Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của một số quốc gia và bài học cho việt nam (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.07 KB, 53 trang )

Trường Đại học Kinh tế
Đại học Quốc gia Hà Nội

Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của
một số quốc gia và bài học cho Việt
Nam
GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Chi

Nhóm 5:
1. Đỗ Quỳnh Anh
2. Nguyễn Ngọc Diệp
3. Đỗ Thị Linh Linh
1

Hà Nội, tháng 10 năm 2019


Mục lục

2


Danh mục viết tắt
Từ viết tắt

Nguyên nghĩa

ADB

Ngân hàng Phát triển châu Á


FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FPI

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

Qũy tiền tệ quốc tế



Nghị định

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NSNN


Ngân sách nhà nước

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức



Quyết định

TT

Thông tư

UAE

Các tiếu vương quốc Arap thống nhất

UN

Liên hợp quốc

UNDP

OECD

WB

Ngân hàng thế giới


WTO

Tổ chức thương mại thế giới

3


Danh mục bảng biểu
Số thứ tự

Tên bảng biểu

Trang

Bảng 2.1

Cac skhoanr dư nợ nước ngoài quốc gia từ 2013-2017

18

Bảng 2.2

Ccác cỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia

19

Bảng 2.3

Tỷ lệ nợ nước ngoài so với tổng dư nợ quốc gia


20

Bảng 2.4

Tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của ngân hàng thế giới

21

Biểu đồ 2.1

Cơ cấu nợ nước ngoài Việt Nam

20

4


Lời mở đầu
Ngày nay, khi xu thế hội nhập đang trở thành xu thế chung và tất yếu đối với
tất cả các quốc gia. Và không một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng
ngoài cuộc của quá trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế. Đặc biệt với các nước
kém phát triển thì hội nhập sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các nước, có thể tiếp cận với
công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra
cho các nước này những thách thức, khó khăn. Sử dụng vốn vay nước ngoài hợp lý
sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, là sự chọn lựa tốt để rút ngắn thời gian
tích luỹ vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý
rằng sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình một khoản nợ đáng kể và đặc
biệt đối với các nước đang phát triển, hậu quả của nợ nước ngoài lại càng bộc lộ rõ.
Các khoản nợ nước ngoài, nhất là các khoản vay ODA do Chính phủ các nước phát
triển cung cấp cho các nước đang phát triển thường hay đi kèm với những điều

kiện và ràng buộc về chính trị, kinh tế, quân sự …. Chính vì vậy chúng ta cần phải
hiểu rõ việc sử dụng nợ nước ngoài rất cần có một chiến lược cụ thể, hợp lý; nếu
không chính các khoản nợ đó lại là những rào cản đối với sự phát triển kinh tế của
đất nước, cản trở quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Nằm trong xu hướng vận động đó, Việt Nam đã từng bước ra khỏi nhóm
nước kém phát triển thu nhập thấp, chuyển sang nhóm nước đang phát triển có
mức thu nhập trung bình. Có được thành quả đó, bên cạnh sự phát huy nội lực, Việt
Nam đã và đang nhận được sự trợ giúp từ phía các nước phát triển. Hiện nay có
trên 50 đối tác đặt quan hệ song phương, đa phương đã và đang nỗ lực hỗ trợ Việt
Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc vay nợ
nước từ những quốc gia đó nhằm mục đích đáp ứng các nhu cầu đầu tư, đồng thời
thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn trả nợ và đảm bảo phát triển
bền vững. Từ những lợi ích trên, có thể nhận thấy kinh nghiệm đi vay là yếu tố
quan trọng hàng đầu trước khi có những chiến lược quản lý hay sử dụng vốn vay
hiệu quả. Học hỏi từ các bài học đi vay của một số nước trên thế giới, Việt Nam kết
hợp với tình hình thực tế của đất nước sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm vay nợ nước
5
ngoài trong hiện tại và tương lai.


6


Chương 1: Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm vay nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính
phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác được vay
nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng tái
thiết quốc tế (BIS), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định

nghĩa nợ nước ngoài một cách bao quát hơn như sau:
“Tổng vay nợ nước ngoài là khối lượng nghĩa vụ nợ vào một thời điểm nào
đó đã được giải ngân và chưa hoàn trả, được ghi nhận bằng hợp đồng giữa người
cư trú về việc hoàn trả các khoản gốc cùng với lãi hoặc không lãi, hoặc về việc
hoàn trả các khoản lãi cùng với gốc hoặc không cùng với các khoản gốc”.
Nợ nước ngoài của một quốc gia đồng nghĩa với việc quốc gia đó thực hiện
một cam kết để có đồng vốn vay đồng thời kèm theo đó là nghĩa vụ trả nợ. Trong
đó, cam kết là nghĩa vụ chắc chắn cho vay, bảo lãnh hoặc bảo đảm một khoản tiền
cụ thể theo các điều khoản và điều kiện tài chính cụ thể. Nghĩa vụ trả nợ đề cập tới
việc hoàn trả cả gốc, lãi và các khoản phí. Khoản trả nợ thực tế là tổng số tiền phải
thanh toán để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nợ, bao gồm cả gốc, lãi và các khoản phí
đến hạn thanh toán. Nghĩa vụ nợ trả theo lịch là toàn bộ các khoản thanh toán bao
gồm thanh toán gốc, lãi và phí phải trả tại từng thời điểm trong thời gian trả nợ.
Căn cứ theo quy định tại Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005
của Chính phủ xác định: “nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ nợ
hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời
điểm của các khoản vay nước ngoài của Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia
bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân”.
Theo đó, định nghĩa về vay nước ngoài được phát biểu như sau:
“Vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn vay đến một năm),
trung và dài hạn (có thời hạn vay trên một năm), có hoặc không phải trả lãi, do Nhà
nước, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ các nước,
7


