Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.3 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại hiện nay là điều kiện
thuận lợi để những nước chậm và đang phát triển có cơ hội phát triển nhanh,
mạnh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Nằm trong xu hướng vận động đó, Việt Nam đã từng bước ra khỏi nhóm nước
kém phát triển thu nhập thấp, chuyển sang nhóm nước đang phát triển có mức
thu nhập trung bình. Có được thành quả đó, bên cạnh sự phát huy nội lực,
Việt Nam đã và đang nhận được sự trợ giúp từ phía các nước phát triển.
Hiện nay có trên 50 đối tác đặt quan hệ song phương, đa phương đã và
đang nỗ lực hỗ trợ Việt Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Việc vay nợ nước từ những quốc gia đó nhằm mục đích đáp ứng các
nhu cầu đầu tư, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn
trả nợ và đảm bảo phát triển bền vững. Từ những lợi ích trên, có thể nhận thấy
kinh nghiệm đi vay là yếu tố quan trọng hàng đầu trước khi có những chiến lược
quản lý hay sử dụng vốn vay hiệu quả. Học hỏi từ các bài học đi vay của một số
nước trên thế giới, Việt Nam kết hợp với tình hình thực tế của đất nước sẽ rút ra
nhiều kinh nghiệm vay nợ nước ngoài trong hiện tại và tương lai.
Từ những lý do trên, nhóm 7 chọn vấn đề “Kinh nghiệm vay nợ nước
ngoài của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
Tiểu luận gồm 3 phần chính:
Phần 1: Tổng quan về vay nợ nước ngoài
Phần 2: Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của một số quốc gia
Phần 3: Bài học kinh nghiệm vay nợ nước ngoài đối với Việt Nam
Chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giảng dạy của TS
Nguyễn Thị Kim Chi. Rất mong nhận được sự góp ý và ủng hộ của cô.
2
Phần 1
TỔNG QUAN VỀ VAY NỢ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm
Theo Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài (ban hành kèm theo Nghị


định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ) thì vay nước ngoài là
các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn vay đến một năm), trung và dài hạn (có
thời hạn vay trên một năm) có hoặc không trả lãi do Nhà nước, Chính phủ Việt
Nam và các tổ chức là người cư trú ở Việt Nam (gọi tắt là bên đi vay) vay của
các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ các nước, các tổ chức và cá nhân nước
ngoài khác (gọi tắt là bên cho vay nước ngoài). Như vậy, theo cách hiểu này,
vay nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt
Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân
và hộ gia đình).
Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân
hàng Thanh toán Quốc tế, Ban Thư ký Khối Thịnh Vượng chung, Tổ chức
Thống Kê Châu Âu, Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế, Ban Thư Ký Câu lạc bộ Paris, Hội nghị về Thương Mại và Phát triển của
Liên Hợp Quốc, nợ nước ngoài được thống nhất định nghĩa: “ Tổng nợ nước
ngoài tại bất kỳ thời điểm nào, là tổng dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm
đó, không bao gồm các nghĩa vụ nợ dự phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh
toán nợ gốc có hay không có lãi trong tương lai và khoản nợ này là nợ của người
cư trú với người không cư trú trong quốc gia”.
2. Phân loại vay nợ nước ngoài
2.1 Phân loại theo chủ thể đi vay (bao gồm vay nước ngoài của Chính
Phủ và vay nước ngoài của doanh nghiệp):
Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay do cơ quan được ủy
quyền của Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam ký vay với Bên cho vay nước
ngoài dưới danh nghĩa Nhà nước hoặc Chính phủ bao gồm các khoản vay ưu đãi
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vay thương mại hoặc tín dụng xuất khẩu và
vay từ thị trường vốn quốc tế thông qua việc phát hành trái phiếu dưới danh
nghĩa Nhà nước hoặc Chính phủ (kể cả trái phiểu chuyển đổi nợ) ra nước ngoài.
Vay nước ngoài của các doanh nghiệp là các khoản vay do doanh nghiệp
được thành lập và hoạt động theo luật pháp hiện hành của Việt Nam ( kể cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trực tiếp ký vay với Bên cho vay nước

ngoài theo phương thức tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ, hoặc vay thông qua
việc phát hành các trái phiếu ra nước ngoài (trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu
ngân hàng…). Vay nước ngoài của các doanh nghiệp bao gồm: Vay có bảo lãnh
3
của Chính phủ, vay có bảo lãnh của ngân hàng hoặc các hình thức bảo đảm khác
được quy định của Nhà nước).
2.2 Phân loại theo chủ thể cho vay (bao gồm các khoản vay song phương
và vay đa phương):
Vay đa phương chủ yếu đến từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân
hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong
khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ.
Vay song phương đến từ chính phủ một nước như các nước thuộc OECD
và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một chính phủ duy
nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
2.3 Phân loại theo loại hình đi vay (bao gồm vay hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) và vay thương mại):
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Theo định nghĩa của tổ chức
Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các
chuyển khoản song phương (giữa các chính phủ) hoặc đa phương trong đó ít
nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Vay hỗ trợ phát triển chính
thức là loại hình vay nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu tiên về lãi suất, về thời
gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp
hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức
dài (có thể 10,15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài. Do vậy, các nước đang
phát triển thường hướng tới và vận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có
những mặt trái của nó, việc cho vay hỗ trợ phát triển chính thức đôi khi kèm
theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên.
Vay thương mại: Vay thương mại khác với vay hỗ trợ phát triển chính
thức là không có ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn. Lãi suất vay thương mại

là lãi suất thị trường tài chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường.
Chính vì vậy, vay thương mại có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc
vay thương mại của chính phủ phải được cân nhắc hết sức cẩn trọng.
2.4 Phân loại theo thời hạn vay (bao gồm vay ngắn hạn và vay dài hạn)
Vay ngắn hạn là loại vay có thời gian đáo hạn một năm trở xuống. Vì thời
gian đáo hạn ngắn nên khối lượng thương lượng không đáng kể, vay ngắn hạn
thường không thuộc đối tượng quản lý chặt chẽ như vay dài hạn. Tuy nhiên, vay
ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định hệ thống ngân hàng.
Vay dài hạn là những khoản vay có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng
hoặc đã gia hạn kéo dài thêm một năm tính từ ngày ký kết hợp đồng vay nợ cho
đến hạn khoản thanh toán cuối cùng. Vay dài hạn được quan tâm quản lý hơn do
khả năng tác động lớn tới nền tài chính quốc gia.
3. Vai trò của vay nợ nước ngoài
3.1 Vay nợ nước ngoài đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư
4
Để thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn đầu tư của
các nước đang phát triển rất lớn, vượt qua khả năng của nền kinh tế. Vay nợ
nước ngoài là nguồn tài trợ đầu tư bổ sung phổ biến của các nước có nền kinh tế
thị trường trong giai đoạn đầu và giữa của quá trình phát triển. Nhiều nước trong
số này, khi đã đạt đến trình độ phát triển cao, lại trở thành các nước cho vay vốn
lớn, chẳng hạn như Nhật Bản. Nợ nước ngoài cũng có thể làm thay đổi cơ cấu
nền kinh tế bằng việc đầu tư vào các ngành mũi nhọn, tạo đà cho nền kinh tế
phát triển.
Nguồn vốn vay nước ngoài là nguồn lực bổ sung để phát triển kinh tế khi
sản xuất trong nước chỉ đủ để duy trì mức tiêu dùng thấp. Với việc đi vay nước
ngoài, một quốc gia có cơ hội đầu tư phát triển ở mức cao hơn trong thời điểm
hiện tại mà không phải giảm tiêu dùng trong nước, và nhờ vậy, có thể đạt được
tỷ lệ tăng trưởng trong hiện tại cao hơn mức mà bản thân nền kinh tế cho phép.
Cái giá phải trả của việc này là sự giảm sút nguồn đầu tư, cũng là nguồn lực tăng
trưởng trong tương lai, khi mà quốc gia sẽ phải trả lãi nợ nước ngoài và vốn gốc.

