Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Ưu và nhược điểm của vay nợ nước ngoài với thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.51 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn trong
tất cả mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thanh xu thế chung và
tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế ấy, không một quốc gia nào muốn phát triển
lại có thể đứng ngoài cuộc, không tham gia vào quá trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế,
bởi hội nhập sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển có thể
tiếp cận với những công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn để phát triển kinh tế quốc gia.
Sử dụng vốn vay nước ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo ra lợi thế
của người đi sau, là sự lựa chọn thông minh để rút ngắn thời gian tích lũy vốn để phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình
một khoản nợ đáng kể. Chính vì vậy, Chính phủ các nước đang phát triển cần có những
chiến lược cụ thể, hợp lý để ngăn chặn việc chính những khoản nợ đó lại trở thành rào cản
đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Để hiểu rõ hơn về việc sử dụng nợ nước ngoài, nhóm 3 đã nghiên cứu tiểu luận “ Ưu
và nhược điểm của vay nợ nước ngoài với thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở các nước đang
phát triển”. Tiểu luận nhằm phân tích những ưu, nhược điểm của hai dòng vốn trên, góp
phần định hướng cho các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng trong việc
lựa chọn nguồn vốn vay hợp lý để phát triển kinh tế - xã hội.
Về nội dung, tiểu luận được chia làm 3 phần:
Phần I: Tổng quan chung về Nợ nước ngoài và Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Phần II: Ưu và nhược điểm của vay nợ nước ngoài với thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở
các nước đang phát triển
Phần III: Phần III: Tình hình thu hút FDI và ODA tại Việt Nam trong những năm gần
đây
1
Phần I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
1.1. Nợ nước ngoài
1.1.1. Định nghĩa
Trong cuốn thống kê Nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm công tác
liên ngành của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) thì khái niệm nợ nước ngoài được hiểu như sau:


“Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công nợ thường xuyên
thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc hoặc lãi tại một
thời điểm trong tương lai do đối tượng cư trú tại một nền kinh tế nợ đối tượng không cư
trú.”
Theo định nghĩa được quốc tế thừa nhận rộng rãi này, nợ nước ngoài của một nước là
tất cả các khoản nợ của nước đó với nước ngoài, bất kể người đi vay và Chính phủ, các Tổ
chức của Chính phủ hay các doanh nghiệp tư nhân; các chủ nợ có thể là các Tổ chức quốc tế,
Chính phủ, các Tổ chức thuộc Chính phủ hoặc các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài.
Tại Việt Nam, theo khoản 8 điều 2 Quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm
theo nghị định số: 134/2005/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ thì: “Nợ
nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ
dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt
Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước
ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản
vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của
các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình).
1.1.2. Phân loại
Việc phân loại nợ nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc theo dõi và quản lý nợ
có hiệu quả. Phân loại nợ nước ngoài được chia theo các hình thức chủ yếu sau:
*Phân loại theo chủ thể đi vay:
- Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công là nợ của các khu vực công và bao gồm nợ của khu vực công và cùng với nợ
của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh.
2
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được xác định của các
công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh theo hợp đồng bởi
một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với bên nợ đó.
- Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực công
của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất, đây là các khoản nợ do khu vực tư

nhân tự vay, tự trả.
* Phân loại theo thời hạn vay
- Nợ ngắn hạn: Là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Nợ ngắn hạn
thường không thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên, nếu nợ
ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng
nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tang phải hết sức thận trọng vỡ luồng vốn rút ra đột
ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
- Nợ dài hạn: Là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc có thời
hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày hết hạn khoản thanh toán
cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm, quản lý nhiều hơn do khả năng tác động
đến nền tài chính quốc gia.
* Phân loại theo loại hình vay
- Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) hỗ trợ phát triển
chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc đa phương
(từ các Tổ chức Quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là
cho không.
Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức: Vay hỗ trợ phát triển chính thức là
loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn.
Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời
gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (cụ thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời gian ân
hạn dài. Do vậy các nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn
này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
3
Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu đãi
của vay hỗ trợ phát triển chính thức rất rõ rệt. Bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát triển
chính thức đôi khi kèm theo các điều kiện khiến cái giá phải trả tăng đáng kể.
- Vay thương mại
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả về lãi
suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay ân hạn là lãi suất thị trường tài chính quốc tế và thường

thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại thường có giá khá cao và
chứa nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận
trọng và chỉ quyết định vay khi không còn cách nào khác.
* Phân loại nợ theo chủ thể cho vay
- Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, ngân hàng Thế giới
(WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa
phương như OPEC và liên chính phủ, các tổ chức như CLB Paris, CLB Luân Đôn…
- Nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc Tổ chức OECD và
các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới
dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.1.3. Vai trò của nợ nước ngoài
- Nợ nước ngoài tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng phát
triển kinh tế, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia.
- Góp phần hỗ trợ cho các nước vay nợ tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được
kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.
- Tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút, mở rộng
các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
- Góp phần chuyển đổi, hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa
1.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Khái niệm về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài
được đầu tư để sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, trong đó nhà đầu tư
trực tiếp quản lý điều hành, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về vốn bỏ ra và kết quả kinh doanh.
1.2.2. Vai trò của FDI
* Đối với các nước đầu tư
4
- Các nước đi đầu tư tận dụng được chi phí sản xuất thấp để có thể hạ giá thành sản
phẩm và giảm chi phí đối với các hàng hóa thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư,
do đó có thể nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư: ở các nước tiếp nhận đầu tư có nguồn tài

nguyên thiên nhiên rẻ, dồi dào, nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp vì thế các nhà
đầu tư tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở các nước tiếp nhận như giá nguyên liệu
rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện, nước, chi phí thông tin liên lạc, giao
thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, điều kiện pháp lý…
- Cũng vì những yếu tố như trên mà các nước đầu tư có thể tạo dựng được thị trường
cung cấp nguyên vật liệu dồi dào, giá rẻ ở nước nhận đầu tư.
- Tăng sức mạnh kinh tế và khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế nhờ
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và tránh được hàng rào bảo hộ của nước tiếp nhận đầu
tư. Các nước đầu tư tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước
và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực
và toàn cầu.
* Đối với các nước nhận đầu tư
- Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố
vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn
hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này muốn có cả vốn từ nước ngoài,
trong đó có vốn FDI.
- FDI đẩy nhanh tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý: Trong một số trường hợp, vốn
cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thế huy động được phần nào bằng chính sách “thắt lưng
buộc bụng”. Tuy nhiên công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách
đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và
bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và
bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý
đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
- FDI tạo nguồn thu ngân sách lớn: Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với
nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân
sách quan trọng.
5
- FDI góp phần tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: Vì một trong những mục
đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ

phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế địa
phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp mà trong nhiều
trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp
cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ
có lao động thông thường mà các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và
được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- FDI thúc đẩy kinh tế trong nước tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu: Khi thu hút từ
các công ty đa quốc gia không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay
cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá
trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia
mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
6
PHẦN II: ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA VAY NỢ NƯỚC NGOÀI VỚI THU
HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia phát triển xem vay nợ để phát triển là
con đường buộc phải lựa chọn khi cần một nguồn vốn tư bản lớn để mở rộng nền sản xuất,
xây dựng và tổ chức các ngành quan trọng làm đòn bẩy phát triển cho cả nền kinh tế.
Nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển chủ yếu xuất phát từ 3 nguồn chủ yếu sau:
- Vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA
- Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương
- Phát hành trái phiếu quốc tế.
Tại các nước đang và kém phát triển thì hình thức thu hút vốn ODA là hình thức phổ
biến nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất. Vì vậy trong phạm vi tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích
những ưu, nhược điểm của hình thức vay nợ ODA và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào các nước đang phát triển.
2.1. Ưu điểm của ODA so với FDI
2.1.1. Nước tiếp nhận được toàn quyền sử dụng vốn vay vào mục đích phát triển bền
vững
ODA là nguồn vốn viện trợ không hoàn lại hoặc hoàn lại với lãi suất rất thấp (dưới 3%,
trung bình từ 1-2%/năm) và thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới

phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm). Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện
trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Chính vì thế, các nước đang
phát triển có thể tận dụng nguồn vốn này để phát triển cơ sở hạ tầng, qua đó tạo ra môi
trường thuận lợi để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác, trong đó có FDI, hay các nguồn vốn
tài trợ của các công ty, tổ chức kinh tế quốc tế khác.
Ngược lại, FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài được đầu tư để sản xuất,
kinh doanh nhằm mục đích kiếm lợi nhuận. Khi đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư không những
góp vốn mà còn đứng ra quản lí dự án đó. Tuy nhiên việc quản lí này đôi khi không hiệu quả
do sự khác biệt giữa các quốc gia.
7
2.1.2. ODA tập trung vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia trong khi FDI
chỉ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế
ODA giúp các nước ĐPT phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một lượng
ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển giáo
dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước
cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước ĐPT. Bên cạnh đó, một lượng
ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khoẻ
cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước ĐPT đã gia tăng đáng kể chỉ
số phát triển con người của quốc gia mình.
Trong khi đó, FDI chủ yếu vì mục đích kinh tế, do đó các nhà đầu tư nước ngoài ít
quan tâm hơn về vấn đề môi trường, dẫn đến hậu quả là ô nhiễm nguồn nước, bầu không
khí, các khu công nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường của nước sở tại.
- ODA giúp các nước ĐPT xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong những
tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát
triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có
hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ
lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như các nước giầu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu
được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
- ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các
nước ĐPT. Đa phần các nước ĐPT rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi

cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của
IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn
định đồng bản tệ.
- ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân. Ở
những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư
tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến
trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công
cuộc đổi mới của Chính phủ. Tuy nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng
đối với đầu tư tư nhân. Ở những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện
trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều này giải thích tại sao
8
các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng ODA lớn của cộng đồng quốc tế
song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.
- ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế thông qua các
chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng
chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Như vậy, có thể thấy ưu điểm lớn nhất của ODA, đây chính là nguồn vốn đầu tư lớn
giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được
ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói, giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông
thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ
sở hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm,
phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng
cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước, cải cách thể chế…
2.2. Nhược điểm của ODA so với FDI
2.2.1. ODA gây ra gánh nặng nợ nần cho các nước tiếp nhận
Dù là nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) có điều kiện ưu đãi cao nhất, cho đến các
khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị trường tài chính quốc tế thì nghĩa vụ nợ
(bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng luôn luôn đặt ra cho người vay. Trong thời gian đầu tiếp
nhận và sử dụng vốn ODA, do những điều kiện vay ưu đãi nên yếu tố nợ nần thường chưa
xuất hiện. Một số nước đi vay chủ quan với nguồn vốn vốn này và không sử dụng một cách

có hiệu quả. Kết quả là đã sử dụng một lượng vốn ODA lớn nhưng lại không tạo ra những
điều kiện tương ứng để phát triển kinh tế. Nước đi vay không trả được lãi và vốn vay theo
đúng cam kết và để lại gánh nặng nợ nước ngoài cho thế hệ sau.
Một cơ cấu nợ mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay thương mại “nóng”, lãi
cao, và bằng những ngoại tệ không ổn định theo xu hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những
xung lực lạm phát mạnh. Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không được quản
lý tốt và sử dụng có hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản vay mới, với
những điều kiện có thể ngặt nghèo hơn – chiếc bẫy nợ sập lại, con nợ rơi vào vòng xoáy
mới: Nợ-vay nợ mới-tăng nợ-tăng vay… Vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc
vòng xoáy lạm phát: Nợ-tăng nghĩa vụ nợ-tăng thâm hụt ngân sách-tăng lạm phát. Lúc này
dịch vụ nợ sẽ ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã hội. Hơn
9
nữa, việc “thắt lưng buộc bụng” trả nợ khiến nước nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất, trong
đó có hàng tiêu dùng mà trong nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân đối hàng tiền,
tăng giá, tăng lạm phát. Nợ nước ngoài có thể làm sụp đổ cả một chính phủ, nhất là ở những
nơi tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm là phổ biến của giới cầm quyền, đi kèm với
việc thiếu những giải pháp xử lý mềm dẻo khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ, đổi nợ
thành đầu tư, đổi cơ cấu và điều kiện nợ, xin xoá nợ từng phần…)
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ an toàn hơn, vì với hình thức này, các nhà đầu
tư nước ngoài sử dụng trực tiếp nguồn vốn của mình để đầu tư, xây dựng và phát triển các
cơ sở sản xuất kinh doanh vào nước sở tại. Vì vậy, vốn này vẫn thuộc sở hữu của họ. Các
nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh,
hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Chính vì vậy mà FDI không để lại gánh nặng
nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài
khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…
2.2.2. Vốn ODA mang tính ràng buộc cao so với FDI
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng
thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh – quốc phòng hoặc
theo đuổi mục tiêu chính trị… Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực
mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình

