Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 162 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
____________________

Lê Thị Nga

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

Chuyên ngành : Địa Lý học
Mã số
: 60 31 95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng

Thành phố Hồ Chí Minh – 2008


LỜI CẢM ƠN
Để luận văn được hoàn thành, tác giả xin được bày tỏ lịng kính trọng và
chân thành cảm ơn sâu sắc đến các Thầy Cô Giáo Khoa Địa Lý trường Đại Học Sư
Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy cho tơi trong suốt thời gian
học từ 2005 – nay, để tơi có đủ kiến thức lý thuyết phục vụ cho quá trình làm luận
văn. Đặc biệt là Thầy Giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn Kim Hồng, người
đã hướng dẫn chu đáo cho tác giả từ khâu đọc tài liệu, xác định đề tài, viết đề cương
nghiên cứu và sữa chữa những thiếu sót trong luận văn của tác giả. Bên cạnh đó,
Thầy đã tạo điều kiện thuận lợi và có nhiều ý kiến quý báu giúp tác giả hoàn thành
luận văn đúng thời hạn và rút ra nhiều nhận định trong nghiên cứu khoa học.


Xin cảm ơn các Thầy Cô và các Anh, Chị Phịng Khoa học cơng nghệ và sau
Đại học, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Ngô Quyền đã tạo điều
kiện thuận lợi về mặt thời gian để tơi có thể n tâm hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn UBND tỉnh, Sở Kế Hoạch và Đầu Tư, Sở Công nghiệp, Ban
Quản Lý Khu công nghiệp, Cục thống kê, Trung tâm xúc tiến đầu tư tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu đã cung cấp cho tôi các nguồn số liệu quý giá để phục vụ cho luận văn.
Tác giả biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn bè đã ln động viên,
khích lệ để tác giả hồn thành khóa học và luận văn của mình.
Do thời gian, nguồn số liệu, tài liệu và khả năng của tác giả có giới hạn nên luận
văn khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế, tác giả rất mong nhận được sự góp ý
từ phía Thầy Cơ và các bạn đồng nghiệp để tác giả có thể rút ra được nhiều bài học quý
giá và khắc phục trong lần nghiên cứu tiếp theo nếu tác giả có đủ điều kiện.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Lê Thị Nga


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN

: Các nước Đông Nam Á.

APEC

: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương.

BR-VT

: Bà Rịa – Vũng Tàu.


CN

: Cơng nghiệp.

CN-TTCN : Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
EU

: The European Union - Liên minh Châu Âu

FDI

: Foreign Direct Investment – Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

FTA

: Hiệp định thương mại tự do.

GATS

:

GDP

: Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm trong nước

GNP

: Gross National Product – Tổng sản phẩm quốc nội.


GO

: Tổng giá trị sản xuất

IMF

: International Moneytary Fund - Quỹ tiền tệ thế giới.

KCN

: Khu công nghiệp.

KT – XH

: Kinh tế - xã hội.

NAFTA

: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ.

OECD

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

TNCs

: Các công ty đa quốc gia.

UBND


: Ủy ban Nhân dân

Hiệp định thương mại dịch vụ của WTO.

UNCTAD : Uỷ Ban Thương Mại và phát triển Liên Hợp Quốc
WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

WB

: World Bank - Ngân hàng thế giới.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, tồn cầu hóa đang ngày càng phổ biến và trở thành một xu hướng
phát triển tất yếu trong lịch sử nhân loại.
Khi xu hướng tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh
cả về quy mô lẫn tốc độ dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới, vai trò
của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của các quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là dấu hiệu phê chuẩn của thị
trường tồn cầu về chính sách và triển vọng phát triển kinh tế của một nước, là động
lực để có thể tạo ra những thay đổi sâu rộng trong phát triển quan hệ quốc tế ở nhiều
lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, ngoại giao. Đầu tư trực tiếp nước ngồi
đồng thời trở thành cơng cụ sắc bén cho phát triển và hội nhập toàn cầu, mở rộng thị
trường, cắt giảm chi phí tăng thêm sức mạnh cạnh tranh của các quốc gia.
Thật vậy, sức mạnh của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động lên nền kinh
tế Việt Nam đang thể hiện rõ tầm quan trọng của nó. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi giúp các tỉnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại

hóa, mở ra nhiều ngành nghề và sản phẩm mới, góp phần nâng cao năng lực quản lý
và tăng năng suất lao động, phát triển công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo
việc làm, nâng cao mức sống của người lao động.
Và quả ngọt đầu tư trực tiếp nước ngoài mà Việt Nam thu hoạch được trong thời gian
qua phần lớn dựa vào quá trình 20 năm cải cách và một phần dựa vào ngoại cảnh.
Thành tựu đáng kể đó khơng thể khơng kể đến nỗ lực của các tỉnh trong việc thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một trong những tỉnh có đóng góp to lớn vào việc thu hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài phải kể đến ở miền Đông Nam Bộ là Bà Rịa - Vũng Tàu. Bà Rịa
– Vũng Tàu là địa bàn quan trọng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Bà
Rịa – Vũng Tàu – Đồng Nai – Bình Dương – Thành Phố Hồ Chí Minh; nên việc thu
hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi khơng những góp phần quan trọng