các tổ chức và cá nhân là người không cư trú (sau đây gọi tắt là người cho vay
nước ngoài).”
Như vậy xét về bản chất của nợ nước ngoài, không có sự khác biệt đáng kể
nào trong các định nghĩa về nợ nước ngoài của Việt Nam hay của các tổ chức Quốc
tế. Tuy nhiên, định nghĩa về nợ của Quốc tế rõ ràng hơn, đi vào bản chất hơn. Khái

niệm nợ nước ngoài về cơ bản mang ý nghĩa thống kê và nhất quán với Hệ thống
thống kê tài khoản quốc gia (SNA).
1.2. Phân loại vay nợ nước ngoài
1.2.1. Phân loại theo chủ thể đi vay
1.2.1.1. Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công được định nghĩa là “các nghĩa vụ nợ của khu vực công” và bao
gồm nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo
lãnh. Khu vực công bao gồm các loại thể chế sau:
(1) Chính phủ trung ương và các bộ, ban ngành;
(2) Các cơ quan chính trị cấp dưới, như tỉnh, huyện và thành phố;
(3) Các ngân hàng trung ương;
(4) Các thể chế tự quản, trong đó ngân sách của thể chế đó phải được Chính
phủ phê duyệt hoặc đạt trên một nửa số thành viên của Hội đồng quản trị là các đại
diện của Chính phủ hoặc trong trường hợp phá sản, nhà nước sẽ phải chịu trách
nhiệm về khoản nợ của thể chế đó. Bất kỳ một đơn vị thể chế trong nước nào khi
không đáp ứng được một trong ba điều kiện nêu trên thì sẽ được phân loại là khu
vực tư nhân.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh được xác
định là các khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà nghĩa vụ trả nợ được bảo
lãnh theo căn cứ trên hợp đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại
cùng một nền kinh tế với bên nợ đó.
8


1.2.1.2. Nợ tư nhân
Nợ tư nhân bao gồm khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà không
được khu vực công trong cùng một nền kinh tế bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản
chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
Trong thực tế, có những khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được một
thể chế thuộc khu vực công cư trú trong cùng nền kinh tế bảo lãnh một phần theo

hợp đồng. Đối với những khoản nợ như vậy thì giá trị hiện tại của các khoản thanh
toán được bảo lãnh được xếp vào loại nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được
công quyền bảo lãnh, trong khi những khoản thanh toán không được bảo lãnh được
xếp vào loại nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được bảo lãnh. Chẳng hạn,
phát sinh một khoản nợ nước ngoài của doanh nghiệp tư nhân hoạt động đa lĩnh
vực cả sản xuất và thương mại, chỉ được Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh các khoản
vay liên quan đến vay để sản xuất thì giá trị của các khoản vay sản xuất sẽ được
cộng vào nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh, trong khi
giá trị các khoản vay nhằm mục đích thương mại sẽ thuộc loại nợ nước ngoài của
khu vực tư nhân không được công quyền bảo lãnh
1.2.2. Phân loại theo chủ thể cho vay
Gồm các khoản vay song phương và đa phương. Vay đa phương chủ yếu đến
từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC
và liên chính phủ.
Vay song phương đến từ chính phủ một nước như các nước thuộc OECD và
các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một chính phủ duy nhất
dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.2.3. Phân loại theo loại hình đi vay
Bao gồm vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vay thương mại
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Theo định nghĩa của tổ chức Hợp
tác kinh tế và phát triển (OECD) hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các chuyển
khoản song phương (giữa các chính phủ) hoặc đa phương trong đó ít nhất 25%
tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại
9


hình vay nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu tiên về lãi suất, về thời gian trả nợ và
thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so
với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (có thể

