ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Chuyên đề khoa học
PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY
Nhóm 12: Bùi Thị Lý
Vũ Minh Quang
Nguyễn Thị Phương Thanh
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc
Hà Nội, 01/2014
MỤC LỤC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ 1
PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY 1
Nhóm 12: Bùi Thị Lý 1
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc 1
Hà Nội, 01/2014 1
DANH MỤC CÁC HÌNH 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 3
6. Dự kiến đóng góp của chuyên đề 3
7. Kết cấu của chuyên đề 3
1.1. Khái quát chung về toàn cầu hóa kinh tế 4
1.1.1. Khái niệm về toàn cầu hóa 4
1.1.2. Những nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa kinh tế 5
1.1.3. Bản chất của toàn cầu hóa 5
1.1.4. Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế 6
1.2. Khát quát chung về hội nhập kinh tế quốc tế 8
1.2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 8
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. Nhưng cho
đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có loại ý kiến
cho rằng: Hội nhập kinh tế là tiến trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, tức là xóa bỏ những
khác biệt về kinh tế giữa các quốc gia và khu vực. Theo đó, các quốc gia, khu vực tiến hành xây
dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu. Loại
ý kiến khác cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại
quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước 8
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến và
được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau : Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết
có mục tiêu, định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể của mỗi
nước. Mỗi nước, do điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù sẽ có lộ trình, bước đi và các giải pháp
hội nhập rất khác nhau 9
1.2.2. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 9
Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân công lao động đã
phát triển đến một trình độ nhất định. Ban đầu chỉ là những hình thức buôn bán song phương,
sau đó mở rộng, phát triển dưới dạng liên kết sản xuất kinh doanh. Trong thời đại ngày nay, lực
lượng sản xuất và công nghệ thông tin đã và đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng chưa
từng thấy. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng tổ chức lại thị trường trong
phạm vi toàn cầu. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ phụ thuộc nhau hơn, cần sự bổ
trợ cho nhau, đặc biệt là các mối quan hệ về kinh tế thương mại cũng như đầu tư và các mối
quan hệ khác như môi trường, dân số…Chính đây là những căn cứ thực tế để đi tới cái đích
cuối cùng của quá trình toàn cầu hoá hướng tới đó là một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không
còn biên giới quốc gia về kinh tế ấy 9
Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển đến đâu cũng tìm thấy lợi ích cho mình khi tham gia hôị
nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước phát triển họ có thể đẩy mạnh hoạt động thương mại,
đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, mở rông quy mô sản xuất, tận dụng và khai
thác được các nguồn lực từ bên ngoài như tài nguyên, lao động và thị trường…cũng như gia
tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình trên trường quốc tế. Còn đối với các nước
đang phát triển, lợi ích ở đây là mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu, tiếp nhận vốn,
tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó sẽ tạo ra công ăn
việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được trình độ và kinh nghiệm quản lý Đây
chính là lý do đầu tiên mà một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế 9
1.2.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế 10
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét ở một số mặt sau đây: 10
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tế
quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là quá trình hộp tác cùng phát triển, vừa
là quán trình đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ
lợi ích của mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường quốc
kinh tế và các công ty xuyên quốc gia 10
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại
và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế; Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuát kinh doanh, mặt khác buộc
các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao cạnh tranh trên thương trường 10
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời
cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc
biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô 10
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới cho sự phát triển
của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại
của lực lượng sản xuất 10
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước,
tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý 10
Chương 2: PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 11
2.1. Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế 11
2.1.1. Về bối cảnh quốc tế và trong nước trước năm 1986 11
2.1.2. Chính sách chủ động hội nhập KTQT của Việt Nam từ 1986 đến nay 12
2.2. Tái cơ cấu nền kinh tế 25
2.2.1. Khái niệm tái cơ cấu nền kinh tế 26
2.2.2. Các giai đoạn của tái cơ cấu nền kinh tế của nước ta từ năm 1986 đến nay 27
2.3. Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài 31
Chương 3: ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM VÀ PHƯỚNG
HƯỚNG HỘI NHẬP KTQT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 35
3.1. Đánh giá phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn
cầu hóa 35
3.2. Phương hướng hội nhập KTQT của Việt Nam trong thời gian tới 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa tiếng Anh Nguyên nghĩa tiếng Việt
1
AANZFTA ASEAN - Australia - New
Zealand Free Trade
Agreement
Khu vực thương mại tự do
ASEAN - Úc và Niu Dilân
2
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á
3
APEC Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương
4
ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á
5
ASEM The Asia-Europe Meeting Hội nghị hợp tác Á - Âu
6
AJCEP ASEAN-Japan
Comprehensive Economic
Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Nhật Bản
7
CPI Consumer price index Chỉ số giá tiêu dùng
8
EPA Economic Partnership
Agreements
Hiệp định Đối tác Kinh tế
9
EU European Union Liên minh châu Âu
11
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