phát triển kinh tế – chính trị – xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
- Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ
các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước
tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh
mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với
việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần
thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư
vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước
tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so
với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
10
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập
khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải
chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường,
các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không
trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc
hỗ trợ chuyên gia.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử
dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong
quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các
công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp…Nếu không quản lý tốt, nước tiếp nhận có
thể trở thành bãi rác công nghệ của thế giới. Vì vậy, khi nhận viện trợ, các nước tiếp nhận
cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, ko vì lợi ích trước mắt mà đánh
mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Nước tiếp nhận FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung
ứng vốn như của ODA. Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các

doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính, vì nhà đầu tư không dễ dàng
rút vốn ra khỏi nước sở tại. Trong tình huống xấu nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước
ngoài sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty của nước sở tại. Do vậy, FDI là hình
thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu
tư.
Như vậy, có thể thấy ODA và FDI là hai dòng vốn quan trọng không thể thiếu đối với
các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy ODA gắn liền với nhiều ràng buộc và tính ưu
việt thấp hơn so với FDI, chính vì vậy mà các nước đang phát triển ngày càng thu hút và sử
dụng FDI nhiều hơn trong công cuộc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ODA lại là nguồn vốn
không thể thiếu để theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững, giải quyết những vấn đề an sinh,
phúc lợi xã hội mà FDI không thể làm được. Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn ODA
để đầu tư cải thiện sẽ tạo điều kiện để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp
vào nước sở tại.
11
PHẦN III: MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TÌNH HÌNH VAY VỐN ODA VÀ THU
HÚT FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
3.1. Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA
3.1.1. Quy mô thu hút ODA trên cả nước
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Paris (Pháp) từ ngày 9-
10/11/1993 đã đặt nền tảng cho quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài
trợ quốc tế dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau, tin cậy và xây dựng. Kể từ đó, một diễn đàn đối
thoại thường niên về chính sách phát triển và viện trợ giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà
tài trợ được thiết lập với tên gọi là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt
Nam (gọi tắt là Hội nghị CG).
Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp
nguồn ODA và vốn vay ưu đãi cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt Nam.
(Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư)
Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-
2012 với khoảng 19,81 tỷ USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ
ba với 2,33 tỷ USD. WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát triển với khoảng 20,1 tỷ

USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam
kết.
12
(Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư)
Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến 2012 đạt
trên 58,4 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay ưu đãi đạt 51,6
tỷ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD và chiếm
khoảng 11,6%. Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỷ USD,
chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết.
(Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư)
Có thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song chưa tương
xứng với mức cam kết. Riêng 2 năm trở lại đây, nhờ quyết tâm cao của Chính phủ, nỗ lực
của các ngành, các cấp và nhà tài trợ, giải ngân của một số nhà tài trợ quy mô lớn (Nhật
Bản, Ngân hàng Thế giới - WB) đã có tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Nhật
13
Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ nhì và năm 2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ giải
ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
3.1.2. Về quy mô theo thu hút ODA theo lĩnh vực, ngành nghề cụ thể
(Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư)
Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông được ưu tiên tiếp nhận và sử
dụng nguồn vốn ODA lớn nhất trong tổng số 7 lĩnh vực khoảng 16,47 tỷ USD, trong đó
15,9 tỷ USD là ODA vốn vay. Trong thời kỳ 1993-2012, ngành giao thông vận tải đã hoàn
thành và đang thực hiện 132 dự án, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ
USD và đang thực hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD.
14
(Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư)
Ngành năng lượng và công nghiệp có tổng vốn ODA được ký kết trong thời kỳ 1993-
2012 đạt khoảng 10 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lại không đáng kể, khoảng
0,1%. Tổng số nhà tài trợ là 32, trong đó có 26 nhà tài trợ song phương và 6 nhà tài trợ đa
phương. Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo nhận