trong phát triển kinh tế của tỉnh nhà mà còn thể hiện sự đóng góp của mình trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế tồn miền Đơng Nam Bộ và cả nước.
Tính đến cuối năm 2007, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi phân theo địa
phương thì Bà Rịa – Vũng Tàu đứng ở vị trí thứ năm sau Thành Phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương về thu hút vốn đầu tư với 206 dự án và tổng vốn đầu
tư là 9,1 tỷ USD.
Đặc biệt, trong tương lai khơng xa, Vũng Tàu có thể sẽ trở thành thành phố
trực thuộc trung ương, vai trị của nó sẽ ngang hàng với Hà Nội, Đà Nẵng, Thành Phố
Hồ Chí Minh; khi đó u cầu phát triển kinh tế - xã hội sẽ cao hơn và nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài càng thể hiện rõ nét sức mạnh của nó.
Vì vậy thiết nghĩ, việc nghiên cứu, đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước
ngồi và xác định rõ vai trò cũng như tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối
với phát triển kinh tế của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là hết sức cần thiết. Đồng thời đưa
ra một số giải pháp giúp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thu hút và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong phát triển
kinh tế.

Do yêu cầu cấp thiết, tính khoa học và tính thực tế của vấn đề đầu tư trực tiếp
nước ngồi nên tơi mạnh dạn chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát
triển kinh tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” làm luận văn tốt nghiệp.
Đây là một đề tài thuộc lĩnh vực kinh tế rất khó, nguồn tài liệu và số liệu thống
kê rất hiếm nên việc hồn thành cơng việc nghiên cứu của tơi gặp rất nhiều khó khăn;
và do vậy luận văn của tơi khơng thể tránh được một số thiếu sót. Tơi thực sự mong
muốn Quý Thầy Cô và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tơi có thể hồn thiện
hơn đề tài của mình trong lần nghiên cứu tiếp theo nếu tơi có đủ điều kiện.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được: Đầu tư trực tiếp nước ngồi có tác động tích cực và tiêu cực
như thế nào đối với sự phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Tìm ra các giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế của Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phát hiện các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bà Rịa –
Vũng Tàu.
- Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến kinh tế Bà Rịa – Vũng
Tàu.
- Tìm ra các giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm giảm thiểu
các tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển kinh tế của
tỉnh.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Phân tích, đánh giá các yếu tố:
+ Số dự án được cấp phép.
+ Số dự án phân theo ngành kinh tế và lĩnh vực đầu tư.
+ Quy mô dự án, số vốn bình quân một dự án.
+ Đối tác đầu tư chủ yếu.

+ Môi trường đầu tư.
- Về thời gian: Từ 1995 – 2007; đặc biệt từ 2000 – 2007 .
- Về không gian: Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Do thiếu các dữ liệu cần thiết và số liệu không đủ, không thể sử dụng phương
pháp phân tích định lượng nên nghiên cứu này tơi chỉ sử dụng phương pháp phân tích
định tính sử dụng số liệu thống kê, tổng kết tình hình FDI vào Bà Rịa – Vũng Tàu
dựa vào số liệu thống kê. Các kết luận về tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế
chủ yếu dựa vào tỷ trọng của FDI so với tổng đầu tư xã hội và đóng góp của khu vực


FDI vào tổng thu nhập quốc dân GDP trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoặc vào
tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành.
- Thu thập và phân tích tài liệu, số liệu liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong phạm vi cả nước và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, thông qua các cơ quan Trung
Ương, cấp tỉnh, Sở công nghiệp và các nguồn liên quan. Các tài liệu thống kê luôn
được bổ sung, cập nhật và được tôi chọn lọc, tổng hợp và phân tích trong mối tương
quan, ảnh hưởng lẫn nhau, làm cơ sở cho mục đích nghiên cứu.
- Phân tích số liệu thống kê kết hợp so sánh.
- Phương pháp khai thác phần mềm của hệ thống thông tin: các chương trình
phần mềm hỗ trợ xử lý thơng tin như Word, Excel, MapInfo.... được sử dụng để xử
lý, phân tích kết quả nghiên cứu được thể hiện qua các bảng thống kê, bản đồ, biểu
đồ.
6. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngồi là một đề tài khó, trong nước đã có nhiều nhà
khoa học tiến hành nghiên cứu.
Một số trong đó là: Đề tài “Đánh giá vai trị của đầu tư trực tiếp nước ngồi
trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh” (do Thạc Sỹ
Nguyễn Văn Quang chủ nhiệm, Viện kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh, 2004).
- Đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thành Phố Hồ Chí Minh – tình trạng và

giải pháp” (do TSKH Trần Trọng Khuê, TS. Trương Thị Minh Sâm, PGS.TS Đặng
Văn Phan và các cộng sự thực hiện).
- Đề tài: “Tìm hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành Phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 1991 – 2003” (do Cao Văn Biên Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
thực hiện).
Nhìn chung các nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tập trung vào
địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Ngồi ra cịn có một số bài báo phóng sự nhưng chỉ
dừng lại ở mức độ cung cấp thơng tin, gợi mở các vấn đề mang tính khái quát.
Riêng việc nghiên cứu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu, tác giả chưa thấy cơng trình nghiên cứu nào. Mặt khác, Bà Rịa – Vũng Tàu là