12 FTA Free Trade Agreements Hiệp định Thương mại Tự do
14
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
15
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
16 KTQT Kinh tế quốc tế
17
ODA Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
18
RCEP Regional Comprehensive
Economic Partnership
Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện
khu vực
19
TNCs Transnational Corporations Các công ty xuyên quốc gia
20
TPP Trans-Pacific Partnership Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương
21
VJEPA Vietnam-Japan Economic
Partnership Agreements
Hiệp định đối tác kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản
22
WB World bank Ngân hàng thế giới
23
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1
2.1
Những biện pháp chính yếu trong chính sách đổi
mới thực thi trong các năm cuối thập niên 1980
15
2
2.2
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo nước tiếp
nhận đầu tư năm 2012
37
3
2.3
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo ngành
năm 2012
38
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Số hiệu Tên hình Trang
1
1.1
Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm
1986 - 1990
16
2
1.2
Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm
1991 - 1995
18
3
1.3
Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm
1996 - 2000
19
4
1.4
Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm
2001 - 2006
21
5
1.5
Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm
2007 - 2013
25
6
1.6
Tốc độ tăng trưởng CPI và GDP Việt Nam trong
các năm 1986 - 2013
27
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử từ xa xưa đến nay, không một cộng đồng, một quốc gia hay một dân tộc
người nào có thể phát triển bình thường mà không quan hệ, không trao đổi giao lưu trên các
lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng… với các cộng đồng dân tộc, với các quốc
gia khác. Do đó quan hệ quốc tế xuất hiện với tư cách là quan hệ lâu đời và phổ biến, nó vừa
là điều kiện, vừa là kết quả cần thiết cho mọi quá trình phát triển xã hội. Toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan trong bối cảnh đó. Trong hơn một thập kỷ
lại đây xu thế toàn cầu hoá và hội nhập nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ gắn liền
với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang
thời kỳ mới – hoà bình hợp tác và phát triển. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế kéo theo nó là những cơ hội và thách thức mới cho các quốc gia khi
tham gia vào quá trình đó.
Đối với Việt Nam, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng có một vai trò vô
cùng to lớn đối với sự phát triển của kinh tế, văn hóa xã hội và chính trị, đặc biệt là sau khi
nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và gia nhập
vào tổ chức thương mại thế giới WTO, tuy nhiên cũng tồn tại không ít những thách thức đặt
ra cho chúng ta. Vậy Việt Nam cần làm gì để nền phát triển đất nước trước bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế như hiện nay? Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài:
“Phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế”.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới đề tài ở trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu một số
công trình sau:
GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng chủ biên (2007), Sách “Toàn cầu hóa kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội. Các tác giả tập trung xem xét sự tác động của toàn cầu hóa kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế đối với các nền kinh tế đang phát triển, trên cơ sở đó làm rõ mối quan
hệ hội nhập kinh tế với công nghiệp hóa, xác định rõ con đường và quá trình công nghiệp
1
hóa của các nước này, mà cụ thể là làm rõ hơn con đường và bước đi của tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
PGS.TS. Vũ Thị Bạch Tuyết chủ nhiệm (2012), đề tài Nghiên cứu khoa học cấp học
viện “Chính sách tài chính thúc đẩy xuất khẩu trong điều kiện hội nhập KTQT - thực trạng
và giải pháp đối với Việt Nam”, Học viện Tài chính Hà Nội. Các tác giả đã hệ thống hóa
những kiến thức lý luận về những chính sách tài chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu
hàng hóa; tìm hiểu những vấn đề thực tiễn trong nước và quốc tế để rút ra những kết luận về
cơ hội, thách thức, những thành công, hạn chế và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đề xuất
hoàn thiện các chính sách tài chính của Việt Nam trong thời gian tới nhằm thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Nguyễn Thị Minh Nguyệt, 2002, khóa luận tốt nghiệp “Điều chỉnh chính sách thương
mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Tác giả đã nghiên cứu về một số điều chỉnh trong chính sách thương mại của Việt Nam
những năm 1990 nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại của Việt Nam trong thời gian tới.
Tất cả các công trình nghiên cứu liên quan trên đã đề cập tới chủ đề Toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế của Việt Nam ở những góc độ nhất định tuy nhiên đến nay ở Việt Nam chưa
có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ có hệ thống về lý luận và thực tiễn về đề tài Phản
ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế từ năm
1986 đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: chuyên đề được tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích phân tích
phân tích phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế như hiện nay, đồng thời đánh giá những thành công và hạn chế trong quá trình thực
hiện những chính sách trên.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được những mục tiêu đề ra, chuyên đề cần phải làm rõ
ba vấn đề:
Khái quát lý thuyết chung về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Phân tích phản ứng chính sách của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế
2
Từ đó, đưa ra những đánh giá về chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trong chuyên đề này, đối tượng nghiên cứu các chính sách
của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề khoa học tập trung nghiên cứu về những phản ứng
chính sách của Việt Nam Kinh trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế kể từ
khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế (năm 1986).
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề được sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp để phân
tích làm rõ kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của ba nền kinh tế trên. Ngoài ra, chuyên
đề sử dụng phương pháp thống kê học để xử lý số liệu.