được nguồn vốn ODA đứng thứ ba với tổng trị giá ký kết khoảng 8,85 tỷ USD (ODA vốn
vay: 7,43 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại: 1,42 tỷ USD).
3.1.3. Về quy mô thu hút ODA theo vùng:
(Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư)
Hiện vẫn tồn tại tình trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA không đồng đều giữa
các tỉnh trên địa bàn các vùng trong cả nước trong đó vùng đồng bằng sông Hồng tiếp nhận
nguồn vốn ODA lớn nhất với 10,42 tỷ USD và vùng Tây Nguyên tiếp nhận nguồn vốn
ODA thấp nhất với 1,36 tỷ USD
15
Chính phủ Việt Nam có chính sách sử dụng ODA để hỗ trợ các ngành, lĩnh vực và địa
phương ưu tiên, nhất là đối với những địa bàn có nhiều khó khăn trong từng thời kỳ phát
triển
3.1.2 Những hạn chế và yếu kém khi thu hút ODA tại Việt Nam:
Qua 20 năm tiếp nhận ODA, thực tế cũng đã chỉ ra còn nhiều hạn chế trong việc tiếp
nhận, sử dụng hiệu quả nguồn lực này, thể hiện ở những điểm sau:
- Năng lực hấp thụ nguồn vốn ODA còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu. Có thể
nhìn nhận thực trạng này thông qua tỷ lệ giải ngân so với nguồn vốn ODA đã ký kết trong
20 năm qua chỉ đạt khoảng 67%. Riêng thời kỳ 2006-2010, khoảng 7 tỷ USD vốn ODA đã
ký kết, nhưng chưa giải ngân, trong đó có nhiều chương trình, dự án được hưởng các điều
kiện tài chính ưu đãi cao phải chuyển tiếp sang thời kỳ 2011-2015.Nhiều chương trình và
dự án chậm tiến độ, nhiều trường hợp phải xin gia hạn. Do chậm tiến độ thực hiện, mà một
số dự án bị cắt giảm, hủy một số hạng mục, hoặc phải tái cấu trúc toàn bộ dự án, gây ảnh
hưởng xấu tới hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
- Thiết kế của một số chương trình, dự án ODA chưa sát với thực tế Việt Nam nói
chung và của các địa phương nói riêng. Một số dự án ODA thí điểm những mô hình phát
triển, như: tín dụng quy mô nhỏ, quản lý và kinh doanh nước sạch, phát triển sinh kế, bảo
vệ và phát triển rừng , nhưng chỉ hoạt động khi còn dự án, mà không nhân rộng được và
áp dụng trong thực tế sau khi dự án kết thúc. Đồng thời, trong cùng một lĩnh vực như xóa
đói giảm nghèo, các nhà tài trợ áp dụng các mô hình khác nhau, dẫn đến trùng lặp, kém
hiệu quả và lãng phí nguồn lực của địa phương, cũng như của các nhà tài trợ.

16
- Việc lồng ghép các chương trình và dự án của Chính phủ trên địa bàn với các
chương trình và dự án ODA, nhiều khi có sự trùng lặp, có những nội dung gần nhau, như:
xóa đói giảm nghèo, giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn làm hạn chế hiệu quả
nguồn vốn. Thực tế đã xảy ra trên cùng một địa bàn thôn, xã có nhiều công trình cùng
một lĩnh vực do nhiều nguồn vốn tài trợ, song chính quyền địa phương không đủ năng lực
quản lý và thiếu nguồn tài chính nhằm duy trì hoạt động của các công trình này một cách
có hiệu quả để phục vụ lâu dài cho người dân.
- Nhiều bộ, ngành và địa phương để xảy ra những vụ việc vi phạm các quy định quản
lý ODA của Chính phủ và của nhà tài trợ, có tình trạng tham nhũng gây ảnh hưởng đến uy
tín quốc gia.
- Sự phối hợp trong nội bộ các bộ, ngành, giữa Trung ương, địa phương và các nhà tài
trợ chưa thật sự thông suốt, nhất là các lĩnh vực có sự tham gia của nhiều nhà tài trợ hoặc
các chương trình, dự án đa ngành đa cấp và đa mục tiêu.
- Tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực và trình độ chuyên môn
của đội ngũ cán bộ tham gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất là ở các địa phương. Nhân sự
các ban quản lý dự án thường không ổn định, trong nhiều trường hợp hoạt động kiêm
nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa thực hiện thường xuyên, có hệ thống và bài
bản.
3.2. Về thu hút FDI ở Việt Nam
3.2.1. Về quy mô thu hút FDI
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư), sau 3 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút được 4.098 dự án FDI với số vốn đăng
ký đạt 114,15 tỷ USD, tăng gấp 3,5 lần so với giai đoạn 2001 – 2006 và 1,4 lần so với thời
kỳ 1998 – 2006. Tổng vốn FDI thực hiện trong 3 năm 2007 – 2009 đạt khoảng 19,6 tỷ
USD, gấp hơn 1,6 lần thời kỳ 2001 – 2006.
Đồ thị 6: Tình hình thu hút và giải ngân vốn FDI, tỷ USD
17
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Năm 2013 chứng kiến sự phục hồi của đầu tư nước ngoài do niềm tin của các nhà đầu