Như vậy, đối với các quốc gia đang phát triển, việc sử dụng nguồn vốn vay nước
ngoài về bản chất là vấn đề cân đối giữa tiêu dùng trong hiện tại với tiêu dùng
trong tương lai. Việc vay nợ nước ngoài chỉ có thể có hiệu quả nếu nó đảm bảo
không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiêu dùng của các thế hệ tương lai.
3.2 Vay nợ nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao
năng lực quản lý
Bên cạnh việc dùng các nguồn vốn tự có để nhập khẩu máy móc thiết bị
kèm theo chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, việc vay vốn nước ngoài
bổ sung thêm nguồn vốn để nhập khẩu các máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ
tiên tiến cùng với kỹ năng quản lý của nước ngoài. Các dự án đầu tư đã góp
phần hiện đại hóa nhiều ngành, lĩnh vực, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác
chuyển đổi theo, tạo ra một lực lượng lao động mới, hiện đại có công nghệ tiên
tiến và góp phần thúc đẩy hiệu quả của cả nền kinh tế. Cùng với các dự án đầu
tư là việc chuyển giao kỹ năng quản lý của các chuyên gia nước ngoài. Các dự
án hợp tác đào tạo cũng tạo ra rất nhiều cơ hội đào tạo lại và đào tạo nâng cao
cho lực lượng cán bộ chủ chốt của các ngành, các địa phương, góp phần nâng
cao năng lực quản lý của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung.
3.3 Vay nợ nước ngoài ổn định tiêu dùng trong nước
Khi có những cơn sốc đột ngột giáng vào nền kinh tế, sản lượng bị thiếu
hụt năng nề và tiêu dùng trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chẳng hạn,
những đợt thiên tai liên tiếp dẫn đến ngành nông nghiệp bị mất mùa lớn; khủng
hoảng tài chính khu vực khiến cho nền kinh tế bị thiệt hại nặng. Trong những
trường hợp như vậy, bên cạnh các khoản viện trợ khẩn cấp, các khoản vay nợ
nước ngoài khẩn cấp đóng vai trò là biện pháp ổn định tiêu dùng trong nước
trong ngắn hạn, trong khi nền kinh tế dần được phục hồi.
5
3.4 Vay nợ nước ngoài bù đắp cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán có thể tạm thời bị thâm hụt do điều kiện bất lợi tạm
thời trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn khi giá hàng xuất khẩu các sản phẩm
của một nước bị giảm sút so với giá hàng nhập khẩu, nước đó cũng có thể sử

dụng biện pháp vay nợ nước ngoài để duy trì tiêu dùng trong ngắn hạn. Tuy
nhiên, giải pháp này thường có rủi ro cao, vì không có gì chắc chắn rằng các
nước đi vay sẽ có được thu nhập khá hơn khi đến hạn phải trả nợ. Thêm vào đó,
các khoản vay nợ để bù đắp cán cân thương mại thường là ngắn hạn.
Các nước đang phát triển cũng sử dụng hình thức đi vay tín dụng thương
mại ngắn hạn để tham gia vào thương mại quốc tế với nguồn vốn ngoại tệ ít ỏi.
Bằng cách nhận tín dụng thương mại của đối tác, nước đi vay sẽ tránh được việc
phải huy động nguồn dự trữ ngoại tệ của mình để thanh toán cho các khoản nhập
khẩu hàng hóa, các chi phí xuất khẩu hoặc chi phí vận tải. Song, tín dụng thương
mại ngắn hạn đương nhiên có mức lãi suất cao tương ứng mà nước đi vay phải
gánh chịu.
Tác động của vay nợ nước ngoài đối với phát triển kinh tế xã hội các nước
đang phát triển là rất rõ. Tuy nhiên việc sử dụng giải pháp vay nợ nước ngoài
luôn tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến một nền tài chính không bền vững và không hiếm
trường hợp nợ nước ngoài quá cao và quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến khủng hoảng
tài chính và kinh tế suy thoái. Tác động của việc vay nợ nước ngoài đến các nền
kinh tế đang phát triển rất khác nhau, tùy thuộc vào môi trường chính sách của
các nước này và năng lực quản lý nguồn vốn vay nước ngoài của các Chính phủ.
Song không phải tất cả các Chính phủ đều nhận thức được và có đủ khả năng thể
chế, khả năng quản lý nền kinh tế như mong muốn, nhất là quản lý vốn vay
nước ngoài của khối kinh tế tư nhân. Chẳng hạn, nhiều nước châu Mỹ La-tinh
như Mêhicô, Achentina, Chilê đã rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng
với những bước thụt lùi đáng kể trong phát triển do hậu quả của cuộc khủng
hoảng nợ nước ngoài trong thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Cuộc khủng hoảng tài
chính ở Châu Á trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20 là một ví dụ tương tự. Do lệ
thuộc quá lớn và nguồn vốn vay nước ngoài, nhiều nước đang phát triển như
Thái Lan, Indonexia đã rơi vào tình trạng hệ thống tài chính mất cân đối nghiêm
trọng, dẫn đến khủng hoảng kinh tế với sự phá sản đồng loạt của các thể chế tài
chính và các công ty.
6

Phần 2
KINH NGHIỆM VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
1. Châu Mỹ La tinh, Khu vực Đông Á cuối thập kỷ 90
1.1 Chiến lược vay nợ và khủng hoảng nợ ở các nước châu Mỹ latinh
trong những năm 1980-90
Trước cuộc khủng hoảng, châu Mỹ latinh đã đạt tới trình độ phát triển
kinh tế cao hơn nhiều so với Châu Á hoặc Châu Phi. Thời kỳ 1950-1970, nhiều
nước Mỹ latinh như Braxin, Mêhicô, Achentina và Vênêduêla đã đạt được tốc
độ tăng trưởng cao liên tục, và khi đó các nước này từng được đánh giá là “các
nước công nghiệp mới” (NICs). Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ vào
năm 1982 và kéo dài trong những năm sau đó đã khiến cho các nước này không
thể trở thành NICs. Không chỉ như vậy, suốt cả thập kỷ sau đó, nền kinh tế Mỹ
Latinh rơi vào tình trạng suy thoái.
Khủng hoảng nợ ở châu Mỹ Latinh chủ yếu liên quan đến việc quản lý
vay nợ nước ngoài của khu vực tư nhân. Là những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, các nước Mỹ La tinh từng là điểm đến mong đợi của vốn vay nước
ngoài. Các biện pháp cải cách nền tài chính theo hướng tự do hóa cũng là yếu tố
khuyến khích các công ty trong nước vay nợ. Giữa thập kỷ 70, nhiều nước Mỹ
Latinh bao gồm Chi lê, Urugoay, Achentina, bắt đầu cải cách kinh tế theo hướng
tự do hóa thương mại, tự do hóa thị trường tài chính trong nước và chu chuyển
vốn, tư nhân hóa công nghiệp công cộng. Việc kiểm soát ngoại tệ, kiểm soát chu
chuyển vốn và các hạn chế khác được bãi bỏ. Chẳng hạn, Achentina giảm mức
dự trữ bắt buộc xuống con 45% và cho phép các ngân hàng tự do quyết định lãi
suất. Chi lê, Urugoay và Achentina đều bãi bỏ các hạn chế đối với việc chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài và cho phép tư nhân tự đo đàm phán vay vốn nước
ngoài. Kết quả của việc tự do hóa chu chuyển vốn là các nhà đầu tư trong nước
có khả năng tiếp cận vốn vay nước ngoài một cách không hạn chế.
Trong giai đoạn từ 1975 đến 1982, nợ nước ngoài của các nước Mỹ
Latinh tăng với tốc độ 20,4% mỗi năm. Tổng nợ của các nước này tăng từ 75%
tỷ đôla năm 1975 lên thành 314 tỷ năm 1983, tương đương với 50% GDP của cả