6. Dự kiến đóng góp của chuyên đề
Ngoài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, chuyên đề khoa học đã đi sâu phân tích những phản ứng chính sách của Việt Nam,
từ đó đưa ra những đánh giá về thành công cũng như hạn chế trong quá trình thực hiện chính
sách và phương hướng hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
7. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu làm 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Đánh giá về những chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế
3
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1.1. Khái quát chung về toàn cầu hóa kinh tế
1.1.1. Khái niệm về toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ
chức hay cá nhân ở góc độ văn hóa kinh tế….trên quy mô toàn cầu.
Theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá là một hiện tượng, một quá trình, một xu thế liên kết
trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã hội (từ
kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường, v.v…) giữa các quốc gia. Nói một cách
khác,“Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới,
làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt
điều kiện mới.”.
Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình hình thành thị
trường toàn cầu làm tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia.
Biểu hiện của toàn cầu hoá có thể dưới dạng khu vực hoá – việc liên kết khu vực và các định
chế, các tổ chức khu vực, hay cụ thể, toàn cầu hoá là “quá trình hình thành và phát triển các
thị trường toàn cầu và khu vực, làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về
kinh tế, giữa các nước thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hoá và nguồn lực
(resources) qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức
quốc tế nhằm quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.”
Hay có thể hiểu: “Toàn cầu hóa kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt
động kinh tế vượt qua mọi biến giới quốc gia khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự
gia tăng các xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự
lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu”.
4
1.1.2. Những nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trong suốt
tiến trình phát triển ấy, nhiều nhân tố tiền đề đã tạo được động lực cho sự ra đời của xu
hướng toàn cầu hóa như hiện nay.
Nhân tố đầu tiên rất quan trọng chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình
chuyên môn hóa, hợp tác hóa sản xuất và phân công lao động đã vượt qua tầm tay của từng
nước.
Nhân tố thứ hai là sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là sự phát
triển nhảy vọt về thông tin liên lạc, giao thông, và yếu tố then chốt chính là sự ra đời của
công nghệ thông tin.
Ba là, nhu cầu mở mang thị trường xuất khẩu tư bản, sự di cư ồ ạt về lao động.
Bốn là, sự hòa hợp và tham gia rộng rãi vào các hoạt động quốc tế của các quốc gia,
đặc biệt là các nước thứ ba.
Năm là, sự phát triển mạnh của mẽ của kinh tế thị trường. Hoạt động của hệ thống thị
trường đảm bảo lưu thông hàng hóa từ khu vực này tới khu vực khác thậm chí quốc gia khác
nhanh chóng, giảm bớt các thủ tục pháp lý không cần thiết. Tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, công ty rút ngắn thời gian của một chu kì sản xuất nhanh chóng đi vào hay thay thế
quy trinh mới đảm bảo sản xuất quay vòng liên tục.
Sáu là, sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức quốc tế về thương
mại và tài chính, sự hình thành các hệ thống tài chính, ngân hàng quốc tế, tạo ra khối lượng
giao dịch tiền tệ và hàng hóa khổng lồ. Ngày nay, số lượng TNCs trên thế giới có khoảng
60.000 công ty mẹ, chiếm 25% giá trị của sản xuất toàn cầu, 65% kim ngạch mậu dịch thế
giới, 70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ cao với một hệ thống chi nhánh (công ty con)
khoảng trên 500.000, như những vòi của con bạch tuộc khổng lồ bao trùm khắp thế giới. Mặt
khác, trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ TNCs ở các nước ngày càng tăng và chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng giá trị thương mại của nhiều nước. Hầu hết các hoạt động đầu tư nước
ngoài được thực hiện qua kênh TNCs.
1.1.3. Bản chất của toàn cầu hóa
Các quan điểm về toàn cầu hóa đều được xây dựng dựa trên bản chất của nó. Thực tế
đến nay, bản chất của toàn cầu hóa cũng vẫn còn nhiều tranh cãi do cách tiếp cận vấn đề
5
khác nhau. Nhưng bản chất đó không chỉ đơn thuần là hai mặt tích cực hay tiêu cực và muốn
hiểu bản chất đó, không chỉ đơn thuần cảm tính hay ý muốn chủ quan hoặc xem xét chi dựa
trên một vài biểu hiện của toàn cầu hóa. Cần thiết phải hiểu bản chất của toàn cầu hóa dựa
tên những nội dung cốt lõi của nó là quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Trên cơ sở đó, có thế thấy rằng toàn cầu hóa có bản chất hai mặt. Một mặt, nó là xu
thế khách quan như kết quả của sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và các yếu tố vật
chất khác. Mặt khác toàn cầu hóa kinh tế cũng là một quá trình kinh tế - xã hội, chính trị - xã
hội bị một số thế lực tư bản chi phối. Chính sự đan xen giữa hai mặt, giữa cái chủ quan và
khách quan đã khiến cho toàn cầu hóa về bản chất trở thành một quá trình chứa đựng đầy
mấu thuẫn, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã nhận định: “Toàn
cầu hóa là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích
cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Xu thế này là kết quả tất yếu của
sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng”.