10,15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài. Do vậy, các nước đang phát triển
thường hướng tới và vận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và
phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt
trái của nó, việc cho vay hỗ trợ phát triển chính thức đôi khi kèm theo những điều
kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên.
Vay thương mại: Vay thương mại khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức là
không có ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn. Lãi suất vay thương mại là lãi suất
thị trường tài chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì
vậy, vay thương mại có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương
mại của chính phủ phải được cân nhắc hết sức cẩn trọng.
1.2.4. Phân loại theo thời hạn vay
Bao gồm vay ngắn hạn và vay dài hạn
Vay ngắn hạn là loại vay có thời gian đáo hạn một năm trở xuống. Vì thời
gian đáo hạn ngắn nên khối lượng thương lượng không đáng kể, vay ngắn hạn
thường không thuộc đối tượng quản lý chặt chẽ như vay dài hạn. Tuy nhiên, vay
ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định hệ thống ngân hàng.
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc
đã gia hạn kéo dài trên 1 năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn
khoản thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ cần được quan tâm quản lý
nhiều hơn do khả năng tác động lớn tới nền tài chính quốc gia với lượng vốn vay
lớn cộng với việc tiềm ẩn rủi ro nhất định trong thời gian vay kéo dài. Các tổ chức
tài chính quốc tế thường xuyên theo dõi và phân tích nợ dài hạn của tất cả các quốc
gia một cách có hệ thống, từ các số liệu phân tích trên có thể đánh giá tình hình vay
nợ của một quốc gia. Hàng năm và hàng quý, Ngân hàng Thế giới yêu cầu nước
vay nợ phải nộp bản Báo cáo bên nợ (DRS), trong đó bao gồm báo cáo về tất cả
các
khoản nợ dài hạn phải trả bằng đồng tiền của nước bên nợ và bằng hàng hóa
10
dịch vụ.



1.2. Các chỉ tiêu đánh giá vay nợ nước ngoài
1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài


Khả năng hoàn trả nợ nước ngoài

Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hài bao gồm nợ tư nhân, nợ được
Chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng
chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là phương
tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Những khó khăn khi sử
dụng chỉ tiêu này là: Nguồn thu xuất khẩu dễ biến động từ năm này sang năm khác,
ngoài ra cũng có những phương án khác để nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ
nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất khẩu.


Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia (nợ/GNI)

Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ tỵ nói cách khác, nó phản
ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài. Thông thường các nước đang phát triển
thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm
giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng nợ có thể không được đánh
giá đúng mức.


Tỷ lệ trả nợ (tổng nợ phải trả hàng năm/kim ngạch thu xuất khẩu)

Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch
vụ nợ (nợ gốc và lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí
quan trọng, phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu

hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đi vay.


Tỷ lệ trả lãi

Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là dịch vụ tỷ
lệ lãi hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khẩu. Một quốc gia phải
thanh toán lãi với mức lãi suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường
lãi này được trích từ thu nhập xuất khẩu.
11


1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc
vay nợ. Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại
và tỷ lệ nợ song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:


Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong
thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ
càng lớn.



Nợ ưu đãi/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ



Nợ đa phương/Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ
trợ, ít ưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng cường nợ đa phương trong tổng

nợ phản ánh tình hình nợ nước ngoài của một số nước thay đổi theo chiều
hướng tốt.

1.3. Vai trò của vay nợ nước ngoài
1.3.1. Vay nợ nước ngoài đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư
Để thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn đầu tư của
các nước đang phát triển rất lớn, vượt qua khả năng của nền kinh tế. Vay nợ nước
ngoài là nguồn tài trợ đầu tư bổ sung phổ biến của các nước có nền kinh tế thị
trường trong giai đoạn đầu và giữa của quá trình phát triển. Nhiều nước trong số
này, khi đã đạt đến trình độ phát triển cao, lại trở thành các nước cho vay vốn lớn,
chẳng hạn như Nhật Bản. Nợ nước ngoài cũng có thể làm thay đổi cơ cấu nền kinh
tế bằng việc đầu tư vào các ngành mũi nhọn, tạo đà cho nền kinh tế phát triển.
Nguồn vốn vay nước ngoài là nguồn lực bổ sung để phát triển kinh tế khi
sản xuất trong nước chỉ đủ để duy trì mức tiêu dùng thấp. Với việc đi vay nước
ngoài, một quốc gia có cơ hội đầu tư phát triển ở mức cao hơn trong thời điểm hiện
tại mà không phải giảm tiêu dùng trong nước, và nhờ vậy, có thể đạt được tỷ lệ
tăng trưởng trong hiện tại cao hơn mức mà bản thân nền kinh tế cho phép. Cái giá
phải trả của việc này là sự giảm sút nguồn đầu tư, cũng là nguồn lực tăng trưởng
12
trong tương lai, khi mà quốc gia sẽ phải trả lãi nợ nước ngoài và vốn gốc. Như vậy,
đối với các quốc gia đang phát triển, việc sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài về
bản chất là vấn đề cân đối giữa tiêu dùng trong hiện tại với tiêu dùng trong tương


lai. Việc vay nợ nước ngoài chỉ có thể có hiệu quả nếu nó đảm bảo không làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tiêu dùng của các thế hệ tương lai.
1.3.2. Vay nợ nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao năng
lực quản lý
Bên cạnh việc dùng các nguồn vốn tự có để nhập khẩu máy móc thiết bị kèm
theo chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, việc vay vốn nước ngoài bổ sung

