũng tác động đến chiều hướng dòng chảy FDI trong giai đoạn 2008

và 2009. Khác với cuộc khủng hoảng Đông Á 1997, khi khu vực các nước đang
phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, làm mất dần sức hấp dẫn của môi trường
đầu tư, thì cuộc khủng hoảng năm 2008 lại đánh dấu chiều hướng hoàn toàn trái
ngược. Cuộc khủng hoảng vừa qua xuất phát và ảnh hưởng trực tiếp đến một hệ
thống các quốc gia phát triển, tác động mạnh mẽ làm suy giảm sức thu hút của môi
trường đầu tư tại các quốc gia này.
Thực tế cũng cho thấy dòng vốn FDI chảy vào khu vực các nền kinh tế phát
triển dẫn đầu xu hướng suy giảm trên toàn cầu. Trong khi đó, với những tác động
gián tiếp và ít nghiêm trọng hơn từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới, các nền kinh tế
đang phát triển và các nền kinh tế chuyển tiếp tỏ ra hấp dẫn tương đối về môi
trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo báo cáo Đánh giá Đầu tư toàn cầu công bố cuối tháng 1/2014 của Hội
nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), dòng vốn FDI trong
năm 2013 (bao gồm các dự án đầu tư mới, cũng như các dự án sát nhập và mua lại
và đầu tư chứng khoán) ước tính đạt 1.461 tỷ USD trong năm 2013, tương đương
với mức trung bình của thời trước khủng hoảng.
Hình 1.5. FDI toàn cầu, trung bình giai đoạn 2005-2007, giai đoạn 2007-2013
15
Nguồn: UNCTAD.
UNCTAD cũng chỉ ra tỷ lệ vốn FDI vào các nước phát triển năm 2013 chỉ
chiếm 39% vốn FDI toàn cầu và đây là năm thứ 2 liên tiếp thấp nhất trong lịch sử.
FDI vào nhóm nước này đã tăng 12% trong năm 2013, ước đạt 576 tỷ USD nhưng
chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 44% so với mức đạt được trong năm 2007, thời điểm mà vốn
đầu tư vào các nền kinh tế phát triển đạt mức cao nhất. Trong nhóm nước này, dòng
vốn FDI vào Hoa Kỳ tiếp tục sụt giảm trong năm 2013, mặc dù quốc gia này hiện
vẫn là nước thu hút FDI nhiều nhất trên thế giới (159 tỷ USD).
Trong năm 2013, FDI vào các nền kinh tế đang phát triển ước đạt mức khá
cao là 759 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn FDI toàn cầu. UNCTAD nhấn mạnh rằng
sự phục hồi của FDI toàn cầu chủ yếu là nhờ vai trò ngày càng tăng của nhóm nước
này trong thu hút FDI.

Hình 1.6: FDI vào các nhóm nước, giai đoạn 1991-2013 (%)
16
1.2.1. Khu vực các nền kinh tế phát triển: Bắc Mỹ, khu vực EU, các quốc gia
phát triển tại châu Á, khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập châu Âu
CIS, các quốc gia phát triển khác
Các nền kinh tế phát triển bắt đầu chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc
khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ từ đầu năm 2008. Sau sự sụp đổ của Lehman
Brothers, một trong những ngân hàng đầu tư lớn tại Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng tài
chính lan rộng sang châu Âu và các nền kinh tế phát triển tại châu Á như Nhật Bản,
Úc, Niu Di Lân. Các nền kinh tế này nhanh chóng đón nhận những tác động nghiêm
trọng đến dòng vốn FDI ngay trong năm 2008 với mức sụt giảm 29% so với năm
2007, xuống còn 962 tỷ USD. Tình hình trong năm 2009 càng trở nên trầm trọng
khi dòng vốn FDI khu vực này nhận được chỉ khoảng 566 tỷ USD, giảm 41,2%.
Mặc dù chịu những tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng khiến suy giảm sức
thu hút đầu tư, nhưng các nền kinh tế phát triển vẫn là khu vực chính tiếp nhận phần
lớn dòng vốn FDI toàn cầu. Tuy không có lợi thế về chi phí lao động hay tốc độ
tăng trưởng kinh tế vẫn duy trì âm, nhưng bù lại khu vực các quốc gia phát triển lại
có được quy mô thị trường rộng lớn cùng môi trường kinh doanh chất lượng. Dù
vậy, những lợi thế có được vẫn không đảm bảo cho một tốc độ tăng trưởng dương
của dòng vốn FDI trong giai đoạn này.
Nếu như năm 2007 đánh dấu mức tăng vượt bậc FDI xuất của các nước phát
triển thì năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế,
các công ty đa quốc gia ít khả năng đầu tư ra nước ngoài hơn. Dòng FDI xuất ra
nước ngoài từ Hoa Kỳ giảm cho dù lợi nhuận tái đầu tư của các chi nhánh ở nước
17
ngoài vẫn ổn định. Điều tương tự cũng xảy ra với khối đồng tiền chung Euro, trong
đó ở Anh các TNC cắt giảm tới 60% các hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, trong số
những nước phát triển, Nhật Bản là một ngoại lệ. Các doanh nghiệp Nhật Bản có
tình hình tiền mặt dồi dào, tỉ lệ nợ trên vốn nằm trong mức an toàn. Tận dụng cơ hội
giá trị các công ty suy giảm, các doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường các thương vụ