1.1.4. Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế
Sự ra đời của toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu, khách quan, không thể đảo
ngược, nhưng không thuận buồm xuôi gió mà đầy mâu thuẫn. Toàn cầu hóa kinh tế mở rộng
biên giới kinh tế vượt biên giới lãnh thổ quốc gia, mỗi nước tham gia toàn cầu hóa kinh tế;
một mặt, phải thích nghi với những quy tắc chung, phải từ bỏ một số quyền dân tộc nào đó;
mặt khác vẫn phải bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của dân tộc. Toàn cầu
hóa kinh tế thúc đẩy nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh nhưng phân phối lợi ích lại ngày
càng chênh lệch. Các nước phát triển muốn dựa vào ưu thế về nhiều mặt để duy trì trật tự
kinh tế thế giới hiện tồn trong khi các nước đang phát triển lại muốn thiết lập một trật tự kinh
tế quốc tế mới công bằng, cùng có lợi. Toàn cầu hóa kinh tế đi cùng với khu vực hóa, tự do
hóa xen lẫn với xu hướng bảo hộ, nên cạnh tranh toàn cầu lại diễn ra cùng với cạnh tranh
giữa các tổ chức kinh tế khu vực, tổ khu vực với quốc gia ngoài khu vực.
Các chủ thể cùng hợp tác và đấu tranh, cùng tham gia hoạch định các thể chế về toàn
cầu hóa kinh tế. Đó là các quốc gia có chủ quyền, các tổ chức kinh tế khu vực, các tổ chức
kinh tế quốc tế và TNCs. Mặc dù ưu thế thuộc về các nước phát triển nhất và TNCs lớn nhất,
6
họ chi phối các quyết sách của các tổ chức quốc tế, nhưng không phải họ có thể mặc sức làm
mưa làm gió theo ý chí chủ quan của họ. Trên vũ đài quốc tế và trong từng tổ chức quốc tế
luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang
phát triển, giữa lực lượng tiến bộ với lực lượng đế quốc và không ít những thỏa thuận phản
ánh sự đấu tranh và thỏa hiệp giữa các lực lượng đó.
Kinh tế phi vật thể ngày càng thoát ly kinh tế hiện vật và tồn tại độc lập khiến cho
toàn cầu hóa kinh tế rất dễ bị xáo động bởi các cuộc khủng hoảng. Hiện có khoảng 2% giao
dịch tài chính, tiền tệ có quan hệ với hàng hóa và dịch vụ. Cái gọi là “kinh tế bong bóng”
tăng lên, trở thành một nhân tố quan trọng làm cho hệ thống tài chính – tiền tệ toàn cầu dễ bị
xáo động. Tình trạng đó diễn ra trong bối cảnh chuyên môn hóa và hợp tác hóa quốc tế ngày
càng sâu rộng, TNCs cắm nhánh ở nhiều nước và biến phân công quốc tế thành phân công
trong nội bộ công ty, lôi cuốn các quốc gia vào cùng một “dàn hợp xướng”, nên chỉ một xáo
động nhỏ cũng làm rung chuyển cả hệ thống, gây ra những cuộc khủng hoảng lan rộng.
Xu thế khu vực hóa tiếp tục diễn ra cùng với xu thế toàn cầu hóa. Liên kết kinh tế khu
vực diễn ra từ thấp đến cao, từ khu vực ưu đãi thuế quan, khu vực mậu dịch tự do, đồng
minh thuế quan, thị trường chung hay cộng đồng kinh tế và liên minh kinh tế. Giữa khu vực
hóa và toàn cầu hóa kinh tế vừa có sự thống nhất và có mâu thuẫn. Các tổ chức kinh tế khu
vực tự do hóa bên trong những bảo hộ nghiêm ngặt với bên ngoài. Tuy nhiên xu hướng của
khu vực hóa là từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để vươn rộng ra không gian toàn cầu. Sự mở
rộng này sẽ từng bước tiếp cận toàn cầu hóa.
Xu thế đa cực hóa thế giới. Toàn cầu hóa do các nước lớn chi phối, dẫn đến sự giành
giật lợi ích giữa các trung tâm kinh tế lớn và hình thành xu hướng đa cực hóa kinh thế giới.
Toàn cầu hóa làm tăng thêm sự biến động thực lực và thay đổi so sánh lực lượng giữa các
nước lớn.
Phân cực giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển vẫn sâu sắc nhưng thế
và lực của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Xét về các mặt: mức độ tham gia
toàn cầu hóa kinh tế, mức độ chiếm giữ thị trường thế giới, sức cạnh tranh và khả năng chế
ngự những nguy cơ của thị trường…các nước đang phát triển để kém xa các nước phát triển.
Vì thế, dù toàn cầu hóa kinh tế tạo điều kiện cho các nước đang phát triển có cơ hội đẩy
mạnh và rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, nhưng một
7
khi trật tự thế giới hiện nay chưa thay đổi căn bản thì sự phân hóa hai cực Bắc – Nam vẫn
tiếp diễn, thậm chí có thể tăng thêm khi toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh.
Sự phân hóa giữa các nước đang phát triển vẫn tiếp diễn. Những năm qua các giao
dịch kinh tế giữa các nước đang phát triển không ngừng tăng lên, góp phần giảm bớt sự lệ
thuộc vào các nước phát triển, nhưng sự phân hóa giữa các nước đang phát triển vẫn tiếp
diễn.
Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức xuất hiện ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao sẽ thúc đẩy nhanh hơn toàn cầu hóa kinh tế và tác
động mạnh các lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị. Những thành tựu khoa học, công nghệ
mới ngày càng thúc đẩy nhanh sự phát triển và nâng cao trình độ quốc tế lực lượng sản xuất
đồng thời tác động mạnh xu thế phát triển trong các kĩnh vực khác của đời sống xã hội, tăng
sự tùy thuộc giữa các nước và tăng xu thế toàn cầu hóa, nhưng cũng đặt những nước không
tiếp thu kịp các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức trước nguy
cơ tụt hậu xa hơn.
Toàn cầu hóa kinh tế là một khái niệm rộng lớn và ngay cả bản thân nó cũng chưa
đựng nhiều vấn đề, nhiều mâu thuẫn. Việc nghiên cứu toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu
hóa kinh tế nói riêng và vấn đề tất yếu và cần kíp đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỗi
quốc gia, vùng lãnh thổ phải có những hiểu biết của riêng mình để đưa ra đường hướng phát
triển và phương thức hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa cho phù hợp, tận dụng và phát huy
tối đa lợi ích cũng như hạn chế những tác hại mà nó gây ra.
1.2. Khát quát chung về hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. Nhưng cho
đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có loại ý kiến
cho rằng: Hội nhập kinh tế là tiến trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, tức là xóa bỏ những
khác biệt về kinh tế giữa các quốc gia và khu vực. Theo đó, các quốc gia, khu vực tiến hành
xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn
cầu. Loại ý kiến khác cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào
thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
8
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến
và được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau : Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình
liên kết có mục tiêu, định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể
của mỗi nước. Mỗi nước, do điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù sẽ có lộ trình, bước đi và các
giải pháp hội nhập rất khác nhau.
1.2.2. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân công lao động đã
phát triển đến một trình độ nhất định. Ban đầu chỉ là những hình thức buôn bán song
phương, sau đó mở rộng, phát triển dưới dạng liên kết sản xuất kinh doanh. Trong thời đại
ngày nay, lực lượng sản xuất và công nghệ thông tin đã và đang phát triển với một tốc độ
nhanh chóng chưa từng thấy. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng tổ chức lại
thị trường trong phạm vi toàn cầu. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ phụ thuộc
nhau hơn, cần sự bổ trợ cho nhau, đặc biệt là các mối quan hệ về kinh tế thương mại cũng
như đầu tư và các mối quan hệ khác như môi trường, dân số…Chính đây là những căn cứ
thực tế để đi tới cái đích cuối cùng của quá trình toàn cầu hoá hướng tới đó là một nền kinh
tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế ấy.
Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển đến đâu cũng tìm thấy lợi ích cho mình khi tham gia
hôị nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước phát triển họ có thể đẩy mạnh hoạt động thương
mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, mở rông quy mô sản xuất, tận dụng và
khai thác được các nguồn lực từ bên ngoài như tài nguyên, lao động và thị trường…cũng như
gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình trên trường quốc tế. Còn đối với các
nước đang phát triển, lợi ích ở đây là mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu, tiếp nhận
vốn, tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó sẽ tạo ra
công ăn việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được trình độ và kinh nghiệm quản
lý Đây chính là lý do đầu tiên mà một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Thêm vào đó, trong mấy thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin và vận tải đã có những
tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí liên
lạc viễn thông xuống tới vài trăm lần. Chính công nghệ toàn cầu này là cơ sở quan trọng đặt
nền móng cho sự đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá. Nhờ có công nghệ toàn cầu hoá phát
triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến
9
phân phối trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ này tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát
triển.
Cuối cùng, những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc
và càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Ngoài các căn cứ trên đây
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá phát triển còn có thể có những căn cứ khác như: chiến tranh
lạnh chấm dứt vào đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một thời
kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển mới
1.2.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét ở một số mặt sau đây:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tế
quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là quá trình hộp tác cùng phát triển,
vừa là quán trình đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để
bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường
quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương
mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế; Hội nhập kinh tế quốc tế một
mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuát kinh doanh, mặt
khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao cạnh tranh trên thương
trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng
thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh
tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới cho sự phát triển
của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện
đại của lực lượng sản xuất.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài
nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý.
10
Chương 2: PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN
CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1. Về bối cảnh quốc tế và trong nước trước năm 1986
- Bối cảnh quốc tế
Từ những năm 1980, thế giới chứng kiến những quá trình mới diễn ra đang làm thay
đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại. Toàn cầu hoá kinh tế trở thành
xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ một quốc gia, dân tộc nào, nếu
muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng với toàn cầu
hoá kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày
càng mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ, phát
triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ sinh học… Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới.
Chẳng những các lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi theo hướng
dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới có hàm lượng
nghiên cứu và phát triển và giá trị gia tăng cao, ngành dịch vụ ngày càng có vai trò quan
trọng và tỷ trọng lớn dần trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thế giới theo hướng:
Trong các nước tư bản phát triển phát triển, sau các cuộc khủng khoảng cơ cấu và dầu
lửa, từ đầu những năm 80, đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế. Nội dung cơ bản là
điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành có hàm lượng khoa học công
nghệ cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các công cụ vĩ mô, thực hiện tư
nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân.