thêm nguồn vốn để nhập khẩu các máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến
cùng với kỹ năng quản lý của nước ngoài. Các dự án đầu tư đã góp phần hiện đại
hóa nhiều ngành, lĩnh vực, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác chuyển đổi theo, tạo
ra một lực lượng lao động mới, hiện đại có công nghệ tiên tiến và góp phần thúc
đẩy hiệu quả của cả nền kinh tế. Cùng với các dự án đầu tư là việc chuyển giao kỹ
năng quản lý của các chuyên gia nước ngoài. Các dự án hợp tác đào tạo cũng tạo ra
rất nhiều cơ hội đào tạo lại và đào tạo nâng cao cho lực lượng cán bộ chủ chốt của
các ngành, các địa phương, góp phần nâng cao năng lực quản lý của toàn bộ nền
kinh tế xã hội nói chung.
1.3.3. Vay nợ nước ngoài ổn định tiêu dùng trong nước
Khi có những cơn sốc đột ngột giáng vào nền kinh tế, sản lượng bị thiếu hụt
năng nề và tiêu dùng trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chẳng hạn, những
đợt thiên tai liên tiếp dẫn đến ngành nông nghiệp bị mất mùa lớn; khủng hoảng tài
chính khu vực khiến cho nền kinh tế bị thiệt hại nặng. Trong những trường hợp
như vậy, bên cạnh các khoản viện trợ khẩn cấp, các khoản vay nợ nước ngoài khẩn
cấp đóng vai trò là biện pháp ổn định tiêu dùng trong nước trong ngắn hạn, trong
khi nền kinh tế dần được phục hồi.
1.3.4. Vay nợ nước ngoài bù đắp cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán có thể tạm thời bị thâm hụt do điều kiện bất lợi tạm thời
trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn khi giá hàng xuất khẩu các sản phẩm của một
nước bị giảm sút so với giá hàng nhập khẩu, nước đó cũng có thể sử dụng biện
pháp vay nợ nước ngoài để duy trì tiêu dùng trong ngắn hạn. Tuy nhiên, giải pháp
13
này
thường có rủi ro cao, vì không có gì chắc chắn rằng các nước đi vay sẽ có được
thu nhập khá hơn khi đến hạn phải trả nợ. Thêm vào đó, các khoản vay nợ để bù
đắp cán cân thương mại thường là ngắn hạn.


Các nước đang phát triển cũng sử dụng hình thức đi vay tín dụng thương mại

ngắn hạn để tham gia vào thương mại quốc tế với nguồn vốn ngoại tệ ít ỏi. Bằng
cách nhận tín dụng thương mại của đối tác, nước đi vay sẽ tránh được việc phải
huy động nguồn dự trữ ngoại tệ của mình để thanh toán cho các khoản nhập khẩu
hàng hóa, các chi phí xuất khẩu hoặc chi phí vận tải. Song, tín dụng thương mại
ngắn hạn đương nhiên có mức lãi suất cao tương ứng mà nước đi vay phải gánh
chịu.
Tác động của vay nợ nước ngoài đối với phát triển kinh tế xã hội các nước
đang phát triển là rất rõ. Tuy nhiên việc sử dụng giải pháp vay nợ nước ngoài luôn
tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến một nền tài chính không bền vững và không hiếm trường
hợp nợ nước ngoài quá cao và quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến khủng hoảng tài chính
và kinh tế suy thoái. Tác động của việc vay nợ nước ngoài đến các nền kinh tế
đang phát triển rất khác nhau, tùy thuộc vào môi trường chính sách của các nước
này và năng lực quản lý nguồn vốn vay nước ngoài của các Chính phủ. Song
không phải tất cả các Chính phủ đều nhận thức được và có đủ khả năng thể chế,
khả năng quản lý nền kinh tế như mong muốn, nhất là quản lý vốn vay nước ngoài
của khối kinh tế tư nhân. Chẳng hạn, nhiều nước châu Mỹ La-tinh như Mêhicô,
Argentina, Chi-lê đã rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng với những bước
thụt lùi đáng kể trong phát triển do hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài
trong thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á trong thập
kỷ 90 của thế kỷ 20 là một ví dụ tương tự. Do lệ thuộc quá lớn và nguồn vốn vay
nước ngoài, nhiều nước đang phát triển như Thái Lan, Indonesia đã rơi vào tình
trạng hệ thống tài chính mất cân đối nghiêm trọng, dẫn đến khủng hoảng kinh tế
với sự phá sản đồng loạt của các thể chế tài chính và các công ty.

14


Chương 2: Thực trạng vay nợ nước ngoài ở Việt Nam
2.1. Các phương thức vay nợ
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển, Chính phủ

cần phải huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục
vụ cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất
phát từ ba nguồn chủ yếu sau đây:


Nợ ODA (Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi trong
khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA)



Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.