một tỉnh có nhiều đặc trưng trong phát triển kinh tế, đóng góp vào ngân sách nhà
nước một nguồn thu đáng kể hằng năm. Bên cạnh đó, Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh mà
tác giả đã công tác tại đây từ 2002 – nay, tác giả nhận thấy được sự thay da đổi thịt
của vùng đất này. Để lý giải cho sự thay đổi đó, tác giả nhận thấy sự phát triển kinh tế
của tỉnh cần và có sự đóng góp của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Vì vậy
nghiên cứu về “đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu” một mặt để thõa mãn nhu cầu nghiên cứu của bản thân và có thể đưa ra một số
giải pháp giúp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, đặc biệt là thời kỳ hậu WTO.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn phải giải quyết trình tự các chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh
tế.
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế của tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế của tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngồi
1.1.1. Lịch sử hình thành đầu tư trực tiếp nước ngồi
Dựa vào tiêu chí mức độ phát triển đầu tư quốc tế, chính sách đầu tư quốc tế,
tình hình chính trị trên thế giới và sự phân tích của UNCTAD, lịch sử đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên thế giới được chia thành các giai đoạn phát triển sau: [39]
Thứ nhất, giai đoạn từ 1870 – 1913. Giai đoạn này được xem là “kỷ nguyên
vàng” của quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế. Xuất khẩu tăng ở các nước phát triển.
Di cư lao động quốc tế được tự do và tăng nhanh. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển
dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp thông qua cách mạng công nghiệp:
Anh (thế kỷ 18), Pháp (thế kỷ 19), Đức ( thế kỷ 19)…tạo điều kiện phát triển khoa học
công nghệ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ này đạt 14 tỷ USD (chiếm 1/3 tổng vốn
đầu tư trên toàn thế giới). Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là để khai thác thuộc
địa.
Thứ hai, giai đoạn từ 1914 – 1945. Đây là thời kỳ xảy ra hai cuộc đại chiến:
Thế giới thứ nhất và hai. Thời kỳ này các mối liên kết kinh tế giữa các quốc gia bị
xóa bỏ, hoạt động thương mại và tài chính bị hạn chế. Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư
nước ngồi lại ít chịu ảnh hưởng. Từ 1914 – 1938 vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
tăng gấp đơi thời kỳ trước, đạt 26 tỷ USD.
Thứ ba, giai đoạn 1945 – 1990: Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngồi được khơi phục. Khoa học, cơng nghệ thời kỳ hậu
chiến tranh đã phát triển nhanh chóng, đặc biệt là lĩnh vực vận tải, truyền thông. Thời
kỳ này nền kinh tế thế giới có những chuyển biến sâu sắc: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO) ra đời năm 1967 để bảo vệ quyền sáng chế, phát minh công nghệ tiên
tiến. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được ký kết năm 1947. Nền kinh
tế thế giới bước vào giai đoạn hội nhập, hoạt động thương mại quốc tế phát triển

nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng thương mại tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng sản


xuất sản phẩm. Về di cư lao động quốc tế bị hạn chế và thắt chặt thông qua Luật
Nhập cư của các nước trên thế giới.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi có sự thay đổi: xuất hiện đầu tư giữa các nước Tư
Bản phát triển hoặc giữa các nước đang phát triển với nhau. Vốn đầu tư nước ngoài
tăng mạnh trong thập niên giữa 1980 và 1985. Riêng giai đoạn 1960 – 1990 tăng từ
68 tỷ USD đến 2100 tỷ USD, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm 11%.
Thời kỳ này ở các nước phát triển, các công ty đa quốc gia (TNCS) ra đời với số
lượng lớn, khoảng 37000 TNCS gồm 20600 chi nhánh.
Xu hướng đầu tư vào công nghiệp đã có sự sụt giảm (từ 1970), thay vào đó là
đầu tư vào các ngành dịch vụ. Sự chuyển hướng đầu tư đó thúc đẩy hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài; tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của lĩnh vực dịch vụ là
lớn nhất, chiếm 50% tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một nước đi đầu tư.
Từ giữa 1980, chính sách tự do hóa đầu tư được hình thành và phát triển. Đây là điểm
nổi bật của giai đoạn này.
Thứ tư, giai đoạn từ 1991 – nay: Giai đoạn này, nền kinh tế thế giới bắt đầu đi
vào quá trình hội nhập sâu rộng. Nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới được
thành lập như: NAFTA (1992); WTO (1995); EU (1996)…đã có tác động lớn đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi. Tự do hóa đầu tư với nhiều biện pháp của các
nước, các khu vực và thế giới đã đi vào chiều sâu, có tác dụng hỗ trợ hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài phát triển. Chẳng hạn như Hiệp định thương mại dịch vụ
(GATS) của WTO; Nghị định Thư về khuyến khích và bảo hộ đầu tư của
MERCOSUR; Nghị định Thư về khu vực đầu tư ASEAN…
Giai đoạn này, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi bắt đầu tăng nhanh từ khi
có các Hiệp định đầu tư song phương được ký kết ( 1991 – 1995 – 2000 ). Cấu trúc
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ.
Dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có xu hướng vận động: từ các nước công
nghiệp phát triển sang các nước đang và kém phát triển, từ các nước công nghiệp phát

triển sang các nước công nghiệp phát triển và đầu tư từ các nước đang phát triển sang
các nước đang phát triển và các nước công nghiệp phát triển.