Các nước đang phát triển như Đông Á và Đông Nam Á cũng thực hiện cải cách kinh
tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Các cải cách ở đây bao gồm cải cách
cơ cấu và xác định đúng chiến lược kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh và phát triển, mở cửa
hội nhập và liên kết kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài - coi
đây là động lực phát triển kinh tế.
Các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó khăn chồng chất đã tiến hành cải cách
kinh tế nhằm khắc phục cơ chế kế hoạch hoá hành chính chỉ huy, chuyển đổi sang kinh tế thị
11
trường. Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn và là
tấm gương cho Việt Nam tham khảo.
Như vậy, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng với quá
trình toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 đã tạo áp lực mạnh mẽ cho
công cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam.
- Bối cảnh trong nước
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết đã được áp
dụng rộng rãi trên cả nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhất
là tập trung cho công nghiệp hoá, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói
chung và sản xuất công nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào
khủng khoảng. Trong khi nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư,
nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của đế
quốc Hoa Kỳ ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với thế giới.
Trước những khó khăn, nhiều địa phương đã tìm lối thoát và đổi mới kinh tế từ cơ sở.
Từ việc tổng kết thực tiễn này, năm 1979, tại Hội nghị trung ương 6 (khoá IV), Đảng ta đã
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý nền kinh tế, nhằm “cởi trói” và để cho
sản xuất “bung ra”. Tiếp theo, những cải tiến quản lý thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981
với khoán trong nông nghiệp, điều chỉnh kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh. Có thể coi những cải tiến quản lý trong các năm 1979-1985 là các
tìm tòi thể nghiệm chuẩn bị cho cải cách toàn diện (đổi mới) nền kinh tế. Song, các cải tiến
cục bộ này vẫn chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng khoảng kinh tế vẫn
rất trầm trọng. Vì vậy đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở nước ta.
2.1.2. Chính sách chủ động hội nhập KTQT của Việt Nam từ 1986 đến nay
- Giai đoạn 1986 - 1991:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới và
quyết tâm thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng độc lập, tự chủ và rộng mở. Đại hội VI
là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện ở nước ta. Sau khi phân tích phê
phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới.
12
Đổi mới có thể được xem như một chương trình điều chỉnh cơ cấu lớn. Đổi mới mang
tính chất của một chương trình điều chỉnh cơ cấu vì chính sách này bao gồm một phần lớn
thay đổi trên mặt hệ thống và cơ cấu như trong các chương trình mà nhóm Ngân Hàng Thế
Giới và IMF đã đề xướng cho các quốc gia đang phát triển. Đổi mới được gọi là một chương
trình điều chỉnh cơ cấu lớn vì hầu hết các điều chỉnh, như chuyển giao từ kế hoạch tập trung
sang kinh tế thị trường, từ xí nghiệp quốc doanh đổi sang xí nghiệp tư nhân đã được thực thi
trong một phạm vi rất rộng so với điều chỉnh cơ cấu trong các quốc gia theo kinh tế thị
trường. Nội dung của chính sách đổi mới có thể được tóm lược trong 4 điểm như sau:
(i) Trong ngành nông nghiệp, đa dạng hoá hình thức quản trị kinh doanh, thừa nhận
nông nghiệp trên căn bản gia đình. Trong đó, 2 bộ luật liên quan đến nông nghiệp và đầu tư
nước ngoài đã có một ảnh hưởng mạnh đến cả nền kinh tế. Bộ luật mới ban hành cho ngành
nông nghiệp mặc dù còn duy trì quyền sở hữu đất trong tay nhà nước, giao quyền sử dụng
đất vào tay người cày. Quyền sử dụng đất này có kỳ hạn (tuỳ theo mục đích sử dụng) nhưng
có thể trao đổi, cho mướn, bán và thừa kế. Bộ luật mới về đầu tư nước ngoài bao gồm nhiều
chương mục bảo đảm quyền lợi của xí nghiệp nước ngoài có tác dụng khuyến khích tư nhân
nước ngoài tham gia vào các hoạ động kinh tế trong nước. Bộ Luật Đầu Tư Nước Ngoài
công bố vào tháng 10/1987 và được cải chính vào tháng 12/1988.