mua bán và sáp nhập. Vì vậy là FDI đầu tư ra nước ngoài của Nhật tăng mạnh,
trong đó giá trị các vụ M&A đạt 54 tỉ đô la năm 2008. Nhật Bản trở thành một nước
đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ FDI xuất của thế giới.
1.2.2. Khu vực các nền kinh tế đang phát triển Đông, Nam và Đông Nam Á,
Tây Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh
Trong năm 2008, các nước đang phát triển chưa chịu tác động trực tiếp của
cuộc khủng hoảng kinh tế bởi hệ thống tài chính ở các quốc gia này có sự liên kết
chưa chặt chẽ với hệ thống tài chính của Hoa Kỳ và châu Âu, tốc độ tăng trưởng
kinh tế vẫn giữ ở mức cao. Do vậy, dòng vốn FDI nhập vào các nước đang phát
triển vẫn chưa chịu ảnh hưởng lớn như ở các nước phát triển. Lượng vốn FDI vào
các nước này trong năm 2008 vẫn tăng ở mức 17%, không bằng mức tăng trưởng
trong năm 2007, nhưng lại tốt hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng âm tại các quốc
gia phát triển. Bước sang năm 2009, nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái, nó
nhanh chóng tác động mạnh đến dòng vốn FDI vào các quốc gia đang phát triển.
Gánh chịu mức sụt giảm mạnh 35% trong năm 2009, khu vực các nền kinh tế đang
phát triển đã chấm dứt 6 năm đạt tốc độ tăng trưởng dương về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Dòng FDI xuất của các nước đang phát triển tăng 3% trong năm 2008 và bắt
đầu giảm từ quý I năm 2009. Các nước đang phát triển ngày càng chiếm tỉ trọng lớn
trong luồng FDI xuất của thế giới, tăng từ 13% năm 2007 lên 16% năm 2008; trong
đó nổi lên như Trung Quốc, Ấn Độ,…
1.2.3. Các nền kinh tế chuyển tiếp
FDI nhập ở các nền kinh tế chuyển tiếp ở Đông Nam Âu hay khối CIS (Khối
độc lập chung gồm 12 nước là thành viên Liên bang Xô Viết cũ) tăng lên mức cao
nhất trong năm 2008. Mặc dù bị quản lý chặt chẽ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
thành phần các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Liên bang Nga vẫn tăng lên. Tuy
nhiên đến năm 2009, do ảnh hưởng lan tỏa của khủng hoảng kinh tế thế giới, FDI
vào các nền kinh tế chuyển tiếp cũng bắt đầu giảm. FDI xuất của khu vực chuyển
tiếp tăng mạnh trong năm 2008, chiếm 3% toàn thế giới và vẫn duy trì ổn định trong
năm 2009.