Phát hành trái phiếu quốc tế

2.1.1. Nợ ODA
Trong tổng số vốn ODA cam kết mà chúng ta nhận được giai đoạn 1993 2007, khoảng 15 - 20% là viện trợ không hoàn lại, còn phần lớn là vốn cho vay ưu
đãi đối với Chính phủ. Nguồn vốn ODA huy động được sử dụng để bổ sung cho
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, chiếm khoảng 12% tổng đầu tư toàn xã hội, bằng
28% tổng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước (NSNN) bằng 50,5% vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.
Trong số 51 nhà tài trợ thường xuyên cho Việt Nam, có 28 nhà tài trợ song
phương và 23 nhà tài trợ đa phương, có 3 nhà tài trợ cung cấp chủ yếu là Nhật Bản,
Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), chiếm khoảng
80% tổng giá trị ODA đã ký kết.
Mức cam kết ODA hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều
này thể hiện sự tin tưởng, ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đó vừa là thuận lợi nhưng
cũng đầy thử thách cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, đặc biệt là Chính

phủ, đòi hỏi các vị lãnh đạo phải có một kế hoạch đúng đắn và sử dụng có hiệu quả
15
nguồn vốn này.
Nguồn vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA là giao thông vận tải, bưu chính


viễn thông (28,06%), năng lượng và công nghiệp (21,78%), nông nghiệp và phát
triển nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo (15,66%). Nhờ tập trung vốn ODA
quy mô lớn nên hầu hết các lĩnh vực đều có bước phát triển nhất định, hàng loạt
các dự án được thực hiện, hỗ trợ đáng kể cho việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế
- xã hội của Chính phủ. Đối với nước tiếp nhận viện trợ, ODA được xem như một
nguồn lực thực sự nếu nó được kết hợp hiệu quả với các nguồn lực trong nước
khác để đạt được mục tiêu quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Đối với các nhà
tài trợ, ODA sẽ trở thành nguồn vốn viện trợ thật sự nếu nó được chuyển giao cho
nước tiếp nhận để gián tiếp hay trực tiếp tạo ra các điều kiện cho phát triển.
Từ những tác động của nguồn vốn này trong thời gian qua, có thể khẳng
định ODA ở Việt Nam đã trở thành một nguồn vốn thực sự và hiệu quả trong tiến
trình đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trong thu hút và sử
dụng vốn ODA, còn tồn tại nhiều vấn đề mà Việt Nam cần phải giải quyết để sử
dụng nguồn vốn này có hiệu quả hơn trong tương lai.
2.1.2. Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương


Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương của chính
phủ:

Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi
cả về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài
chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương
mại thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của

Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận trọng và chỉ quyết định vay khi không
còn cách nào khác. Loại hình vay này của nước ta chiếm tỉ trọng khoảng 9,2 %
tổng dư nợ nước ngoài (2009).


Bảo lãnh Chính phủ đối với vay thương mại nước ngoài của các doanh
nghiệp và tổ chức tín dụng:

Bảo lãnh Chính phủ đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khi
vay
nước ngoài được thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
16
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi nguồn lực có giới hạn. Các
doanh nghiệp vay nợ có bảo lãnh gồm các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) và các doanh nghiệp


nhà nước có quy mô lớn trong các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực,
xi măng, hàng không và dệt.
Trong cơ cấu nợ vay có bảo lãnh, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ
(khoảng 4,8%), chủ yếu là nợ trung và dài hạn. Nhìn chung nợ có bảo lãnh đáp ứng
được yêu cầu cho quá trình phát triển trung và dài hạn.
2.1.3. Phát hành trái phiếu quốc tế
Việc phát hành trái phiếu quốc tế có thể thực hiện qua 3 hình thức: Chính
phủ Việt Nam phát hành về cho vay lại, Chính phủ bảo lãnh cho doanh nghiệp phát
hành trái phiếu doanh nghiệp, doanh nghiệp tự trực tiếp phát hành.
Tuy nhiên, với hình thức Phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường
quốc tế, nếu không kiểm soát tốt việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp (với lãi
suất huy động quá cao) sẽ có rủi ro, ảnh hưởng tới thị trường tín dụng và cân đối vĩ
mô. Tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp hầu như chưa được xếp hạng tín

nhiệm nên tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không đủ
thông tin phân tích rủi ro. 70% doanh nghiệp phát hành trái phiếu sử dụng tài sản
và tài sản hình thành từ nguồn hình thành trái phiếu nhưng chưa được định giá bởi
tổ chức định giá độc lập và khó xác minh các tranh chấp pháp lý.
2.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
Số liệu về nợ nước ngoài ở Việt Nam do Bộ Tài chính tổng hợp và báo cáo
cho IMF trong các bản Báo cáo nợ quốc gia hàng năm. Số liệu về nợ nước ngoài
cho đến nay chưa được công khai trong hệ thống số liệu thống kê hàng năm của
Tổng cục Thống kê. Mặc dù vậy, theo Báo cáo nào nhưng kết quả về nợ nước
ngoài của Việt Nam đều cho thấy tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện
đang có xu hướng tăng nhanh, thậm chí có giai đoạn, tốc độ tăng của nợ nước
ngoài còn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với ưu thế ổn định về chính trị và sự
điều hành hợp lý của Chính phủ nên nền kinh tế đã tăng trưởng khả quan và nhận
được sự tín nhiệm rất cao của cộng đồng quốc tế. Việt Nam liên tục nhận được
những
khoản vay ưu đãi hỗ trợ phát triển mà nổi bật là những khoản ODA đến từ
17
Nhật Bản, WB và ADB. Cùng với đó, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bắt đầu
tăng nhanh trong nhu cầu vay nợ khiến cho tổng nợ nước ngoài của Việt Nam có
xu hướng liên tục tăng trong những năm gần đây.