(ii) Trên mặt phân phối hàng hoá, bãi bỏ hệ thống phân phối theo kế hoạch nhà nước,
để giá cả tự do lên xuống theo tình trạng cung cầu của hàng hoá và dịch vụ. Cho đến khoảng
giữa thập niên 1980, phần lớn hàng hoá và dịch vụ đã được phân phối bởi các cơ quan nhà
nước theo giá quản lý, chỉ một số ít hàng tạp hoá được trao đổi trên thị trường. Giá cả của
hầu hết hàng hoá và dịch vụ được điều hành bởi Uỷ Ban Vật Giá Nhà Nước có chi bộ trong
từng địa phương. Lưu thông hàng hoá giữa các địa phương được điều hành chặt chẻ bởi các
cơ quan nhà nước. Trong nhiều trường hợp, với mục đích bao cấp tầng lớp ngưới nghèo hoặc
chấn hưng giáo dục chính phủ đặt nhiều mức giá khác nhau cho cùng một sản phẩm hay dịch
vụ. Bắt đầu từ năm 1987 chính phủ Việt Nam bắt đầu thi hành các mục sau: (1) Dần dần
nâng cao mức giá quản lý gần đến mức giá thị trường và cuối cùng bãi bỏ giá quản lý. (2) Xí
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, trao đổi hàng hoá và các yếu tố đầu vào dựa trên
căn bản thị trường. (3) Hợp lý hoá các suất thuế xuất khẩu và nhập khẩu (hạ thấp suất thuế
trên xuất khẩu và nhập khẩu). (4) Điều chỉnh suất hối đoái (hạ thấp giá trị đồng Việt Nam
13
đến mức giá thị trường). Đường lối cải cách hệ thống phân phối hàng hoá và vật giá hiện rõ
trong thay đổi chức năng của Uỷ Ban Vật Giá Nhà Nước từ các năm đầu thập niên 1990.
Trước năm 1986 cơ quan này quyết định mức giá của hầu hết sản phẩm, nhưng bước vào
thời kỳ đổi mới phạm vi hoạt động của cơ quan này được giới hạn vào việc điều chỉnh giá cả
của một vài mục hàng hoá căn bản như xi măng. Ngày nay tất cả các tổ chức và chức năng
của Uỷ Ban Vật Giá Nhà Nước đã được giải tán hoặc thu hút vào Bộ Tài Chính.
(iii) Cải cách hệ thống tài chính và ngân hàng, thi hành các phương sách vĩ mô nhằm
mục đích bài trừ lạm phát. Hệ thống ngân hàng cũng đã được cải cách để thích hợp với nền
kinh tế thị trường. Cải cách liên quan đến hệ thống tiền tệ, tài chính và ngân hàng nhằm vào
mục đích giải quyết vấn đề lạm phát (thuyên giảm hoặc bãi bỏ chi xuất của ngân hàng quốc
gia nhắm vào mục đích bao cấp các xí nghiệp quốc doanh, cường hoá vai trò của ngân hàng
quốc gia trong chức vụ thiết lập và thi hành chính sách kinh tế vĩ mô), cường hoá vai trò của
hệ thống ngân hàng trong các hoạt động kinh tế tư nhân (thiết lập ngân hàng nông nghiệp,
ngân hàng thương mại…), khích lệ tiết kiệm trong nước (duy trì suất lãi dương…) và chấn
hưng và khích lệ mậu dịch quốc tế và đầu tư từ nước ngoài (thi hành một chính sách hối đoái
thích hợp ). Sau đây là một vài biện pháp cải cách hệ thống tiền tệ, tài chính và ngân hàng
thực thi trong các năm 1986-89: (1) Giảm giá đồng bạc Việt Nam (tháng 7, 10, 12 năm 1987,
tháng 2, 11, 12 năm 1988, tháng 1, 2, 3 năm 1989). (2) Chỉnh đốn hệ thống ngân hàng (tháng
7 năm 1987), thiết lập ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng thương mại (tháng 7 năm 1988).
(3) Công bố Luật Đầu Tư Nước Ngoài mới (tháng 10 năm 1988). (4) Công bố lãi suất mới
(cao hơn suất lạm phát, tháng 3 năm 1989). Trong các biện pháp cải cách hệ thống ngân
hàng quan trọng nhất là quyết định bãi bỏ chế độ bao cấp xí nghiệp quốc doanh và thay đổi
chức năng của ngân hàng quốc gia và thiết lập ngần hàng thương mại và ngân hàng nông
nghiệp. Chế độ bao cấp xí nghiệp quốc doanh đã gây ra tinh thần nương tựa vào trợ cấp nhà
nước và làm sút giảm năng suất trong các xí nghiệp quốc doanh, và nâng cao suất lạm phát.
Thiết lập các ngân hàng thương mại và nông nghiệp có tác dung xúc tiến đầu tư của tư nhân
vào các ngành hoạt động kinh tế của quốc gia.