18
Hình 1.7: Dòng vào FDI năm 2005-2011 của các nền kinh tế chuyển tiếp
Đơn vị: tỷ Đôla
Hình 1.8: Dòng ra FDI năm 2005-2011 của các nền kinh tế chuyển tiếp
Đơn vị: tỷ Đôla
Nguồn: World Investment Report 2012
19
Chương 2. Chính sách đối phó của các quốc gia trên thế giới trước cuộc
khủng hoảng và suy thoái kinh tế và tác động đến hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Trước những ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng và suy thoái
kinh tế đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, việc đề ra những
chính sách hiệu quả ở cả cấp độ quốc tế tế cũng như quốc gia đóng một vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy dòng vốn FDI vượt qua thời kỳ suy giảm và đạt tăng
trưởng trở lại. Những chính sách khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng và suy
thoái kinh tế cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hoạt động đầu tư
nước ngoài toàn cầu, và theo chiều hướng tiêu cực hay tích cực.
Với khu vực các quốc gia phát triển, nhiều chính phủ đã thực hiện kế hoạch
giải cứu cho các ngành tài chính. Những biện pháp hỗ trợ cũng như bảo đảm của
nhà nước tạo tâm lý an toàn hơn, thúc đẩy hoạt động đầu tư. Hơn nữa, nhiều chính
phủ cũng tìm kiếm sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài cho những gói cứu
trợ trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Bên cạnh chính sách giải cứu cho ngành
tài chính, chính phủ cũng thực hiện những chương trình đầu tư công cộng lớn, chủ
yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng, không chỉ xây dựng niềm tin cho nền kinh tế mà còn
mở ra cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư, đặc biệt là các TNC. Một số quốc gia, chủ
yếu là các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ hay các quốc gia châu Âu, thực hiện
các chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy sự lưu thông dòng vốn, tác
động không nhỏ đến dòng chảy của FDI. Những biện pháp nhằm tạo điều kiện tín
dụng trở nên dễ dàng hơn có thể kích hoạt động đầu tư trở lại.
Tại khu vực các nền kinh tế đang phát triển, những gói kích cầu đầu tư cũng

như tiêu dùng công cộng đã được tung ra nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoạt
động đầu tư công cũng được đẩy mạnh nhằm nâng cao triển vọng của nền kinh tế
cũng như niềm tin của các nhà đầu tư tạo ra những lợi thế thu hút dòng vốn FDI.
Những chính sách ưu đãi về thuế cũng như những điều kiện đảm bảo của chính phủ
nhiều quốc gia cũng tạo ra tâm lý an toàn hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, thúc
đẩy hoạt động đầu tư.
Trên phạm vi toàn cầu, những hiệp định thương mại được ký kết nhằm rỡ bỏ
những rào cản trong hoạt động buôn bán hàng hóa, dịch vụ quốc tế. Nhiều sáng kiến
chung về cung cấp bảo hiểm cho hoạt động đầu tư cũng như xuất nhập khẩu cho các
doanh nghiệp nước ngoài cũng góp phần cải thiện dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại nhiều khu vực.
Hoạch định chính sách đầu tư quốc tế đang trong quá trình chuyển đổi. Đến
cuối năm 2012, các hiệp định đầu tư quốc tế (IIA) bao gồm 3196 điều ước quốc tế.
20
Ngày nay, các quốc gia ngày càng tăng lợi ích trong khu vực thông qua hiệp định
song phương tiếp cận tới quy tắc IIA và đưa vào điều khoản các yếu tố phát triển
bền vững. UNCTAD đề xuất năm con đường cho cải cách trọng tài đầu tư quốc tế.
Điều này đáp ứng giải quyết các cuộc tranh luận về những ưu và khuyết điểm của
chế độ trọng tài đầu tư. Năm giải pháp cải cách là: thúc đẩy giải quyết tranh chấp
thay thế, sửa đổi hệ thống ISDS hiện có thông qua (IIA) riêng biệt, giới hạn tiến
trình của nhà đầu tư trong hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư quốc gia (ISDS),
giới thiệu một phương tiện kháng cáo và tạo ra một tòa án quốc tế đầu tư hiện hành.
Nỗ lực tập thể ở cấp đa phương có thể giúp phát triển một sự đồng thuận trong tiến
trình hành động.
Tuy vậy, nhiều biện pháp nhằm giải cứu nền kinh tế trong nước cũng tác
động tiêu cực đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Việc nhiều quốc gia phải quốc hữu
hóa các doanh nghiệp tư nhân, mua lại cổ phần của các công ty tài chính, bảo hiểm
và ngân hàng cũng hạn chế hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân, trong đó có đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, nhiều nền kinh tế cũng thực hiện chính sách
bảo hộ cho các ngành công nghiệp quan trọng trong nước tạo ra tâm lý e ngại đối