Bảng 2.1: Các khoản dư nợ nước ngoài quốc gia từ 2013 - 2017
Chỉ tiêu

2013

2014

2015


2016

2017

Dư nợ nước
ngoài

63.455,48

71.016,65

80.865,19

91.432,55

109.178,64

của Chính phủ

36.281,66

38.130,72

39.644,97

42.915,79

46.323,14


của doanh
nghiệp

27.173,82

32.885,93

41.220,22

48.516,75

62.855,50

Tổng trả nợ
trong kỳ

33.135,99

39.896,44

30.426,28

56.330,29

81.994,12

của Chính phủ

1.855,68


2.470,60

1.544,68

2.111,24

1.973,38

của doanh
nghiệp

31.280,31

37.425,84

28.881,60

54.219,05

80.020,74

Nguồn: Bản tin nợ công 7
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia
Chỉ tiêu

2013

2014

2015


2016

2017

Nợ công so với GDP (%)

54,5

58,0

61,0

63,7

61,4

Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP

37.3

38.3

42

44.8

48.9

18



(%)

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài
hạn của quốc gia so với tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ (%)

4.3

4.1

4.0

3.9

6.1

Dư nợ chính phủ so với GDP (%)

42,6

46,4

49,2

52,7

51,7


184,4

211,5

206,8

215,0

201,0

12,6

13,8

14,9

20,5

18,3

9,7

8,5

11,8

8,1

7,5


Dư nợ chính phủ so với thu ngân sách
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu
NSNN (%)
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân
Nguồn: Bản tin nợ công 7

Nợ nước ngoài ở nước ta theo công bố từ bản tin nợ công của Bộ tài chính
thì càng ngày càng tăng dần về số lượng vay, chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia
so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có xu hướng tăng nhanh, bình quân tăng
16,7%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP theo giá hiện hành là 13,0%/năm
trong cùng giai đoạn. Trong giai đoạn 2013-2017, tổng dư nợ nước ngoài của nước
ta đã tăng từ 63,4 tỷ USD (2013) lên đến 109,2 tỷ USD (2017). Nợ nước ngoài của
Việt Nam trong năm 2013 là khoảng 69.5 tỷ USD ứng với 37.3% GDP và đến năm
2017 đã tăng đến khoảng 192 tỷ USD, chiếm 48.9% GDP. Con số nợ cũng như số
dư nợ nước ngoài đã tăng lên. Tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong
giới hạn nợ an toàn (45% GDP) tuy nhiên cũng chỉ cách con số giới hạn nợ một
con
số tương đối nhẹ. Đến ngày 31/12/2018, tổng nợ nước ngoài của quốc gia so
19
với GDP giảm xuống còn khoảng 46%, trong đó cơ cấu nợ nước ngoài của quốc
gia đều giảm. Cụ thể, nợ nước ngoài của Chính phủ còn 19,3% GDP, nợ nước


ngoài của Chính phủ bảo lãnh còn 4,4% GDP, nợ nước ngoài tự vay tự trả của
doanh nghiệp còn 22,3% GDP.
Trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh luôn
chiếm tỷ trọng lớn. Vào những năm đầu giai đoạn 2013, nợ nước ngoài chính phủ
và do chính phủ bảo lãnh chiếm đến hơn nửa tổng nợ nước ngoài của cả nước. Tuy
nhiên đến nay, tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh có
xu hướng ngày càng giảm trong khi nợ nước ngoài khu vực tư nhân có xu hướng

tăng cao. Nguyên nhân chủ yếu là do Nhà nước đã bắt đầu thắt chặt kiểm soát chặt
chẽ những khoản vay đầu tư của Chính phủ, đưa ra những điều luật chính sách mới
đảm bảo tính hiệu quả của việc vay nợ nước ngoài. Cùng lúc đó, việc tăng
nhanh nợ nước ngoài theo hình thức tự vay tự trả chủ yếu nằm ở khối doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài (chiếm 76% tổng lượng nợ của doanh nghiệp), tập trung
ở một số doanh nghiệp FDI có quy mô lớn, là nguyên nhân chủ yếu khiến quy mô
nợ nước ngoài quốc gia vẫn tăng nhanh.