khu vực. Tổng nợ phải thanh toán (bao gồm lãi và vốn gốc đến hạn) còn tăng
nhanh hơn, đạt mức 66 tỷ đô la vào năm 1982, trong khi chỉ có 12 tỷ đô la vào
năm 1975.
Nhu cầu thanh toán nợ bằng ngoại tệ một lần nữa làm trầm trọng thêm sự
thiếu hụt cán cân thanh toán. Trong khi nợ phải thanh toán hàng năm tăng 24%
thì xuất khẩu chỉ tăng 12%. Nguyên nhân chính là cho đến thời gian này, chiến
lược phát triển kinh tế chủ yếu của các nước Mỹ Latinh vẫn nặng về thay thế
7
nhập khẩu. Khoảng cách giữa thu nhập từ xuất khẩu và nhu cầu chi trả nợ hàng
năm ngày càng lớn dần.
Để đối phó với sự thâm hụt cán cân thanh toán, các nước Mỹ Latinh đi
vay nhiều hơn. Cho đến tận khi khủng hoảng nợ bùng nổ vào năm 1982, chu
chuyển vốn ròng rót vào các nước này vẫn tăng 17-20% mỗi năm. Do dòng vốn
rót vào lớn, tỷ giá hối đoái thực tế vẫn cao. Thêm vào đó, nhiều nước Mỹ latinh
chủ ý giữ giá đồng nội tệ như một biện pháp chống lạm phát. Tỷ giá hối đoái
liên tục tăng đến tận cuối thập kỷ 70, trong khi lãi suất quốc tế danh nghĩa thời
kỳ này tương đối thấp do các nước OPEC xuất khẩu dầu mỏ thừa rất nhiều vốn
cho vay, nên trên thực tế lãi suất vay vốn nước ngoài ở các nước Mỹ Latinh trở
thành âm. Tình hình này càng khuyến khích cả Chính phủ và tư nhân vay nợ
nhiều hơn.
Khủng hoảng vay nợ ở các nước Mỹ Latinh chủ yếu liên quan đến chính
sách quản lỷ nợ của tư nhân với các ngân hàng thương mại nước ngoài, song nó
xuất phát từ những mất cân đối về thương mại và tài khóa tích tụ trong nhiều
năm trước đó và có sự tham gia tích cực của Chính phủ thông qua các chính
sách kinh tế vĩ mô. Châu Mỹ Latinh đã trải qua cuộc khủng hoảng nợ nước
ngoài bùng nổ vào năm 1982 và kéo dài trong những năm sau đó khiến cho nền
kinh tế khu vực rơi vào tình trạng suy thoái.
Năm 1982, khủng hoảng nợ bùng nổ, bắt đầu bằng việc Mêhicô tuyên bố
không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Khác với nhiều nước Mỹ Latinh,
Mêhicô là nước xuất khẩu dầu mỏ và được lợi rất nhiều từ việc giá dầu tăng vọt.

Trong khoảng từ năm 1976 đến năm 1981, doanh thu từ xuất khẩu dầu hàng
năm của Mêhicô tăng từ 600 triệu đô la lên 14 tỷ đô la. Tuy nhiên, cùng lúc đó
nhập khẩu tăng 30% mỗi năm, tạo nên lượng thâm hụt cán cân thanh toán 12,5
tỷ đô la vào năm 1981. Để tài trợ cho sự thâm hụt này, cả khu vực công lẫn khu
vực tư nhân ở Mê hi cô đều đi vay nước ngoài, phần lớn là vay ngắn hạn. Khi
giá dầu tăng vọt lần thứ hai vào năm 1979, Mỹ và các nước OECD phản ứng
bằng cách tăng lãi suất và thắt chặt tiền tệ. Song, chính phủ Mê hi cô vẫn tiếp
tục tăng chi tiêu công cộng tài trợ bằng vốn vay vì cho rằng lãi suất tăng là hiện
tượng ngắn hạn, trong khi giá dầu tăng là xu hướng dài hạn.
Tuy nhiên, năm 1981, giá dầu đứng dần do nền kinh tế Mỹ suy thoái và
nhu cầu về dầu mỏ giảm mạnh, song lãi suất vẫn đứng ở mức cao gần mức đỉnh
điểm 19% của năm 1980. Khi những dấu hiệu khủng hoảng đã lộ rõ, khối kinh
tế tư nhân lập tực chuyển tài sản ra nước ngoài khiến Mê hi cô lâm vào tình
trạng khủng hoảng. Chính phủ Mê hi cô phải tăng cường kiểm soát nhập khẩu,
cắt giảm chi tiêu và phá giá đồng pê sô đến 80%, tuy nhiên vẫn không cứu vãn
được tình thế. Đến tháng 8/1982, chính phủ buộc tuyên bố không có khả năng
8
trả nợ. Mỹ, các nước OECD và IMF phải quyết định cho Chính phủ Mê hi cô
vay khẩn cấp 190 triệu USD cùng với một số khoản tài trợ ngắn hạn khác để
giúp nước này không phải tuyên bố phá sản trong thời gian thực hiện cơ cấu lại
nợ.
Sau sự kiện này, hầu hết các ngân hàng thương mại đều dừng ngay việc
cho vay đối với các nước Mỹ Latinh. Tình trạng nợ trở nên trầm trọng thêm do
“chảy máu vốn”. Dòng vốn đầu tư chảy ra nước ngoài từ các nước Mỹ Latinh
lên đến 151 tỷ USD trong giai đoạn 1973-85, bằng 40% tổng nợ của các nước
này. Tình trạng bất công xã hội trầm trọng thêm, do người dân nghèo phải chịu
chế độ tài chính thắt lung buộc bụng của Chính phủ để trả nợ cho các ngân hàng
nước ngoài, trong khi các ngân hàng này lại trả lãi cho những người Mỹ Latinh
giàu có có tài sản gửi ở các ngân hàng này.
Dòng vốn chảy ra nước ngoài đầu những năm 80 làm giảm tỷ giá hối đoái

ở Mê hi cô, Braxin, Chi lê và Achentina, do đó làm tăng lãi suất thực tế ở những
nước này. Các ngân hàng bắt đầu đòi nợ. Số lãi nợ không trả được lại được các
ngân hàng cộng vào vốn gốc. Cứ như vậy, lượng lãi nợ phải thanh toán của các
nước Mỹ Latinh tăng vọt. Vào năm 1984, lãi nợ phải trả bằng 5% GNP của toàn
khu vực.
Để trả nợ, các nước Mỹ Latinh đã phải trải qua một quá trình điều chỉnh
nền kinh tế lâu dài và đau đớn. Từ chỗ thâm hụt cán cân thương mại 2 tỷ đô la
vào năm 1981, các nước này đã chuyển sang “dư thừa” cán cân thương mại ở
mức 31 tỷ đô la vào năm 1983 mà phần lớn lượng “dư thừa” này là tiền trả lãi
nợ. Các nước này cũng phải chuyển sang chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ,
trong nhiều trường hợp nhà nước phải đứng ra trả những món nợ khổng lồ tư
nhân. Trong các năm 1982-85 các nước Mỹ latinh trở thành những nhà xuất
khẩu vốn với 106 tỷ đôla chuyển ra nước ngoài để trả lãi nợ. Ngay cả như vậy,
các nước Mỹ Latinh cũng không thể trả hết khối lượng nợ tích tụ trong mấy
chục năm.
Tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ Latinh là sự
suy thoái kinh tế kéo dài. Biểu đồ cho thấy, hầu hết các nước Mỹ Latinh đều rơi
vào tình trạng sụt giảm nghiêm trọng tỷ lệ tăng trưởng trong thập kỷ 1980-90.
Tăng trưởng GDP thực tế hàng năm của khu vực này trong giai đoạn 1980-85
chỉ đạt 2,3%, còn GDP tính trên đầu người giảm dần 9% mỗi năm. Một vài nước
Mỹ latinh như Achentina, Pê ru có tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm âm.
9
Khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ Latinh để lại những bài học đắt giá về sử
dụng nguồn vốn vay nước ngoài, trong đó có nguồn vốn ODA. Khủng hoảng là
đỉnh cao của những mất cân đối tích tụ trong nhiều năm, do chính sách kinh tế
dựa quá nhiều vào nguồn vốn vay nước ngoài và buông lỏng quản lý nguồn vốn
này. Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế ở các nước Mỹ Latinh giai đoạn 1960-70
được tài trợ bằng cách đi vay, một nửa là vay ODA. Đồng thời, quá nhiều vốn
vay đã được sử dụng để bù đắp các khoản tiêu dùng và đầu tư kém hiệu quả của
Chính phủ và khối kinh tế công cộng. Các Chính phủ cũng thiếu sự quan tâm