với các nhà đầu tư nước ngoài, gây hạn chế về cả số lượng cũng như quy mô của
các dự án đầu tư.
2.1. Những xu hướng chính về chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên thế giới
2.1.1. Chính sách trên cấp độ quốc tế
Rất nhiều quốc gia đã thực hiện kế hoạch mua lại, đưa ra những gói trợ giúp các
doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty thuộc lĩnh vực tài chính. Nhiều nước phát
triển cũng như đang phát triển đã thực hiện những gói kích thích kinh tế bao gồm
những chương trình đầu tư, cắt giảm thuế và lãi suất. Những biện pháp này có tác
động tích cực tới dòng vốn FDI.
Bên cạnh việc cải cách hệ thống tài chính, các quốc gia còn tích cực tham gia vào
các hiệp định quốc tế. Trong suốt năm 2008, hệ thống các hiệp định đầu tư quốc tế
(IIA) không ngừng được mở rộng (Hình 2.1), 59 hiệp định đầu tư song phương
(BIT) mới được kí kết. Cùng với đó là hiệp định quan trọng về chống đánh thuế hai
lần (DTTs). Những hiệp định giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
vẫn chiếm phần lớn với 38% số hiệp định mới.
Phần lớn trong số các hiệp định được ký kết mới là các hiệp định tự do
thương mại liên quan đến tự do hóa đầu tư và bảo hộ. Về một khía cạnh nào đó, các
hiệp định đầu tư quốc tế đóng vai trò ngăn chặn chủ nghĩa bảo hộ đầu tư. Các hiệp
định này dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử, buộc các nước kí kết phải đối
21
xử công bằng với các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Một loạt những
ví dụ cho những nỗ lực này như: Cộng đồng chung châu Âu EC kí hiệp định thành
viên kinh tế với 15 CARIFORUM States với việc nhấn mạnh vai trò của tự do hóa
đầu tư; ASEAN cũng kí kết hiệp định với Nhật Bản trong việc hợp tác đầu tư; Hội
đồng hợp tác vùng vịnh (GCC) lần đầu tiên kí kết hiệp định với Singapore và giữa
các nước thành viên với nhau; Hoa Kì kí kết Hiệp định khung thương mại và đầu tư
với Cộng đồng các quốc gia Đông Phi và Hiệp định hợp tác thương mại và đầu tư
với Cộng đồng các quốc gia Nam Phi. Những hiệp định này thiết lập khung cơ sở
cho việc quản lý thương mại và quan hệ đầu tư giữa các bên tham gia và được cho

là biện pháp để xúc tiến đầu tư.
Tại hội nghị thượng đỉnh G20 ở Washington D.C. vào ngày 14 tháng 11 năm 2008,
các nhà lãnh đạo của các nước này đã tuyên bố trong vòng 12 tháng, các nước này
sẽ hạn chế việc đưa ra các rào cản đầu tư, thương mại. Tuyên bố này còn được tái
khẳng định tại hội nghị thượng đỉnh G20 2 tháng 4 năm 2009 với lời cam kết không
sử dụng các biện pháp bảo hộ tài chính đặc biệt là các điều luật nhằm hạn chế dòng
lưu chuyển vốn trên thế giới.
Tuy nhiên, những năm gần đây xuất hiện các xu hướng trong việc ký kết các hiệp
định đầu tư quốc tế (IIA) như sau:
- Tiếp tục từ chối trong việc ký kết các hiệp định
Mặc dù IIA tiếp tục mở rộng và nhiều cuộc đàm phán đang được tiến hành, theo
thống kê tổng số các điều ước quốc tế hàng năm đã giảm xuống ở mức thấp nhất.
Năm 2012 cho thấy số lượng các giao dịch ký kết của 30 IIAs (20 BIT và 10 “các
IIA khác”
3
), nâng tổng số lên 3.196 (2,857 BIT và 339 “các IIA khác”) vào cuối
năm 2013. BIT đã chạm đáy vào năm 2012, với số lượng ký kết là 20 BIT ký – con
số thấp nhất trong một phần tư thế kỷ qua.
Suy thoái này được thể hiện rõ ràng bảng so sánh hàng năm (Hình 2.2). Từ năm
2010 đến 2012, trung bình một IIA được ký kết trong tuần. Con số này chỉ bằng một
phần tư so với tần số ký kết trong thời kỳ cao điểm vào những năm 1990, khi trung
bình một tuần bốn điều ước quốc tế đã được ký kết.
Trong số 10 “các IIA khác” được ký kết vào năm 2012, có 8 hiệp định khu
vực được ký kết. Trong khi phần lớn BIT lại tương tự như nhau, “các IIA khác”
khác biệt đáng kể. Các thỏa thuận được ký kết vào năm 2012 có thể được nhóm lại
thành ba loại lớn, được xác định trong Báo cáo đầu tư quốc tế năm 2010.
3 đề cập đến các hiệp định kinh tế, trừ BIT, bao gồm các quy định liên quan đến đầu tư (ví dụ, hiệp
định khung về hợp tác kinh tế), chương đầu tư trong các hiệp định đối tác kinh tế và các FTA.
22
+ Quy định IIA và BIT là tương đương: Hiệp định thương mại tự do Úc-