Ở Việt Nam: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi chỉ được xem là hình
thành và phát triển kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam được
ban hành năm 1986 cùng với Đại Hội 6 của Đảng. Đây là một đạo luật quan trọng
trong chính sách đối ngoại “đổi mới” của Đảng và Nhà nước, đóng góp vào sự nghiệp
phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng trong những năm gần đây.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (cả cấp mới và tăng thêm) đã tăng từ 4,1 tỷ
USD (2004) ( tăng 37,8% so với năm 2003) lên 5,8 tỷ USD năm 2005 và 10,2 tỷ
USD năm 2006 và khoảng 20,3 tỷ USD năm 2007, dự kiến tăng lên khoảng gần 25 tỷ
USD năm 2008, nhưng thực tế đến cuối tháng 6 năm 2008 đã tăng lên trên 31 tỷ
USD. Nhìn chung vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam tăng cả về quy mô dự
án và số vốn góp.
Dựa vào mức độ phát triển của dịng vốn, phân kỳ đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn lớn: [29], [36], [37].
Sau 1975 – trước 1988.
Từ 1988 – nay.
Giai đoạn 1975 – trước 1988: Việt Nam chủ yếu quan hệ với các nước XHCN, do
vậy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ mới bắt đầu thực hiện giữa các nước
XHCN và đã xuất hiện ở Việt Nam một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng
các dự án này hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh giữa các nước
XHCN và Việt Nam.
Giai đoạn từ 1988 – nay:
Từ 1988 – 1996: Vốn FDI vào Việt Nam liên tục tăng với tốc độ nhanh cả về
số dự án, số vốn đăng ký mới tăng và đạt mức 8,9 tỷ USD vào năm 1996. Kết quả đạt
được đó là do quan điểm của Việt Nam về việc mở cửa thu hút đầu tư đã có nhiều
thay đổi so với quan điểm trước đây.

Từ 1997 đến 1999: Cuộc khủng hoảng tài chính của Châu Á đã làm ảnh hưởng
đến làn sóng đầu tư vào Việt Nam; đồng thời cũng do môi trường đầu tư của Việt
Nam kém hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực (quan liêu hành chính, bất ổn


về chính trị và xã hội, việc xử lý vi phạm hợp đồng…). Vốn FDI đăng ký mới giảm
trung bình 24%/năm; vốn giải ngân giảm 14%/năm.
Từ 2000 – 2003: Vốn giải ngân của nước ta có xu hướng tăng, nhưng với tốc
độ chậm; vốn đăng ký mới thì biến động thất thường. Năm 2002 được xem là năm có
vốn đăng ký thấp nhất, quy mô vốn/dự án cũng thấp nhất.
Từ 2004 – 2005: tổng vốn đăng ký tăng trên 30% so với năm 2003; tổng vốn
thực hiện tăng 7,6%. Tốc độ tăng nhanh vốn FDI giai đoạn này là do môi trường đầu
tư của nước ta đã được cải thiện đáng kể, thể hiện thông qua việc sửa đổi và bổ sung
một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài. Đồng thời, Việt Nam đã chú trọng hơn việc
xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Từ 2005 – 2007: Riêng năm 2005, vốn cấp mới đạt 6,84 tỷ USD. Đặc biệt
trong 2 năm 2006 – 2007 dịng vốn đầu tư nước ngồi vào nước ta đã gia tăng một
cách đáng kể với sự xuất hiện của nhiều dự án có quy mơ lớn, đầu tư chủ yếu vào lĩnh
vực công nghiệp nặng (sản xuất sản phẩm công nghệ cao, đồ điện tử, thép…) và dịch
vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, tư vấn…)
Năm 2006, cả nước đã thu hút được 10,6 tỷ USD. Năm 2007 tổng vốn đầu tư
thu hút được là 20,3 tỷ USD, gần gấp đôi so với năm 2006. Để đạt được kết quả to
lớn đó, trước hết phải kể đến sự nỗ lực của toàn dân tộc Việt Nam trong việc chung
sức xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
đã thay đổi, thể hiện qua việc nước ta trở thành thành viên thứ 150 qua việc gia nhập
Tổ Chức Thương Mại Thế Giới vào tháng 11/2006.
1.1.2. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Theo Quỹ Tiền Tệ Thế Giới ( International Moneytary Fund – IMF ): “Đầu
tư trực tiếp nước ngồi là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước

khác (nước nhận đầu tư – hosting country ); không phải tại nước mà doanh nghiệp
đang hoạt động (nước đi đầu tư – source country) với mục đích quản lý một cách có
hiệu quả doanh nghiệp”.


- Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế ( Organisation of Economic Cooperation
and Development-OECD) cũng đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài
tương tự như IMF. Tuy nhiên, OECD có quan niệm về nhà đầu tư nước ngoài rộng
hơn. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan chính phủ
hoặc khơng thuộc cơ quan chính phủ đầu tư tại nước ngoài.
- Theo Ủy ban Thương Mại và phát triển Liên Hợp Quốc (UNCTAD): “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một
pháp nhân hoặc một thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối
với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh
nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”.
- Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài: [42] “Đầu tư trực
tiếp nước ngồi là bất kỳ dịng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công
ty của nước đi đầu tư có được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh
nghiệp nước ngoài”.
- Quan điểm của Thạc Sỹ Nguyễn Văn Tuấn – Bộ Tư Pháp: [29] “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ
nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp
nhằm mục đích kinh doanh có lãi”.