cần thiết đốt với sự ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt với lạm phát và quản lý nợ.
1.2 Sử dụng vốn vay nước ngoài và khủng hoảng tài chính ở khu vực
Đông Á cuối thập kỷ 90
Khủng hoảng tài chính Đông Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan
rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, các trung tâm tiền tệ lớn và giá
cả của một số nước Châu Á, Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc là những nước bị
ảnh hưởng nhiều nhất. Một số nước khác như Hongkong, Malaysia, Philippines
cũng bị ảnh hưởng. Các nước ít bị ảnh hưởng hơn là Trung Quốc, Đài Loan,
Singapore và Việt Nam. Nhật Bản, một nước có nền kinh tế lớn gấp đôi tất cả
các nền kinh tế Châu Á cộng lại cũng phải trải qua những khó khăn do khủng
hoảng. Cuộc khủng hoảng Đông Á cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh
tế Mỹ, Braxin và Nga.
Liên tục từ cuối thập niên 80 cho đến đầu thập niên 90 nhiều nước trong
khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia và Hàn Quốc có tỷ lệ
10
tăng trưởng mạnh mẽ, đạt khoảng 8-12% tổng sản lượng nội địa. Thành quả này
đã được nói đến như “ sự thần kỳ Châu Á”.
Cho đến năm 1997, Châu Á đã thu hút gần một nửa tổng luồng tiền nước
ngoài đầu tư vào các nước đang phát triển. Việc các nước Châu Á duy trì mức
lợi tức cao đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là nhiều
nước đã nhận được một khối lượng lớn luồng tiền đầu tư và giá tài sản tăng vọt.
Thiếu hụt trong tài khoản vãng lai tư nhân ở các nước như Thái lan, Indonesia,
Hàn Quốc của việc duy trì tỷ giá cố định đã khuyến khích các nước này vay nợ
nước ngoài. Kết quả dẫn đến sự lệ thuộc lớn và rủi ro hối đoái của cả hai lĩnh
vực: tài chính và doanh nghiệp.
Đến giữa thập niên 90, nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi, Ngân hàng Dự
trữ Liên bang Mỹ bắt đầu nâng tỷ lệ lãi suất để ngăn chặn lạm phát. Việc tăng
lãi suất đã thu hút luồng tiền đầu tư vào Mỹ, đồng đô la tăng giá, trong khi các
nước Đông Nam Á vẫn cố định đồng tiền của mình vào đô la Mỹ. Hậu quả là
xuất khẩu của các nước Đông Nam Á trở nên kém hấp dẫn, làm giảm tỷ lệ tăng

trưởng xuất khẩu của họ và cán cân tài khoản vãng lai xấu đi.
Năm 1996, đồng bath Thái bị sụt giá ở mức kỷ lục 56 bath/1 đôla. Thị
trường chứng khoán Thái Lan giảm giá 75% vào năm 1997, công ty tài chính
lớn nhất ở Thái Lan- Finance One bị phá sản. Đồng peso của Philippines cũng
sụt giá nghiêm trọng từ 26 peso/1 đôla xuống 38 rồi 40 vào cuối đợt khủng
hoảng. Do hệ thống ngân hàng phải gánh chịu một khối lượng lớn nợ xấu vì đầu
tư ào ạt cho các tập đoàn lớn. Đồng Won sụt giá từ 100 xuống 1700 trên 1 đôla.
Indonesia có tỷ lệ lạm phát thấp, thặng dư cán cân ngoại thương, tuy nhiên các
công ty Indonesia vay một lượng lớn bằng USD. Sau khi khủng hoảng xảy ra
với các nước trong khu vực, đồng rupiah bắt đầu sụt giá, thị trường chứng khoán
Indonesia suy giảm nhanh chóng. Trong thời gian khủng hoảng, tỷ giá của
rupiad sụt xuống còn 18.000 rupiah/ 1 đô la (trước đó là 1.800/ 1 đô la).
Tăng trưởng kinh tế của các nước rơi vào khủng hoảng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Tỷ lệ tăng trường GDP của Hàn Quốc năm 1996 là 7,1% năm
1997 giảm xuống 5,5% và năm 1998 rớt xuống -7,7%. Tình hình kinh tế ở Thái
Lan cũng tương tự. Nếu như tỷ lệ tăng trưởng năm 1996 là 5,5%, năm 1997 rớt
xuống -0,4% và năm 1998 rớt xuống -7%. Tình hình kinh tế của Indonesia còn
trầm trọng hơn, tỷ lệ tăng trưởng năm 1996 là 8,2%, năm 1997 giảm xuống 2%
và năm 1998 rớt xuống -16%.
Ngay sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra, các phương tiện thông tin đã tập
trung vào vai trò của tự do hóa thị trường tài chính, việc mở cửa cho các dòng
đầu tư tài chính toàn cầu và thất bại của thị trường và coi đó là nguyên nhân
chính dẫn đến khủng khoảng. Người ta cho rằng các nhà đầu tư đã dựa vào
11
thông tin tích cực nhưng không đầy đủ và đã đầu tư quá nhiều vào một số lĩnh
vực, sau đó lại dựa vào thông tin tiêu cực nhưng không đầy đủ đột ngột quyết
định rút vốn ra khỏi một số nước.
Tuy nhiên, sau khi nhìn nhận các vấn đề một cách rõ ràng hơn người ta
thấy có những nguyên nhân sâu xa hơn việc tự do hóa thị trường tài chính.
Nhiều nhà kinh tế học tin tưởng rằng cuộc khủng hoảng Châu Á được tạo ra