tư đối với kinh tế Việt Nam bắt đầu được khôi phục. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cả
năm ước đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm trước;vốn thực hiện ước đạt
11,5 tỷ USD, tăng 9,9% so với năm 2012.
3.2.2. Về tỷ trọng đóng góp FDI so với các khu vực kinh tế khác
Bảng 1: Chỉ số phát triển vốn đầu tư theo giá so sánh năm 2010, %
Giai
đoạn
Nền
kinh tế
Khuvực
nhà nước
Khu vực ngoài
nhà nước
F
DI
2006-
2009
114.6 108.4 116.8
13
3
2010-
2012
101.2 97.6 107.3
98
.9
2006-
2012
108.8 103.8 112.7
11
8.4

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Xét về cơ cấu đầu tư theo khu vực (bảng 1), điểm nổi bật đáng quan tâm là xu hướng
tăng vượt trội của dòng đầu tư FDI so với các dòng đầu tư trong nước. Chưa nói đến khía
cạnh chất lượng và hiệu quả đầu tư, chỉ về mặt số lượng đầu tư (thể hiện ở tốc độ tăng
trưởng vốn đầu tư), cả giai đoạn 2006-2012 ghi nhận sự thay đổi tương quan sức mạnh
nghiêng dần một cách vững chắc về phía dòng FDI.
3.2.3. Về cơ cấu FDI theo ngành
18
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2013 tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo với 16,6 tỷ USD, chiếm 76,9% tổng vốn đăng ký.
Đồ thị 7: Cơ cấu vốn FDI năm 2013 theo ngành, %
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong các quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư mới vào Việt Nam năm 2013,
tiếp tục diễn ra sự dịch chuyển và thay đổi “ngôi vị”. Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với
3752,1 triệu USD, chiếm 26,3% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là Singapore với 3014,1
triệu USD, chiếm 21,1%. Đầu tư từ Trung Quốc bắt đầu quá trình tăng tốc, đạt 2276,6
triệu USD, chiếm 16%, vượt qua Nhật Bản.Nhà đầu tư chiến lược hàng đầu Nhật Bản chỉ
đạt mức khiêm tốn hơn nhiều - 1.295 triệu USD, chiếm 9,1%, tức là chỉ bằng hơn một nửa
lượng đầu tư từ Trung Quốc.
3.2.2. Những mặt tồn tại của thu hút FDI tại Việt Nam
- Việt Nam còn thiếu một chiến lược về đầu tư trực tiếp nước ngoài chung của quốc
gia mang tính dài hạn và cụ thể: Luật đầu tư chung hiện nay quá nhiều, chồng chéo thậm
19
chí mâu thuẫn nhau (Ví dụ: Vừa ưu tiên phát triển công nghệ cao, vừa ưu tiên phát triển
những ngành nghề sử dụng nhiều lao động)
- Chiến lược FDI cần mang tính quốc gia: Không nên để tình trạng mỗi tỉnh, mỗi địa
phương có kế hoạch FDI riêng của mình dẫn đến tình trạng nguồn vốn FDI được phân bổ
và sử dụng kém hiệu quả.
- Chiến lược FDI chưa thực sự chú trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu ở
những doanh nghiệp FDI: các doanh nghiệp FDI liên tục nhập siêu (nếu bỏ dầu thô ra khỏi

kim ngạch xuất khẩu của khối này) góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt cán
cân thương mại của khối này. Bởi vậy, cần thúc đẩy công nghiệp phụ trợ trong nước.
20

×