- Theo tác giả Nguyễn Hoài Phương đề tài Luận Văn Thạc Sỹ: “Đánh giá
tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển các ngành và lĩnh vực của
Thành Phố Hồ Chí Minh” thì “Đầu tư trực tiếp nước ngồi là một loại hình đầu tư
quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều
hành hoạt động sử dụng vốn” [34]
- Quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam theo quy định tại

khoản 1 điều 2 Luật Đầu Tư nước Ngoài được sửa đổi, bổ sung năm 2000 “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”
(Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam).[29]


1.1.2.2. Bản chất FDI
Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngồi là sự đầu tư của các cơng ty nhằm xây
dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi chủ yếu được thực hiện từ nguồn vốn tư nhân, vốn
của các công ty, nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc triển khai hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước ngồi. Hay nói cách khác, bản chất của đầu tư trực
tiếp nước ngồi là nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích đầu tư hay tìm kiếm lợi nhuận ở
nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn (bằng tiền và tài sản, cơng nghệ và
trình độ quản lý) từ nước đi đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư.
Nhà đầu tư chỉ mong muốn đầu tư khi họ cho rằng khoản đầu tư đó có thể mang
lại lợi nhuận cao cho họ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất và là nguyên nhân sâu xa dẫn
đến việc hình thành hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các quốc gia.
1.1.2.3. Đặc điểm FDI
- Tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án
đạt mức tối thiểu theo luật đầu tư của từng nước quy định. Chẳng hạn như theo Luật
đầu tư Việt Nam quy định: “số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngồi phải bằng
30% vốn pháp định của dự án”.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một dự án mang tính lâu dài. Đây là đặc điểm
phân biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp. Đầu tư gián tiếp
thường là các dịng vốn có thời gian hoạt động ngắn và có thu nhập thơng qua việc
mua bán chứng khốn (cổ phiếu hoặc trái phiếu).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một dự án có sự tham gia quản lý của các nhà
đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nhà đầu tư nước ngồi phải có số % cổ phần nhất định

mới được tham gia gia quản lý doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Bộ
Thương Mại Hoa Kỳ thì nhà đầu tư nước ngồi phải có ít nhất 10% cổ phiếu thường
hoặc quyền bỏ phiếu trong các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có quyền
tham gia quản lý doanh nghiệp.


- Đầu tư trực tiếp nước ngồi là hình thức kéo dài “ chu kỳ tuổi thọ sản xuất”;
“chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” và nội bộ hóa di chuyển kỹ thuật”. [12]
- Đi kèm với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là ba yếu tố: hoạt động thương
mại (xuất nhập khẩu); chuyển giao công nghệ; di cư lao động quốc tế. Trong đó di cư
lao động quốc tế góp phần chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
- Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các
bên theo tỷ lệ vốn góp vào vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi
tức cổ phần (nếu có).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu
tư và bên kia là nước tiếp nhận đầu tư. [35]
- Đầu tư nước ngoài thường được thực hiện thơng qua các hình thức như: xây
dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động
hoặc mua cổ phiếu để thơn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp lại với nhau.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với q trình hội nhập kinh tế quốc tế,
chính sách về đầu tư trực tiếp của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thể hiện chính sách
mở cửa và quan điểm hội nhập quốc tế về đầu tư.
1.1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi
Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như: Hợp đồng hợp tác kinh
doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi và các hình
thức có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài khác như (BOT: Xây dựng-khai
thác-chuyển giao; Khu chế xuất; Khu công nghiệp; Khu kinh tế mở; Khu thương mại
tự do; Đặc khu kinh tế; Hợp đồng phân chia sản phẩm – áp dụng trong ngành dầu khí

và khai thác mỏ; Cơng Ty nước ngồi lập chi nhánh ở Việt Nam…).
Phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mà có các hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngoài khác nhau. [28]


1.1.3.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (A business coporation
contract )
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên
để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, trong đó quy định trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân
mới.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được hợp tác với tổ chức, cá nhân
nước ngoài để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp
doanh ký. Hợp đồng hợp tác kinh doanh có hiệu lực kể từ ngày được cấp giấy phép
đầu tư.
1.1.3.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh ( A Joint Venture Enterprise)
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư mà một doanh nghiệp mới được
thành lập trên cơ sở góp vốn của hai bên hoặc nhiều bên Việt Nam và nước ngồi.
Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp liên doanh là Công Ty trách
nhiệm hữu hạn pháp nhân Việt Nam hoặc Công Ty cổ phần pháp nhân Việt Nam.
Vấn đề góp vốn của liên doanh thì theo Luật Đầu Tư Nước Ngoài của Việt
Nam, vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư.
Đối với các dự án xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn
khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mơ lớn, tỷ lệ này có thể thấp
hơn nhưng không quá 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư
chấp thuận.
1.1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu

trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp
tác với nhau hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam.


Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi có thể là
Cơng Ty trách nhiệm hữu hạn pháp nhân Việt Nam hoặc Công Ty cổ phần pháp nhân
Việt Nam.
Ngồi ra, cịn có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo bản
chất đầu tư: [47], [21]
- Đầu tư phương tiện hoạt động: Là hình thức FDI trong đó cơng ty mẹ đầu tư
mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức
này làm tăng khối lượng đầu tư vào. [47]
- Mua lại và sáp nhập: là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có
vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này ( có thể đang
hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn
FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này khơng nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu
vào.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi phân theo tính chất dịng vốn:
- Vốn chứng khốn: Nhà đầu tư nước ngồi có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu
doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành.
- Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ
hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
- Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con
trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu,
trái phiếu doanh nghiệp của nhau. [21]
1.1.4. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hịa các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội và các yếu tố: cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, ảnh hưởng trực tiếp hoặc

gián tiếp đến hoạt động đầu tư của Nhà đầu tư trong và ngoài nước tại một quốc gia
hoặc một địa phương.
Mơi trường đầu tư bao gồm: Mơi trường chính trị xã hội, mơi trường văn hóa,
mơi trường kinh tế và tài ngun, mơi trường tài chính, mơi trường cơ sở hạ tầng, môi
trường lao động. [28]