không phải do tâm lý thị trường mà do các chính sách kinh tế vĩ mô bóp méo
thông tin, dẫn đến tính bất ổn và hấp dẫn các nhà đầu cơ. “ Tâm lý bầy đàn” ở
đây được coi là hậu quả của việc các nhà đầu cơ hành xử hợp lý trong việc suy
xét chính sách tiền tệ của Chính phủ (chính sách bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định)
mà họ cho là không hợp lý và không thể duy trì lâu được.
Nói về khủng hoảng tài chính ở Đông Á trong thập niên 90 phải lưu ý
rằng những bài học thành công của các nước Đông Á hầu như còn nguyên vẹn
và vẫn tiếp tục phát huy sau giai đoạn điều chỉnh thích hợp. Ngoài ra, mặc dù rơi
vào khủng hoảng nhưng tình hình tài chính ở Đông Á vẫn lành mạnh hơn nhiều
so với Mỹ latinh. Nếu như trong thời gian khủng hoảng, nhiều nước ở châu Mỹ
Latinh có tỷ lệ nợ nước ngoài lên tới 300% hoặc cao hơn so với thu nhập từ xuất
khẩu, thì ở Đông Á chỉ có Indonesia là có mức nợ nước ngoài cao đến mức đó,
còn hầu hết các nước khủng hoảng khác có tỷ lệ nước ngoài thấp nhiều hơn.
2. Bài học vay nợ của Nga và Dubai
2.1 Thực trạng và các giải pháp trả vay nợ nước ngoài của Nga
Vào những năm cuối thế kỷ XX, tình hình kinh tế chính trị xã hội ở Nga
có nhiều bất ổn. Đó là sự sụp đổ hệ thống chính trị cũ, hệ thống chính trị mới
chưa hình thành, Đảng cộng sản mất quyền lãnh đạo đất nước, nhiều đảng phái
chính trị mọc lên. Quyền lực nhà nước hoàn toàn bị tê liệt, các nhóm tài phiệt
kiểm soát toàn bộ nền kinh tế và bộ máy chính trị. Một bộ máy lãnh đạo không
có uy tín ở trong nước cũng như ở nước ngoài, nội chiến tái bùng phát dữ dội ở
Che-xnhi-a. Vay nợ nước ngoài của Nga ở thời điểm cuối năm 1998 ở 183,6 tỷ
USD. Báo chí phương Tây lúc đó nói rằng “với số nợ nước ngoài khổng lồ như
vậy, ngay đến lãi suất của các khoản nợ này Nga cũng khó có thể trả nổi”, hàng
chục triệu người dân Nga bị đẩy và cảnh khốn cùng. Từng là bộ phận trụ cột của
siêu cường thế giới trước đây, Nga đã bị trượt xuống hạng các quốc gia đang
phát triển- một vị thế yếu kém và mờ nhạt trên trường quốc tế.
Sự thần kỳ của Nga trong việc rũ bỏ nợ nần
+ Cuối năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP là 90%.
+ Năm 2003, Nga trả hết khoản nợ nước ngoài đến hạn cả gốc lẫn lãi là 17

tỉ USD, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP giảm xuống còn 26%.
+ Năm 2005, nợ nước ngoài của Nga là 215,3 tỷ USD.
12
+ Đến ngày 21/8/2006, Nga đã trả trước thời hạn 22,5 tỷ USD hầu như
toàn bộ số nợ tồn đọng từ thời Liên Xô cũ cho Câu lạc bộ Paris (đến hạn 2012),
nợ nước ngoài còn lại khoảng 50 tỷ USD, tức là 9% GDP.
+ Đến 2007, nợ nước ngoài chỉ còn dưới 3% GDP thuộc loại chỉ số thấp
nhất thế giới
Những nguyên nhân chính dẫn đến sự thành công của Nga trong việc vay
và trả nợ nước ngoài trong thời gian qua:
+ Lợi nhuận từ dầu lửa giúp Nga thanh toán nợ từ thời Xô Viết:
Hiện nay, Nga là nước xuất khẩu khí đốt lớn nhất thế giới và là nước xuất
khẩu dầu lớn thứ hai thế giới (chiếm tới 13% tổng trữ lượng dầu mỏ và 34% trữ
lượng khí đốt thế giới).
Dưới thời Putin, nước Nga đã thu được khoảng 1.000 tỉ USD từ nguồn
dầu mỏ và khí đốt. Năm 2007, đã xuất khẩu khoảng 400 tỷ USD dầu mỏ, vượt
cả Ả- rập Xê út.
+ Nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải và phát triển nhanh từ năm 1999,
giai đoạn 1999-2005 GDP tăng trưởng trung bình hàng năm 6,2% tổng vốn đầu
tư nước ngoài đã chảy và Nga đạt tới 82,3 tỷ USD, thị trường vốn vào thời điểm
cuối năm 2007 đã lên đến 1330 tỷ USD, kim ngạch ngoại thương năm 2007 hơn
550 tỷ USD. Thặng dư ngân sách là 776 tỷ rúp (tương đương 27 tỷ USD).
+ Sự cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm 2000-2001 đã làm
tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế
Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào
xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ, các mặt hàng này
chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu.
+ Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nằm nhiều hơn vào nhu
cầu về các mặt hàng tiêu dung trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên
12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị

trường nội địa.
+ Phương thức cải cách nền chính trị - xã hội phù hợp với đặc điểm và
điều kiện phát triển mới của mình trong bối cảnh mới của thế giới là cạnh tranh
gay gắt cùng song hành với hợp tác, hội nhập để phát triển.
+ Nga đã thành công trong việc thiết lập hệ thống kinh tế thị trường ổn
định và phù hợp, thiết lập lại trật tự kinh tế trong nước, nghiêm trị các hành vi
tham nhũng, chấn chỉnh các tập đoàn và cá nhân từng thao túng nền kinh tế
trong thời kỳ En-xin còn cầm quyền.
+ Đồng thời Nga đã tăng cường sức sống cho khu vực kinh tế nhà nước.
Về chính trị, Nga đã thành công trong việc củng cố quyền lực trung ương và
thiết lập hệ thống chính quyền theo chiều dọc khá ổn định.
13
+ Quan tâm phục hưng nền khoa học - công nghệ, với chính sách và các
chương trình phát triển khoa học - công nghệ, Nga từ một quốc gia dựa trên cơ
sở sản xuất nguyên liệu, thành quốc gia có nền kinh tế công nghệ cao mà trước
hết là: công nghệ chế tạo máy bay, đóng tàu, năng lượng nguyên tử, tổ hợp công
nghiệp quân sự.
2.2 Thực trạng và khủng hoảng vay nợ nước ngoài của Dubai
Dubai là một ví dụ tiêu biểu về sự phát triển kinh tế bùng nổ tới bờ vực vỡ
nợ. Dubai là một quốc gia thành viên, đồng thời cũng là thành phố cùng tên,
thuộc Tiểu vương quốc Arap thống nhất UAE. Tuy nằm trong UAE nhưng
Dubai luôn duy trì được quyền tự trị của họ. Khi hiến pháp của UAE được soạn
thảo, sự độc lập tương đối này của Dubai được công nhận, vì theo hiến pháp
này, mỗi tiểu vương quốc của UAE được phép nắm quyền kiểm soát đối với
nguồn tài nguyên thiên nhiên và đường lối phát triển kinh tế của mình. Theo thời
gian, Dubai dần có sự sáp nhập chặt chẽ hơn vào UAE. Vào năm 1996, tiểu
vương quốc này đã sáp nhập lực lượng quân đội của mình vào đội quân của
UAE. Tuy nhiên, động thái này khi đó được xem là nhằm mục đích để UAE
gánh giúp những khoảng chi phí tốn kém, nhờ đó cho phép Dubai nhẹ gánh để
theo đuổi những than vọng kinh tế của riêng họ.