Malaysia (FTA) và thỏa thuận đầu tư Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc giảm trong
danh mục của IIAs có chứa nghĩa vụ thường được tìm thấy trong BIT, bao gồm cả
tiêu chuẩn nội dung của bảo hộ đầu tư và các quy định giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế (ISDS).
+ IIA với quy định đầu tư hạn chế: Các hiệp định của EU với Peru và
Colombia, Iraq, và các nước Trung Mỹ Trung có quy định hạn chế đầu tư (ví dụ như
trước khi thành lập đối xử quốc gia dựa trên một danh sách các phương pháp tiếp
cận tích cực, di chuyển tự do của vốn liên quan đến đầu tư trực tiếp). FTA Chile-
Hồng Kông (Trung Quốc) cũng thuộc trong thể loại này (ví dụ như đối xử quốc gia
cho việc thành lập công ty, dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ, bao gồm cả trong lĩnh
vực tài chính, theo đúng tiến độ của mỗi bên). Các IIA quy định hợp tác đầu tư
và/hoặc đàm phán nhiệm vụ trong tương lai. Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC)
Hiệp định khung với Peru và Hoa Kỳ, Hiệp định Khung Nam EU-Việt và Hiệp định
khung Pacific Alliance (Chile, Colombia, Mexico và Peru) rơi vào thể loại thứ ba.
Các thỏa thuận này có quy định chung về hợp tác trong các vấn đề đầu tư và/hoặc
một nhiệm vụ cho các cuộc đàm phán trong tương lai về đầu tư.
+ IIA với quy định hợp tác đầu tư và/hoặc đàm phán uỷ quyền trong tương
lai: Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) Hiệp định khung với Peru và Hoa Kỳ,
Hiệp định Khung Nam EU-Việt và Hiệp định khung Pacific Alliance (Chile,
Colombia, Mexico và Peru) rơi vào thể loại thứ ba. Các thỏa thuận này có quy định
chung về hợp tác trong các vấn đề đầu tư và /hoặc một nhiệm vụ cho các cuộc đàm
phán trong tương lai về đầu tư.
23
Hình 2.1: Xu hướng các IIA giai đoạn 1983 - 2012
Nguồn: World Investment Report 2013
- Bao thanh toán, tự chịu lỗ lãi trong phát triển bền vững
Các IIA mới minh họa cho xu hướng ngày càng tăng của hoạch định chính
sách để xây dựng các điều ước quốc tế phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Nghiên cứu một cách kỹ càng về nội dung của 17 IIA được tổng kết vào năm
2012 mà các văn bản có sẵn cho thấy rằng các hiệp định đặc biệt ngày càng phát