Nghiên cứu môi trường đầu tư cho phép đề xuất những giải pháp hồn thiện
mơi trường đầu tư, làm tăng tính hấp dẫn và tính cạnh tranh so với mơi trường đầu tư
của các nước trong khu vực, các địa phương trong nước. Có như vậy mới làm tăng
khả năng thu hút vốn đầu tư phục vụ cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.2.1. Tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu của các quốc gia là tạo ra sự tiến bộ toàn diện, mà tăng trưởng kinh tế
là một điều kiện quan trọng.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).[9]
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng thêm tổng
sản phẩm trong nước, tức GDP (Gross Domestic Product). Mức tăng đó thường tính
trên tồn bộ nền kinh tế hay tính bình qn theo đầu người của thời kỳ sau so với thời
kỳ trước.
Tăng trưởng kinh tế được tính bằng:
Sự tăng trưởng của đại lượng tuyệt đối tổng sản phẩm quốc dân GNP hoặc
tổng sản phẩm quốc nội GDP. Hoặc:
Sự tăng lên của GNP hoặc GDP bình qn đầu người.
Nếu GNP bình qn đầu người ln ln tăng thì q trình tăng trưởng được xem là
tăng trưởng về chất.
Nếu giá trị tuyệt đối GNP tăng lên nhưng giá trị GNP bình qn đầu người khơng
tăng thậm chí giảm được xem là q trình tăng trưởng về lượng.

1.2.1.2. Khái niệm phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế tác động thúc đẩy sự tiến bộ về mặt xã hội, hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý là nội dung của phát triển kinh tế.
Vậy phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô, sản lượng sản
phẩm và sự tiến bộ về mọi mặt của xã hội; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả


năng khai thác nguồn lực trong và ngoài nước. Phát triển kinh tế là q trình kết hợp
hài hịa vấn đề tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội khác.
Phát triển kinh tế gồm những nội dung sau:
- Gia tăng sản lượng hay tăng trưởng kinh tế dựa trên bốn yếu tố: vốn, lao
động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ (quy mô phát triển).
- Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, bao gồm phát triển hợp lý cơ cấu kinh
tế, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
duy trì và bảo vệ mơi trường sinh thái, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
(chất lượng phát triển).
Tóm lại phát triển kinh tế phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trạng thái
thấp lên trạng thái cao hơn cả về số lượng và chất lượng.
1.2.1.3. Phát triển bền vững
“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ mai sau”.
[16]
Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao, liên tục
trong thời gian dài. Sự phát triển đó dựa trên việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái. Phát triển kinh tế nhằm
đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài nguyên, để lại hậu quả
xã hội cho thế hệ tương lai.
1.2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển
Tăng trưởng là điều kiện, tiền đề cho phát triển.

Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội
và tác động trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế. Ngược lại, sự tiến bộ về mọi
mặt của nền kinh tế sẽ là động lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Tóm lại phát triển bao gồm cả tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế cũng có thể dẫn đến
phát triển, nhưng khơng có tăng trưởng thì nhất định khơng có phát triển.
Như vậy, tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ biện chứng, mật thiết với
nhau. Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên hay tăng tiến về mọi mặt


của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự gia tăng sản
lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về kinh tế xã hội [9]
Tóm lại, phát triển kinh tế là q trình kết hợp hài hòa vấn đề tăng trưởng kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội khác.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Để đánh giá mức độ phát triển kinh tế, người ta thường dùng các nhóm chỉ
tiêu:
-

Các chỉ tiêu phản ánh sự tiến bộ xã hội và biến đổi cơ cấu kinh tế, cải thiện
đời sống xã hội.

-

Gia tăng sản lượng hay tăng trưởng kinh tế dựa trên bốn yếu tố: vốn, lao
động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ (quy mô phát triển).

-

Giải quyết các vấn đề Kinh tế - xã hội, bao gồm phát triển hợp lý cơ cấu
kinh tế, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho

người lao động, duy trì và bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác hợp lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên (chất lượng phát triển). [29]

Nội dung phát triển kinh tế nêu trên được xem là các tiêu chí để đánh giá tác
động của đầu tư trực tiếp nước ngồi, hay nói cách khác lấy nội dung phát triển để
xem xét, đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại phần sau.
1.2.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế
+ Tổng sản phẩm trong nước – GDP (Gross Domestic Product).
+ Tổng sản phẩm quốc gia – GNP (Gross National Product).
GNP = GDP + (-) thu nhập rịng từ nước ngồi (gửi về (+), gửi ra(-) )
1.2.3.2 Các chỉ tiêu về xã hội của phát triển.
- Chăm sóc sức khỏe cộng đồng (y tế)
- Trình độ học vấn của dân cư.
1.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
* Nhóm thứ nhất: Các nhân tố kinh tế bao gồm: [9]


- Vốn sản xuất: là những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, phương tiện
vận tải, cơ sở hạ tầng và kỹ thuật. Như vậy trong điều kiện năng suất lao động khơng
đổi thì tăng vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng sản phẩm hang hóa.
- Lực lượng lao động: Mọi hoạt động sản xuất đều do lao động của con người
quyết định, nhất là người lao động có kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng lao động. Do
đó, chất lượng lao động quyết định hiệu quả sản xuất.
- Khoa học và cơng nghệ: Nó quyết định sự thay đổi năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm.
Ngoài ra, cịn có các nhân tố khác tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh
tế như: quy mô sản xuất, các hình thức tổ chức kinh tế tối ưu, thị trường, nguyên liệu.
* Nhóm thứ hai: Các nhân tố phi kinh tế.
- Thể chế chính trị và đường lối phát triển kinh tế - xã hội.
- Đặc điểm văn hóa, dân tộc, tơn giáo.