Khủng hoảng vay nợ của Dubai
+ Gần như không có dầu lửa, niềm hy vọng duy nhất của Dubai để tạo vị
thế bên cạnh tiểu vương quốc láng giềng giàu có Abu Dhabi là phát triển mạnh
mẽ những lĩnh vực như du lịch cao cấp và bất động sản. Và Dubai cũng đã gặt
hái được không ít thành công với chiến lược này. Tới năm 2008, 95% GDP của
Dubai là do du lịch và bất động sản đóng góp.
+ Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính bùng nổ đã làm tất cả đảo lộn. Các
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào Dubai đã đóng bang, còn tiểu
vương quốc này thì mắc kẹt với những khoản nợ khổng lồ đã vay trước đó để
đầu tư vào những siêu dự án, trong đó có hòn đảo nhân tạo hình lá cọ lừng danh.
+ Do có nghĩa vụ phải sớm thanh toán nhiều khoản nợ trong số này, chính
phủ Dubai đã liên tục nỗ lực tìm kiếm nguồn vốn vay mới nhưng hầu như không
thành công. Thái độ của Abu Dhabi đối với vấn đề nợ của Dubai khẳng định, họ
sẽ không giúp Dubai trả hết nợ, mà sẽ chỉ lựa chọn hỗ trợ một số doanh nghiệp
của Dubai trong trường hợp cần thiết khiến cho khả năng vỡ nợ cấp quốc gia của
Dubai là rất lớn.
Những nguyên nhân chính dẫn đến sự khủng hoảng vay nợ của Dubai
+ Vấn đề của Dubai bắt nguồn từ tham vọng quá lớn và có phần kiêu ngạo
của vương quốc này. Tiểu vương quốc thuộc vùng Vịnh, khác với các thành viên
khác của các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, không có nhiều nguồn khai thác
dầu khí, và vì vậy phải tự xây dựng để trở thành một trung tâm tài chính, giao
14
thông, nơi đặt những tòa nhà lớn nhất, hoành tráng nhất và hiện đại nhất. Để lôi
kéo nhà đầu tư và giới doanh nhân, Dubai đã tự quảng cáo là một vùng đất miễn
thuế thu nhập dành cho giới thượng lưu và trung lưu từ khắp nơi trên thế giới.
Những nhà hoạch định của Dubai đã phát triển hình ảnh một trung tâm kiểu
cách dành cho những người giàu có mới nổi với những công trình độc đáo thu
hút mọi sự quan tâm như quần đảo nhân tạo hình cây cọ, tòa nhà cao nhất thế
giới hay những khách sạn dát vàng có một không hai.
+ Tuy nhiên khi thị trường thế giới sụp đổ vào năm ngoái, khu vực bất

động sản của Dubai cũng không tránh khỏi bị tác động, khiến các công ty xây
dựng như Nakheel phải chật vật với những dự án chưa hoàn tất và tìm nguồn tài
chính để trả nhà cung cấp. Các nhà đầu cơ biến mất, và hàng nghìn người nước
ngoài cũng như người dân nội địa đã đầu tư vào các ngôi nhà và căn hộ mà
không thể bán được. Giá nhà ở tại Dubai đã rơi xuống gần một nửa, mức sụt
giảm mạnh nhất so với bất cứ đâu trên thế giới.
3. Bài học vay nợ của Malaysia và Indonesia
3.1 Sự thành công từ bài học vay nợ của Malaysia
Từng là một nước thuộc địa của Anh, sau khi giành được độc lập năm
1957, Malaysia đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức: nghèo đói,
thất nghiệp cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém và thiếu vốn trầm trọng
để đầu tư phát triển. Từ những năm 1970, Malaysia nhận được viện trợ của cộng
đồng quốc tế, trong đó có các nhà tài trợ chính là Nhật Bản, Liên hiệp quốc
(UN), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Nguồn
viện trợ này đã góp phần quan trọng giúp Malaysia giải quyết vấn đề đói nghèo
và tái phân phối lại thu nhập.
Từ những năm 1980, viện trợ nước ngoài, với vai trò như vậy đã trở thành
đòn bẩy đưa Malaysia vượt qua điểm xuất phát thấp của nền kinh tế.
Thành công trong việc sử dụng nguồn viện trợ ODA ở Malaysia xuất phát
từ việc tập trung hóa trong quản lý nhà nước. Văn phòng Kinh tế Kế hoạch cùng
với Bộ Ngân khố đóng vai trò chủ yếu trong việc lập kế hoạch và quản lý hành
chính đối với nguồn viện trợ nước ngoài. Văn phòng này đảm nhận các chức
năng chủ yếu là đưa ra mục tiêu, chính sách, kế hoạch ở cấp trung ương; chịu
trách nhiệm phê duyệt chương trình dự án và quyết định phân bổ ngân sách phục
vụ mục tiêu phát triển quốc gia. Còn Bộ Ngân khố chịu trách nhiệm điều phối
những vấn đề liên quan đến tài chính và kế toán. Việc thực hiện các dự án liên
quan đến ODA, cùng việc đánh giá kết quả thực hiện, cũng như có các kiến nghị
thay đổi nếu cần thiết, đều được hai cơ quan này phối hợp rất hiệu quả. “Trái
tim” của Văn phòng Kinh tế Kế hoạch là Bộ phận lập Kế hoạch kinh tế. Bộ phận
15

này tập hợp những nhân sự có trình độ và dày dặn kinh nghiệm trong việc giải
quyết những vấn đề liên quan đến ODA. Bộ phận này còn đóng vai trò là Ban
thư ký Chương trình Viện trợ kỹ thuật nước ngoài của Malaysia, cố vấn cho Uỷ
ban Đầu tư nước ngoài.
Trong việc phân cấp quản lý ODA, Malaysia có sự phân định rõ ràng về
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý. Giữa các cơ quan này có sự phối
hợp chặt chẽ và có chung một quan điểm là tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các
ban quản lý dự án để thực hiện các dự án đúng tiến độ, áp dụng các thủ tục trình
duyệt nhanh gọn nhằm giảm bớt phí cam kết. Những hợp phần nào trong dự án
khó thực hiện, Chính phủ Malaysia chủ động đề nghị với nhà tài trợ hủy bỏ hợp
phần đó.
Bên cạnh đó, việc phân cấp tốt trong quản lý tài chính cũng là một lý do
tạo nên sự thành công của Malaysia trong việc thu hút, quản lý và sử dụng
ODA. Những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án tại Malaysia cũng
được giải quyết ngay tại các bang, do ban công tác phát triển bang và hội đồng
phát triển quận, huyện xử lý, không phải trình lên Chính phủ, hay các bộ chủ
quản. Sự phân cấp này trong quá trình thực hiện dự án sẽ giúp cho tiến độ dự án
không bị ngưng trệ vì chờ phê duyệt. Các đơn vị này sẽ chịu trách nhiệm trực
tiếp với chủ dự án khi có bất cứ sai sót nào xảy ra trong quá trình thanh tra. Phân
chia quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng như vậy không những nâng cao hiệu quả
của đồng vốn ODA, mà còn giúp nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ ở cấp
địa phương.
Bên cạnh đó, còn những nguyên nhân khác dẫn tới thành công trong vay
nợ ở Malaysia. Đó là:
- Sự phối hợp giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ trong trong hoạt
động kiểm tra, giám sát các dự án ODA, mà nội dung đánh giá tập trung chủ yếu
vào việc so sánh hiệu quả của dự án với kế hoạch, chính sách và chiến lược,
nâng cao công tác thực hiện và chú trọng vào kết quả.
- Có sự tham gia của khu vực tư nhân vào thực thi dự án đặc biệt trong
các dự án kết cấu hạ tầng, năng lượng và công nghiệp.