14
Bảng 2.1: Những biện pháp chính yếu trong chính sách đổi mới thực thi trong các
năm cuối thập niên 1980
Thời kỳ công bố Nội dung của biện pháp
Tháng 2/1987 Giảm quy chế lưu thông hàng hóa
Tháng 6/1987 Nâng giá quản lý hàng hóa thiết yếu lên gần mức giá thị trường
Tháng 7/1987 Giảm số mục hàng hóa đối tượng cho hệ thống cấp phát
Tháng 7/1987 Giảm giá đồng bạc Việt Nam
Tháng 10/1987 Bãi bỏ hệ thống cấp phát gạo và dầu
Tháng 11/1987 Nghị định chỉnh đốn tình trạng tài chính các xí nghiệp quốc
doanh, áp dụng hệ thống kế toán vào các xí nghiệp quốc doanh
Tháng 12/1987 Công bố Luật Đầu tư nước ngoài
Tháng 3/1988 Công bố luật công nhận doanh nghiệp cá thể, gia đình và xí
nghiệp tư nhân
Tháng 7/1988 Thiết lập ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng thương mại
Tháng 10/1988 Công bố Luật Đầu tư nước ngoài mới
Tháng 3/1989 Công bố lãi suất mới (cao hơn tỷ lệ lạm phát)
Tháng 3/1989 Bãi bỏ thuế nhập khẩu nguyên liệu và sản phẩm trung gian, bãi
bỏ thuế xuất khẩu trên một số hàng hóa
Nguồn: Lê Thành Nghiệp (1998), Phát triển kinh tế theo hướng thị trường, Nxb
Thống kê, Hà Nội
(iv) Xây dựng, duy trì liên hệ tốt với các chính phủ nước ngoài và các cơ quan quốc tế
nhằm mục đích khuyếch đại mậu dịch và chấn hưng hợp tác quốc tế. Cải cách trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam có thể được thấy rõ trong các biện pháp dẫn đến sự việc các
quốc gia nhóm ASEAN chấp nhận Việt Nam vào làm thành viên của nhóm này và việc Hoa
kỳ và các cơ quan tiền tệ thế giới mở lại liên hệ kinh tế với Việt Nam. Các diễn biến quân sự
xảy ra trong các năm vào cuối thập niên 1970 chung quanh bán đảo Đông Dương (Việt Nam
tiến quân vào Cam-pu-chia, quân đội Trung Quốc vượt biên giới phía Bắc Việt Nam) đã gây
ra một tình trạng bất an trong môi trường chính trị khu vực châu Á và làm nảy sinh trong các
thành viên nhóm ASEAN một cảm giác nghi ngờ, đề phòng đối với Việt Nam. Vì vậy, việc
Việt Nam rút quân ra khỏi lãnh thổ Cam-pu-chia, cải thiện lại bang giao với Trung Quốc đã
có một tác dụng rất lớn trên phương diện cường hoá liên hệ kinh tế với các quốc gia trong và
ngoài khu vực châu Á.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
15
dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5
năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng:
GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công
nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá
trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát
triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản
xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu
cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Điều
quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý
mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng
được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Đơn vị tính: %
Hình 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm 1986 - 1990
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
- Giai đoạn 1991 - 1996:
Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991) xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đánh
dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Nghị quyết Trung
ương 3 (Khoá VII) về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại cụ thể hoá hơn nữa chính
16
sách đối ngoại của Việt Nam, nhấn mạnh việc “phát huy những điểm đồng thuận, hạn chế
những điểm bất đồng” và nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế.
Năm 1992, Việt Nam khôi phục quan hệ bình thường vốn bị gián đoạn từ năm 1976
với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB). Việc Việt Nam mở lại quan hệ với các tổ chức này có tác dụng không nhỏ trên mặt
cung cấp vốn đầu tư cần thiết cho các kế hoạch kiến thiết cơ sở hạ tầng trong nước.
Tháng 12/1994, Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO (WTO).
Ngày 11/7/1995 Mỹ đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với nước ta và
ngày 12/7/1995 hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao.
Ngày 17/7/1995 nước ta và Liên minh Châu Âu đã ký Hiệp định chung về hợp tác
kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật.
Ngày 28/7/1995 nước ta gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 01/01/1996.
Trong giai đoạn này, đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế
tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái,
tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều
vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm;
nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5
năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990. Hầu hết các
lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững
chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đơn vị tính: %
17
Hình 1.2: Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm 1991 - 1995
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
+ Giai đoạn 1996 - 2001:
Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6/1996) đề ra nhiệm vụ “đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế”. Tiếp theo đó, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 12 về tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(1996), Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm
2010”, để phát triển mạnh hơn nữa thương mại trong nước, qua đó tạo cơ sở cho phát triển
xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng,
tạo tiền đề cho chủ động hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo Bộ Thương mại xây dựng và triển khai thực hiện Đề án “Phát triển thương mại
trong nước giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020”.
Một số hoạt động hội nhập KTQT Việt Nam giai đoạn này:
Năm 2000, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA).
Tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia sáng lập ASEM.
Tháng 11/1998, Việt Nam được kết nạp vào APEC.
Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng
tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp,
18
đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì
được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó,
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ
tăng 5,2%. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là
7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.
Đơn vị tính: %
Hình 1.3: Tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam trong các năm 1996 - 2000
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
- Giai đoạn 2001 - 2006:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định tính tất yếu của toàn cầu hoá, chỉ rõ
ràng khả năng tận dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại để tránh khỏi
nguy cơ tụt hậu, thực hiện phương châm đối ngoại “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Nghị
quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị nêu mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của
quá trình hội nhập. Nghị quyết cũng nêu rõ 9 nhiệm vụ liên quan tới các công tác tư tưởng,
tuyên truyền, xây dựng chiến lược tổng thể với lộ trình cụ thể, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh đào tạo nguồn nhân lực, kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại,
gắn chủ trương hội nhập với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng, tích cực đàm phán gia
nhập WTO. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục khẳng định “Hội nhập kinh tế
19