Đây là những nhân tố khơng thể lượng hóa được sự ảnh hưởng của nó, khơng
thể tính tốn, so sánh bằng các con số và giá trị cụ thể; nhưng chúng lại có phạm vi
tác động rộng lớn và phức tạp.
Nhìn chung, trình độ văn hóa, văn minh và ổn định của một dân tộc tỷ lệ thuận
với phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
1.3. Bối cảnh quốc tế và trong nước đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài

1.3.1. Bối cảnh quốc tế
Giai đoạn 2006 – 2010 là giai đoạn tạo đà cho nước ta thực hiện đầy đủ các
cam kết với các nước và các tổ chức quốc tế; tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch
vụ ở mức cao, mở cửa đầu tư đối với nhiều lĩnh vực mà cho đến nay nước ta còn
đang bảo hộ, thực hiện nghiêm ngặt các quy định về bạo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ mơi
trường và các cam kết khác trong điều kiện kiên trì và đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.
Đón bắt tình hình, tận dụng cơ hội để đưa đất nước phát triển là việc làm rất cần thiết
đối với bất kỳ một quốc gia nào và Việt Nam cũng không là ngoại lệ.


Tồn Cầu Hóa kinh tế thế giới tiếp tục là xu thế tất yếu, tự do hóa thương mại
sẽ tiếp tục diễn ra ở mọi cấp độ. Phạm vi hợp tác trong các Hiệp định thương mại tự
do (FTA) ngày càng mở rộng, bao gồm cả những vấn đề như tự do hóa đầu tư, hợp
tác, chuyển giao cơng nghệ; những hình thức thương mại mới như thương mại điện tử
sẽ trở nên phổ biến, làm thay đổi những quan niệm truyền thống. Thị trường tài chính
ngày càng được quốc tế hóa, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế
giới được dự báo sẽ tăng lên do ảnh hưởng của sự chuyển dịch của các dòng vốn trên
thế giới. Vai trò của các tổ chức tài chính quốc tế như Tổ Chức Tiền Tệ Quốc Tế
(IMF), Ngân Hàng Thế Giới (WB) trong nền kinh tế thế giới được tăng cường và mở
rộng phạm vi ảnh hưởng. Sự phát triển mạnh mẽ của các thể chế kinh tế quốc tế, các
công ty đa quốc gia cũng là một biểu hiện quan trọng cho xu thế toàn cầu hóa nền
kinh tế thế giới trong những năm giữa thế kỷ XXI.

Xu thế mở rộng các liên kết kinh tế song phương, khu vực vẫn đang trở thành
một trong những nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của khu vực và thế
giới. Các trung tâm kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Liên Minh Châu Âu vẫn tiếp tục
là động lực chính thúc đẩy liên kết khu vực và toàn cầu.
Trong giai đoạn 2008 – 2010, các nước đang phát triển được dự báo sẽ đạt tốc
độ tăng trưởng GDP khá (4,5 – 5%) do tác động của nhiều nhân tố như: lực lượng lao
động được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, tỷ lệ tiết kiệm và tích lũy vốn cao,
chuyển giao nguồn lực giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát
triển cũng như giữa các khu vực đang phát triển với nhau được mở rộng. Trong đó,
các nước ở khu vực Châu Á được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh nhất.
Đây là thời gian mà dòng vốn đầu tư nước ngồi đang có sự phục hồi. Theo
Tổ Chức Thương Mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), đầu tư nước
ngoài giảm trong 3 năm đầu của thập kỷ mới, nhưng đã tăng mạnh trở lại trong 3 năm
gần đây (năm 2004 tăng 27% so với năm 2003; năm 2005 tăng 29% so với năm
2004). Mức vốn FDI trung bình hàng năm trên thế giới tăng từ 93,8 tỷ USD những
năm 80 tăng lên 388,3 tỷ USD trong những năm 90 và tăng lên 541,5 tỷ USD trong
nửa cuối những năm 90. Và hiện nay vốn FDI trên thế giới đã tăng lên hàng ngàn tỷ


USD. Trong số các nước đang phát triển, Đông Nam Á đang là địa chỉ ưa chuộng của
các nhà đầu tư.
Kinh tế thế giới những năm tới lấy đà tăng tốc và sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao
nhất vào thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI, dựa trên đổi mới công nghệ mà các nhà kinh
tế gọi là “pha dâng cao của chu kỳ sóng dài thứ năm” [12] và theo UNCTAD từ nay
đến năm 2020, nguồn vốn đầu tư đang có xu hướng đổ vào các nước đang phát triển,
nhất là những nền kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao. Và dự báo nguồn vốn
đầu tư sẽ chảy vào các nước Châu Á tăng 6% (mức bình qn thế giới là 3,6%).
Trong khi đó những rủi ro do tập trung đầu tư quá lớn vào Trung Quốc đã bộc
lộ rõ trong năm 2005, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn lớn
điều chỉnh chiến lược đầu tư dài hạn, trong đó có việc phân bổ nguồn đầu tư sang một