- Đặc biệt là văn hóa chịu trách nhiệm của các cán bộ quản lý ở Malaysia.
Tóm lại, việc phân cấp và cá thể hóa trách nhiệm trong mỗi bộ phận quản
lý tại Malaysia chính là thế mạnh để hoạt động vay nợ nước ngoài đạt hiệu quả
cao.
3.2 Công tác quản lý và sử dụng vốn vay ở Indonesia
16
Sau ba thế kỷ rưỡi dưới ách đô hộ của thực dân Hà Lan, Indonesia đã
giành được độc lập vào ngày 17/8/1945. Cũng giống như Malaysia, Indonesia
bắt đầu công cuộc xây dựng kinh tế từ nghèo đói và lạc hậu. Ngay từ giai đoạn
1965-1998, Indonesia đã nhận được các khoản đầu tư lớn của các nhà đầu tư
nước ngoài và khoản vay lớn từ cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, việc quản lý và
sử dụng nguồn vốn vay tại Indonesia bị đánh giá là không hiệu quả. Điển hình là
việc sử dụng và quản lý ODA trong lĩnh vực hạ tầng. Mặc dù chiếm phần lớn
tổng vốn ODA vào Indonesia, nhưng đến nay, kết cấu hạ tầng ở Indonesia vẫn
còn yếu kém. Một nguyên nhân không thể không nói tới là nạn tham nhũng
hoành hành ở Indonesia.
Để thay đổi tình hình, khắc phục được hạn chế, từ đầu những năm 2000,
Indonesia cũng điều chỉnh về quy trình thu hút, sử dụng và quản lý vay nợ nước
ngoài như sau:
- Hàng năm các bộ, ngành chủ quản phải lập danh mục các dự án cần hỗ
trợ vay nợ nước ngoài, gửi đến Bộ Kế hoạch quốc gia (BAPPENAS) để tổng
hợp. Bộ Kế hoạch quốc gia thường có quan điểm độc lập với bộ chủ quản, dựa
trên lợi ích tổng thể của quốc gia để xem xét, thẩm định các dự án vay nợ nước
ngoài. Đến nay, rất nhiều dự án bị Bộ Kế hoạch quốc gia từ chối, đã thể hiện rõ
tính độc lập, chủ quyền của Indonesia trong quan hệ quốc tế. Ngay cả địa điểm
ký các dự án vay nợ nước ngoài cũng thay đổi. Nếu trước đây thường ký tại Hoa
Kỳ (trụ sở của WB) hoặc Philippines (trụ sở của ADB), thì đến nay hầu hết các
dự án đều được ký tại Jakarta để tránh việc đoàn đàm phán của Indonesia bị đối
tác nước ngoài gây ảnh hưởng.
- Việc thuê các luật sư giỏi để tư vấn cho Chính phủ trong quá trình đàm

phán, thu hút và sử dụng vay vốn nước ngoài đang ngày càng trở thành xu
hướng phổ biến ở Indonesia, nhất là đối với các dự án ODA có sử dụng vốn vay
lớn.
- Chính phủ Indonesia tuyên bố nguyên tắc chỉ vay tiếp dự án mới khi đã
thực hiện xong dự án cũ, thể hiện rõ quyết tâm sử dụng thật sự hiệu quả và giải
ngân đúng tiến độ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức. Bên cạnh đó, Chính phủ
cũng nhấn mạnh nguyên tắc, vay nợ nước ngoài phải đảm bảo độ an toàn cao.
Đối với các dự án có sử dụng vốn lớn, yêu cầu phải có chuyên gia tư vấn là điều
kiện tiên quyết nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự án.
- Bộ Tư pháp Indonesia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút,
quản lý và sử dụng các dự án vay nợ nước ngoài, vì Bộ Tư pháp là cơ quan đưa
ra ý kiến về pháp lý đối với các dự thảo Hiệp định vay vốn nước ngoài. Mục
đích của cơ chế điều phối này là tránh sự trùng lặp trong hoạt động hợp tác.
17
Tháng 12/2003, để khắc phục tình trạng tham nhũng, Chính phủ Indonesia
đã huy động mọi nguồn lực, trong đó có nguồn ODA. Indonesia đã thành lập Uỷ
ban quốc gia về chống tham nhũng, ngân sách hoạt động chủ yếu do Nhà nước
cấp, ngoài ra còn thu hút được sự quan tâm tài trợ của nhiều đối tác nước ngoài
thông qua PGRI (Quan hệ đối tác trong lĩnh vực cải cách quản trị quốc gia
Indonesia).
Tóm lại, Indonesia đã vận dụng linh hoạt tình hình trong nước để có
những khoản vay hợp lý. Đồng thời, để việc vay nợ có kết quả như mong muốn,
chính phủ đã sử dụng nhiều chuyên gia và luật sư giỏi tham gia vào quá trình
đàm phán, ký kết.
18
Phần 3
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VAY NỢ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Thực trạng vay nợ của Việt Nam
Nợ nước ngoài ở nước ta theo công bố từ bản tin nợ công của Bộ tài chính
thì càng ngày càng tăng dần về số lượng vay, trong giai đoạn 2010-2012, tổng

dư nợ nước ngoài của nước ta đã tăng từ 46,7 tỷ USD (2010) lên 66,8 tỷ USD
(2012).
Nợ nước ngoài của Việt Nam trong năm 2012 là khoảng 66,8 tỷ USD ứng
với 41.1% GDP. Con số nợ đã tăng lên về tuyệt đối tuy nhiên so với năm 2010
về tương đối dư nợ nước ngoài đã giảm nhẹ. Tổng dư nợ nước ngoài của Việt
Nam vẫn năm trong giới hạn nợ an toàn (45%GDP) tuy nhiên cũng chỉ cách con
số giới hạn nợ một con số tương đối nhẹ.
Hình 1.1. Tống dư nợ nước ngoài và tống dư nợ nước ngoài so với GDP
của Việt Nam thời kì 2010-2012
Nguồn: Bộ Tài chính
Trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh luôn
chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt, nợ nước ngoài khu vực tư nhân có xu hướng chiếm
tỷ trọng ngày càng cao hơn, trong thời kì 2010-2012 có xu hướng ngày càng
tăng đỉnh điểm là năm 2012 chiếm khoảng 34% trong tổng dư nợ.
19
Hình 1.2. Dư nợ nước ngoài của khu vực tư nhân và khu vực công
giai đoạn 2010-2012
Nguồn: Bộ Tài chính
Tính riêng trong nợ khu vực công, nợ của chính phủ luôn chiếm tỷ trọng
cao hơn hẳn so với nợ nước ngoài do chính phủ bảo lãnh tuy nhiên tỷ trọng nợ
do chính phủ bảo lãnh đang tăng dần trong khu vực nợ công.
Hình 1.3: Tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ
bảo lãnh tăng mạnh từ 2010 -2012
Nguồn: Bộ Tài chính
20
Về cơ cấu nợ theo lãi suất, theo Bộ Tài chính, cơ cấu nợ của Việt Nam
chủ yếu là nợ vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, trong đó: vay ODA chiếm 75%
tổng số nợ, vay ưu đãi khác 19% và vay thương mại chỉ chiếm 7%. Phần lớn các
khoản vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay có thời gian dài, từ 20-40
năm, thời gian ân hạn từ 5-10 năm, lãi suất khoảng từ 0,75%-2,5%/năm. Điển

hình là các khoản vay của WB có thời hạn 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn,
mức lãi suất là 0,75%/năm; Các khoản vay của ADB có thời hạn 30 năm, 10
năm ân hạn, lãi suất 1%/năm; Các khoản vay của Nhật Bản có thời hạn 30 năm,
10 năm ân hạn và mức lãi suất khoảng từ 1 đến 2%/năm).
Về mặt lý thuyết, nợ nước ngoài của Việt Nam chừa hề vượt ngưỡng 50%
(nợ/GNP) tức là mức nợ quá nhiều mà luôn duy trì trong mức nợ vừa phải, mức
nợ này vẫn được coi là ở trong giới hạn an toàn. Kế hoạch trả nợ hàng năm
khoảng 14%-16% tổng thu ngân sách nhà nước (thấp hơn giới hạn cảnh báo là
dưới 30%), bằng khoảng 4,5% kim ngạch xuất khẩu (thấp hơn giới hạn cảnh báo
là dưới 15%). Đây được coi là các chỉ tiêu an toàn, và chỉ số nợ công của Việt
Nam được xếp loại ở mức trung bình so với các nước đang phát triển có cùng hệ
số tín nhiệm.
Trên đây một vài nét về nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, nếu nhìn vào mức độ nợ nước ngoài tăng nhanh, đặc biệt trong bối cảnh
khủng hoảng nợ công đang có nguy cơ lan rộng ở châu Âu, cộng với nền kinh tế
trong nước đang gặp khó khăn, thì sự việc lại rất đáng ngại. Hơn nữa, để bù đắp
thâm hụt ngân sách, trong khi điều kiện vay nợ trong nước bị thu hẹp do kinh tế
đang gặp khó khăn, thì nhiều khả năng phần nợ nước ngoài sẽ tăng lên. Trước
Hệ số Nợ / GNP Nợ / Xuất khẩu
Dịch vụ nợ/
Xuất khẩu
Chi phí trả lãi /
Xuất khẩu
Nợ quá nhiêu > 50%
> 275% >30% >20%
Nợ vừa phải
30-50% 165-275% 18-30 % 12-20%
Nợ ít
< 30% < 165%
< 18%