triển theo định hướng bền vững
4
. Trong số các IIA này có 12 hiệp định (bao gồm 8
BIT) đề cập đến việc bảo vệ sức khỏe và an toàn, quyền lao động, môi trường, phát
triển bền vững trong giai đoạn đầu của hiệp định; 10 (bao gồm 6 BIT) có trường
hợp ngoại lệ chung - ví dụ để bảo vệ con người, động vật, hoặc thực vật, hoặc bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, 14 và 7 (bao gồm cả 4 BIT) có những điều
khoản quy định một cách rõ ràng rằng các bên không nên nới lỏng các tiêu chuẩn
sức khỏe, an toàn hoặc tiêu chuẩn về môi trường thu hút đầu tư. Tham chiếu tới
trách nhiệm xã hội (CSR) xuất hiện ít thường xuyên hơn nhưng có thể được tìm
thấy trong các chương “thương mại và phát triển bền vững” của FTA EU-
4 Phân tích được dựa trên đánh giá của 16 IIA ký vào năm 2012 mà văn bản đã ghi sẵn cụ thể là BIT
Albania-Azerbaijan, Úc-Malaysia FTA, Bangladesh-Thổ Nhĩ Kỳ BIT, Cameroon-Thổ Nhĩ Kỳ BIT, Canada-
Trung Quốc BIT, Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc thỏa thuận đầu tư ba bên, Hiệp định Trung EU Hiệp hội
Mỹ, EU-Colombia-Peru FTA, Iraq EU-Đối tác và Hiệp định Hợp tác (PCA), cựu Nam Tư Cộng hòa
Macedonia-Kazakhstan BIT, Gabon-Thổ Nhĩ Kỳ BIT, Iraq-Nhật Bản BIT , Nhật Bản-Kuwait BIT, Nicaragua-
Liên bang Nga BIT và Pakistan-Thổ Nhĩ Kỳ BIT. Phân tích không bao gồm hiệp định khung.
24
Colombia-Peru và trong giai đoạn đầu của thỏa thuận đầu tư Trung Quốc-Nhật Bản-
Hàn Quốc.
Những đặc trưng phát triển bền vững được bổ sung bởi các mục trong hiệp
định với mục đích rộng hơn để bảo vệ không gian pháp lý cho chính sách công nói
chung hoặc để giảm thiểu các tranh chấp đầu tư nói riêng. Các thỏa thuận được
phân tích bao gồm quy định (i) tập trung phạm vi hẹp của hiệp định (ví dụ như bằng
cách loại trừ các tài sản cố định từ định nghĩa về đầu tư), (ii) làm rõ nghĩa vụ (bằng
cách làm rõ các điều khoản chi tiết về đối xử công bằng và công bằng hoặc tước
quyền sở hữu gián tiếp); (iii) quy định ngoại lệ đối với các nghĩa vụ chuyển giao
của các quỹ hoặc tách ra khỏi các biện pháp bảo đảm an toàn; hoặc (iv) điều chỉnh
một cách thận trọng tiến trình tham gia vào ISDS (điều khoản đó, ví dụ như quy
định giới hạn điều ước quốc tế mà có thể ISDS, loại trừ lĩnh vực chính sách cố định

từ ISDS, đưa ra một cơ chế đặc biệt cho các biện pháp thuế và bảo đảm an toàn,
hoặc hạn chế khoảng thời gian được phân bổ trong đó tuyên bố có thể được đệ
trình). Một số thỏa thuận bỏ qua các điều khoản bảo trợ hay bỏ qua ISDS hoàn toàn.
Tất cả trong số 17 IIA ký vào năm 2012 mà các văn bản đã có sẵn bao gồm
một hoặc nhiều quy định theo hướng này. Đa số các quy định tương ứng với lựa
chọn chính sách đặc trưng trong Khung chính sách đầu tư của UNCTAD cho phát
triển bền vững hoặc IPFSD.
2.1.2. Chính sách trên cấp độ quốc gia
Theo điều tra năm 2008 của UNCTAD về những thay đổi về pháp luật liên
quan đến FDI cho thấy 110 điều luật mới đã được ban hành ở 55 quốc gia. Trong số
đó có 85 điều luật có tác động tích cực đối với FDI. Trên cấp độ khu vực, Đông Á,
Nam Á, Đông Nam Á và châu Đại dương có mức độ cải cách luật pháp nhiều nhất.
Ở tất cả các khu vực, những điều luật có lợi đối với FDI đều chiếm tỉ lệ cao hơn
những điều luật bất lợi.
Với các nước phát triển và các nền kinh tế chuyển tiếp, xu hướng chung là
thay đổi các chính sách và pháp lý của quốc gia theo hướng mở cửa thị trường và
tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài tiến hành các hoạt động
kinh doanh. Những sự thay đổi bao gồm việc cho phép mở rộng đầu tư vào các
ngành trước đây bị hạn chế, giảm bớt các điều kiện, tăng cường các chương trình hỗ
trợ và bảo vệ các nhà đầu tư. Thêm vào đó, các chính phủ thực hiện mới hoặc kéo
dài các gói hỗ trợ và kích thích kinh tế nhằm đối phó với khủng hoảng. Ví dụ cho sự
thay đổi trong pháp lý theo hướng có lợi cho FDI là việc Ấn Độ xóa bỏ hoặc tăng
mức trần FDI trong các ngành công nghiệp cuối năm 2008 đầu 2009. Hàn Quốc
cũng thực hiện chính sách thông thoáng hơn trong lĩnh vực R&D với việc cho phép
25

×