số nước khác trong khu vực, nhất là những nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng
cao, có lợi thế về lao động, tài nguyên và chính sách đầu tư thơng thống. Việt Nam
với chính sách đối ngoại rộng mở và môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện
đang trở thành một địa điểm đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư. Điều này tạo cơ hội
mới cho Việt Nam trong việc tăng cường thu hút vốn FDI.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ diễn ra với quy mơ lớn chưa từng có
trong lịch sử, ngày càng khẳng định vai trò là một trong những lực lượng sản xuất
trực tiếp chủ yếu của nền kinh tế và làm thay đổi kết cấu kinh tế thế giới. Những lĩnh
vực công nghệ mới (công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, năng lượng mới, công
nghệ thông tin) được dự báo sẽ phát triển rực rỡ trong tương lai. Cơ sở vật chất – kỹ
thuật của nền kinh tế thế giới có sự thay đổi mới về chất, năng suất lao động cao.
Những thành tựu của khoa học – kỹ thuật giúp kinh tế thế giới tăng trưởng ổn định,
đời sống của người dân sẽ được cải thiện đáng kể.
1.3.2. Bối cảnh trong nước
Qua gần 20 năm thực hiện các mục tiêu của 2 kỳ Chiến lược (1991 – 2000;
2001 – 2010), kinh tế - xã hội nước ta đã có bước tiến bộ đáng kể: quy mơ nền kinh tế
tăng nhanh, mặt bằng phát triển được nâng cao, chính trị - xã hội ổn định, đời sống


nhân dân được cải thiện. Đó là những điểm sang, hứa hẹn những bước tiến dài trong
tương lai, làm cơ sở cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước dài hạn.
Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay trên thế giới là một tất yếu. Đứng
trước xu thế đó, tất cả các nước trên thế giới đều có khuynh hướng hợp tác song
phương, đa phương và giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau phát triển. Nước ta không thể
không tuân theo quy luật tất yếu đó, và đã tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực. Và đó cũng chính là lý do để ranh giới thực giữa các quốc gia
trong thương mại và quan hệ quốc tế bị xóa nhịa, thay vào đó là các mối quan hệ hợp
tác hữu nghị và cạnh tranh một cách lành mạnh, và thế giới trở nên phẳng hơn nhờ
tác động của sự tiến bộ về khoa học và công nghệ.
Nước ta chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế” với

tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển” [27]. Với việc tham gia đầy đủ
và toàn diện vào các hoạt động kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đứng trước những cơ
hội to lớn.
Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở
rộng, việc thực hiện các cam kết về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp
Định Thương Mại Việt Nam – Hoa Kỳ, việc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
(WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song phương khác đã góp phần
tạo ra bước phát triển mới quan trọng về kinh tế đối ngoại nhất là thu hút đầu tư và
xuất khẩu. Dòng lưu chuyển vốn đầu tư, lao động, công nghệ, dịch vụ được mở rộng,
tạo cơ hội cho Việt Nam thu hút thêm vốn, công nghệ tiên tiến và cả lao động có chất
lượng để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững.
Tình hình chính trị - xã hội của nước ta tiếp tục ổn định. Thành cơng của Đại
Hội Đại Biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng với việc khẳng định tiếp tục thực hiện
nhất quán đường lối đổi mới, trong đó có việc đề ra nhiệm vụ: “ Tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút vốn đầu tư trực


tiếp nước ngoài, hướng vào thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng
đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn
đầu tư trực tiếp nước ngoài. [27] Tình hình chính trị xã hội trong nước ổn định đã tiếp
tục củng cố niềm tin của cộng đồng đầu tư quốc tế, thúc đẩy gia tăng dòng vốn FDI
vào nước ta.
Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng GDP năm 2005 là 8,4%
(tổng GDP đạt 53,053 tỷ USD); năm 2006 là 8,17%; năm 2007 là 8,48%. Tốc độ tăng
GDP trung bình trong 5 năm là 7,51%. Dự kiến đến 2010 tổng GDP đạt 94 – 98 tỷ
USD, GDP bình quân đầu người đạt 1100 USD. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các
quan hệ và các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế (tích lũy – tiêu dùng, thu – chi ngân

sách…) được cải thiện; tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế tăng nhanh đã làm tăng đáng
kể năng lực sản xuất kinh doanh, tạo nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh, hồn thành
và đưa vào sử dụng nhiều cơng trình lớn về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng
cường tiềm lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Về cơ bản, giai đoạn 2006 – 2010 vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp
tục được nâng cao, nhất là sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức
thành công Diễn Đàn Hợp Tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) lần thứ
14 tại Hà Nội và được Quốc Hội Mỹ thơng qua Quy chế Thương Mại bình thường
vĩnh viễn (PNTR), tiếp tục làm tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối
với địa bàn đầu tư nước ta.
Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Ngoài
việc triển khai Luật Đầu Tư chung, Luật Doanh Nghiệp và một số Luật khác cùng với
các Nghị Định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn,
minh bạch hơn cho hoạt động đầu tư, nhiều biện pháp đã được tiến hành nhằm hạn
chế và khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực…
Việc thực hiện chương trình hành động Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật
Bản đã góp phần tháo gỡ nhiều rào cản đối với đầu tư nước ngồi, làm cho mơi
trường đầu tư ở nước ta trở nên thơng thống và hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, cơng tác


×