20


Bảng 2.3: Tỷ lệ nợ nước ngoài so với tổng dư nợ quốc gia
2013

2014

2015

2016

2017

Tỷ lệ dư nợ nước ngoài của chính phủ trên 57.2
tổng dư nước quốc gia

53.7

49

46.9


42.4

Tỷ lệ dư nợ nước ngoài của doanh nghiệp 42.8
trên tổng dư nước quốc gia

46.3

51

53.1

57.6

Nguồn: Tự tổng hợp
Về cơ cấu nợ theo lãi suất, theo Bộ Tài chính, cơ cấu nợ của Việt Nam chủ
yếu là nợ vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, trong đó: vay ODA chiếm 75% tổng số
nợ, vay ưu đãi khác 19% và vay thương mại chỉ chiếm 7%. Phần lớn các khoản
vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay có thời gian dài, từ 20-40 năm,
thời gian ân hạn từ 5-10 năm, lãi suất khoảng từ 0,75%-2,5%/năm. Điển hình là
các khoản vay của WB có thời hạn 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, mức lãi
suất là 0,75%/năm; Các khoản vay của ADB có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn,
lãi suất 1%/năm; Các khoản vay của Nhật Bản có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn
và mức lãi suất khoảng từ 1 đến 2%/năm).

Đánh giá tổng quan về tình hình nợ nước ngoài, IMF và WB cho rằng nợ
nước ngoài của Việt nam có thể quản lý được. Xét về giá trị tuyệt đối và số nợ bình
quân trên đầu người thì số nợ của Việt Nam không quá lớn so với các con số về nợ
nước ngoài của một số nước đang phát triển.
21


Qua bảng 2.2 ta thấy, trong những năm gần đây nợ nước ngoài so với GDP
của Việt Nam tăng nhanh về quy mô. Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước
ngoài hiện chiếm khoảng 60%, vì thế, khi nợ nước ngoài tăng kéo theo tổng nợ


công tăng lên. Về mặt lý thuyết, nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn chưa vượt
ngưỡng 50% (nợ/GNP) tức là mức nợ quá nhiều mà luôn duy trì trong mức nợ vừa
phải. Đến nay, Việt Nam vẫn duy trì mức nợ nước ngoài ở trong giới hạn an toàn.
Kế hoạch trả nợ hàng năm từ 2013 đến 2017 rơi vào khoảng 12% - 18% tổng thu
ngân sách nhà nước, thấp hơn giới hạn cảnh báo là dưới 30%. Nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài so với tổng kim ngạch hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu đã tăng từ khỏng
4% đến 6.1% nhưng vẫn năm trong giới hạn cảnh báo là dưới 15%. Các chỉ số
đánh giá khả năng trả nợ nước ngoài vẫn nằm trong giới hạn an toàn, gánh nặng nợ
nước ngoài chưa ở mức nghiêm trọng, các chỉ số đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài
vẫn cho thấy Việt Nam có cơ cấu nợ bền vững. Có thể nói, mức nợ nước ngoài của
Việt Nam còn đang nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ.

22


Bảng 2.4: Tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của Ngân hàng thế giới

Hệ số

Nợ quá
nhiêu

> 50%


Nợ vừa phải 30-50%
Nợ ít

Dịch vụ nợ/ Xuất
khẩu

Chi phí trả lãi / Xuất
khẩu

> 275%

>30%

>20%

165-275%

18-30 %

12-20%

< 165%

< 18%

<12%

Nợ / GNP Nợ / Xuất khẩu

< 30%


Nguồn : World Bank
Vấn đề quản lý nợ nước ngoài đã được Quốc hội, Chính phủ quan tâm, kiểm
soát chặt chẽ. Nợ nước ngoài đã được thống nhất quản lý một cách toàn diện.
Trong một vài năm trở lại đây, khung thể chế về quản lý nợ nước ngoài đã liên tục
được đổi nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý nợ quốc gia và phù hợp hơn với
thực tiễn hội nhập quốc tế. Điều này đã dẫn đến tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP
giảm xuống trong năm 2018. Mặc dù vậy, nhiều chỉ số đánh giá hiệu quả sử dụng
nợ nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn nằm khá gần mức trần được định ra bởi Nhà
nước nên việc tăng cường rà soát, điều hành quản lý nợ là việc cần được chú trọng.

23


Chương 3: Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của một số quốc gia
3.1. Khủng hoảng nợ ở các nền kinh tế mới nổi thập kỷ 1980 và 1990
3.1.1. Khủng hoảng nợ châu Mỹ Latinh những năm 1980:


Diễn biến

Khủng hoảng nợ của châu Mỹ Latinh vào những năm 1980 được biết đến
với cái tên “Thập kỷ mất mát” và đã manh nha từ những năm 1970. Trong giai
đoạn đó, các nước Mỹ Latinh như Brazil, Argentina và Mexico đã có những bước
phát triển khá ấn tượng, chủ yếu là do vay nợ nước ngoài quy mô lớn, với mục tiêu
phát triển các ngành công nghiệp trong nước và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đây cũng
là giai đoạn giá dầu mỏ tăng mạnh khiến các nước xuất khẩu dầu mỏ gom góp
được những khoản tiền lớn, đầu tư nhiều vào các ngân hàng trên thế giới, theo đó,
các tổ chức tài chính dư dả cho vay các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
Mỹ Latinh với những điều khoản dễ dãi.