<12%
ĩ
Bảng 1.1 Tiêu chuân phân loại mức độ nợ của Ngân hàng thế giới
Nguồn : World Bank
21
tình hình này, không ít ý kiến của các chuyên gia tài chính cho rằng, Việt Nam
đang đứng trước những rủi ro nợ tiềm ẩn.
2. Bài học kinh nghiệm vay nợ nước ngoài đối với Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia nhóm 7 xin rút ra
một số bài học về kinh nghiệm vay nợ nước ngoài với Việt Nam như sau:
- Hoàn thiện thể chế chính sách và công cụ quản lý nợ nước ngoài: rà soát,
tháo gỡ các vướng mắc, ban hành đầy đủ và đồng bộ hóa các cơ chế chính sách
quản lý nợ nước ngoài của quốc gia. Tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung quy
chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Đổi mới và
nâng cao chất lượng quy hoạch huy động và sử dụng vốn vay, khắc phục tình
trạng trùng lặp, lãng phí nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay: Tranh thủ
nguồn vốn vay ODA, chủ động huy động nguồn vay ưu đãi ở mức độ hợp lý,
tiếp tục hài hòa hóa thủ tục, hạn chế việc Chính phủ vay thương mại nước ngoài
và bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Tăng cường hiệu quả công tác đàm phán
trong vay nợ để hạn chế sự phụ thuộc vào nhà tài trợ, nhất là trong các hợp đồng
xây lắp, mua sắm thiết bị và công nghệ từ nguồn vốn vay nước ngoài, giảm chi
phí đầu vào, tăng hiệu quả đầu tư.
- Tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn về nợ và
an ninh tài chính quốc gia: Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay
có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ. Thực hiện nghiêm ngặt công tác giám
sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và trả nợ công, vay trả nợ nước
ngoài của các doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn nợ và an ninh
tài chính quốc gia. Tổ chức thực hiện thanh toán trả nợ, đảm bảo trả nợ đầy đủ,
đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc

tế. Thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu nợ, dự báo, phân tích, đánh giá và đưa ra
cảnh báo mức độ rủi ro đối với danh mục nợ nước ngoài của quốc gia. Đồng
thời chủ động đề xuất phương án xử lý đối với các rủi ro tiềm tàng của danh
mục nợ.
- Tăng cường quản lý nợ Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước: Tăng cường
kiểm tra, giám sát việc vay nợ, sử dụng vốn vay và thanh toán nợ của doanh
22
nghiệp nhà nước, bảo đảm không để xảy ra tình trạng đổ vỡ, phá sản do không
trả được nợ. Kiên quyết thực hiện việc giải thể, phá sản các doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả, mất vốn nhà nước. Tiếp tục khống chế
mức vay vốn của các Tập đoàn, Tổng công ty trên vốn chủ sở hữu không quá 3
lần. Các Tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước chỉ đầu tư vào ngành nghề kinh
doanh chính và ngành nghề hỗ trợ, liên quan trực tiếp đến ngành nghề kinh
doanh chính; không đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất
động sản (trừ ngành nghề kinh doanh chính).
- Thực hiện việc công khai, minh bạch thông tin về nợ thông qua chế độ
báo cáo, đánh giá về tình hình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và trả nợ
nước ngoài của quốc gia theo định kỳ hoặc đột xuất, phù hợp với quy định của
Luật pháp và thông lệ quốc tế.
23
KẾT LUẬN
Vay nợ nước ngoài tạo ra cơ hội đầu tư phát triển ở mức cao hơn mức tiết
kiệm trong nước có thể đem lại, đồng thời cùng lúc đảm bảo mức tiêu dùng của
dân cư hiện tại, tạo điều kiện thuận lợi phát triển xã hội. Từ việc sử dụng vốn
vay hiệu quả, quốc gia đi vay sẽ gia tăng về các kỹ năng chuyên môn, lập kế
hoạch dự án, thực thi và đánh giá dự án, phân tích chính sách, phát triển thể chế,
phát triển kỹ năng trong công nghệ và lĩnh vực nghiên cứu triển khai,…
Với những lợi ích đó, việc vay nợ đặt ra bài toán cho mỗi quốc gia (đặc
biệt là những nước đang, chậm phát triển) làm sao để vay nợ hiệu quả, đảm bảo
phù hợp với khung thể chế, cơ chế pháp lý, vấn đề chính trị, xã hội theo đặc thù

riêng.
Từ bài học của Châu Mỹ La tinh, Khu vực Đông Á cuối thập kỷ 90, có
thể nhận thấy tầm quan trọng của việc tiết chế trong bước vay nợ để sử dụng
hiệu quả trước khi tiếp tục nguồn vay mới. Đối với Nga và Dubai là 02 quốc gia
sớm gặp khủng hoảng trong giai đoạn đầu khi đi vay nợ nhưng đã vận dụng hợp
lý các chính sách để sử dụng vốn vay hiệu quả, tiếp tục quá trình vay nợ mới.
Cuối cùng 02 quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, gần gũi về mặt địa lý cũng
như tình hình phát triển kinh tế xã hội với Việt Nam, họ biết vận dụng những
chuyên gia, luật sư giỏi để việc đàm phán vay nợ hiệu quả.
Từ những thành công và cả thất bại của các quốc gia trên trong việc vay
nợ nước ngoài, Việt Nam cần tiếp thu, rút kinh nghiệm những thất bại của các
quốc gia đi trước, đồng thời học hỏi những chiến lược vay nợ phù hợp với thực
trạng đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hi vọng, trong tương lai,
Việt Nam sẽ có được nguồn vốn vay ổn định và sử dụng hiệu quả để phát triển
đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ ban hành
quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài
2. Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020
và tầm nhìn đến năm 2030
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ
thời kỳ 2011 – 2015”, Đề án cấp Bộ, 2012
4. Bộ Tài Chính (2013), “Bản tin nợ công 2”
5. TS. Trần Văn Giao (2010), “Vấn đề vay nợ và quản lý vay nợ của Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí cộng sản điện tử số 15, 2010
6. Khánh Huyền (2011), “Vay nợ nước ngoài – cần xây dựng chiến lược”,
Tạp chí Kinh tế số 56, 2011

7. TS. Lê Quốc Lý (2003), Nợ nước ngoài những vấn đề lý luận và thực tiễn
quản lý ở Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội
8. TS. Vũ Thị Kim Oanh (2011), Hỗ trợ phát triển chính thức trên thế giới
trong thời đại ngày nay, NXB Thế giới, Hà Nội
9. TS Nguyễn Minh Phong (2008), “Tác động hai mặt của vốn nước ngoài
đến sự phát triển của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 16, 2008
10. Lê Huy Trọng (2009), “Tăng cường huy động vốn vay nước ngoài cho
đầu tư phát triển”, Tạp chí kinh tế và phát triển số 78, 2009
25

×