Tuy nhiên, đến đầu những năm 1980, các nước Mỹ Latinh bắt đầu gặp khó
khăn trong việc trả những khoản nợ khổng lồ. Từ giữa năm 1975-1982, các khoản
nợ công của các nước Latinh đối với các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới
tăng với tỷ lệ gộp hàng năm lên đến trên 20%, khiến tổng nợ vay đã tăng từ 75 tỷ
USD năm 1975 lên đến hơn 315 tỷ USD năm 1983, trong đó, thanh toán lãi suất và
trả vốn gốc tăng mạnh, từ 12 tỷ USD năm 1975 đến 66 tỷ USD năm 1982 (The
berge 1999). Trong khi đó, vào năm 1979, khi đối diện với sức ép lạm phát lớn,
Mỹ đã phải theo đuổi chính sách thắt chặt, dẫn đến lãi suất tăng cao. Lãi suất cũng
tăng mạnh ở châu Âu, khiến Mỹ và châu Âu trở nên hấp dẫn hơn châu Mỹ Latinh
với các khoản đầu tư quốc tế, đồng thời cũng khiến các khoản nợ của các nước Mỹ
Latinh gia tăng chi phí trả lãi vay. Bên cạnh đó, kinh tế thế giới suy thoái những
năm 1979, 1980 ảnh hưởng lớn đến các quốc gia phát triển OECD, theo đó, tác
động tiêu cực đến tăng trưởng xuất khẩu của các con nợ Latinh và đến tăng trưởng
của các nước này. Các nước cũng đã phải huy động các nguồn lực để trả nợ vay, hệ
quả là sản lượng trong nước và tiêu dùng suy giảm (Hirst và Thompson 2004).
24
Ngoài
ra, những khoản nợ lớn mà các chính phủ vay đã được sử dụng một cách
thiếu cẩn trọng và có liên quan đến tham nhũng (Wade và Veneroso 1998).


Như vậy, các quốc gia châu Mỹ Latinh đã không còn có khả năng duy trì
được tăng trưởng kinh tế cao và các khoản nợ nước ngoài phải trả đã vượt quá
những gì các nền kinh tế có thể kiếm được. Rủi ro nợ công tích lũy này đã kéo dài
trong nhiều năm và khủng hoảng nợ bùng phát khi thị trường tài chính thế giới
nhận thấy các nước này khó có thể trả được các khoản nợ. Hầu hết các tổ chức tài
chính và ngân hàng thế giới đều đã từ chối hoặc giảm cho vay các nước châu Mỹ
Latinh khác. Trong khi đó, các khoản nợ vay của chính phủ các nước lại chủ yếu là
ngắn hạn và các nước gặp khó khăn trong thanh toán nợ khi các tổ chức cho vay từ
chối gia hạn các khoản vay. Hàng tỷ USD nhanh chóng đến hạn thanh toán và các

dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các quốc gia trong khu vực và các nước không còn
có thể vay thêm.
Khủng hoảng nợ châu Mỹ Latinh bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico
tuyên bố vỡ nợ, sau đó một loạt các nước trong khu vực khác như Brazil,
Venezuela, Argentina và Bolivia đều lần lượt tuyên bố không còn khả năng trả nợ
nước ngoài. Trong suốt cuộc khủng hoảng những năm đầu 1980, tỷ lệ tăng trưởng
GDP của các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%. Nếu tính theo đầu người, tăng
trưởng của các nước đã giảm tới gần 9% (Palat 2003). Tiền lương thực tế và mức
sống của người dân giảm mạnh. Chênh lệch giàu nghèo của các quốc gia đã tăng
lên 50% chỉ riêng từ năm 1976 đến năm 1983. Khủng hoảng nợ cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của một vài chính thể độc tài trong khu vực
như ở Brazil và Argentina.


Phản ứng chính sách:

Các nước châu Mỹ Latinh đều phải cầu viện đến sự hỗ trợ từ các tổ chức
quốc tế như IMF và WB để có thể tiếp tục trả các khoản nợ khổng lồ. Tuy nhiên,
đổi lại, các nước phải thực thi các chính sách điều chỉnh cơ cấu khắc nghiệt của
IMF như chính sách thắt lưng buộc bụng (cắt giảm ngân sách để giảm thâm hụt,
duy trì tăng trưởng tín dụng thấp và chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm chi tiêu
trong nước và lạm phát), phá giá đồng nội tệ để tăng cường xuất khẩu và cải cách
cơ cấu như tự do hóa thương mại, tư nhân hóa, gỡ bỏ kiểm soát của Chính phủ,
v.v…
để hỗ trợ tăng cung khu vực tư nhân và cải thiện môi trường tài chính. Trong
25
khi đó, các chương trình điều chỉnh cấu trúc của WB tập trung vào đổi mới cơ cấu
sâu rộng hơn và trong dài hạn. Với các chương trình khắc khổ như vậy, các nước
châu Mỹ Latinh đã phải chịu tác động nặng nề như kinh tế tăng trưởng trì trệ, thu



×