Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

CÁC YẾU TỐ ĐẶC HIỆU MÔ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC PHÒNG NGỪA CHẤN THƯƠNG - Phần 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.73 KB, 9 trang )

CÁC YẾU TỐ ĐẶC HIỆU MÔ
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC PHÒNG
NGỪA CHẤN THƯƠNG
Phần 1

Các chấn thương trong thể thao là đặc hiệu đối với thể thao (Muckle,
1978) song do mọi chấn thương đều liên quan đến cùng những mô ấy, mức
độ dễ tổn thương của mô, sự đánh giá và luyện tập liên quan đến xương, sụn,
dây chằng, gân và cơ sẽ lần lượt được bàn luận. Cơ xương thu hút nhiều chú
ý nhất trong việc phục hồi bởi vì đã biết nhiều về các cơ bắp thịt và những
thay đổi có thể xảy ra khi tập luyện (Hình 3.1). Hơn nữa, sự toàn vẹn của các
mô liên kết (xương, dây chằng và sụn) là rất quan trọng để tránh tổn thương
và sẽ được bàn đến. Cuối cùng các hoạt động và các phản ứng thần kinh cảm
giác sẽ được nói đến do vai trò quan trọng của chúng để có thành tích an
toàn.


Xương
Mặc dù chúng ta không làm thử nghiệm thông thường về mật độ
xương hoặc tập luyện mô xương một cách có ý thức, xương là một mô năng
động đáp ứng việc tập luyện. Geusens và Dequeker (1991) kết luận rằng
trong cả nam giới lẫn nữ giới và cả người trẻ lẫn người già, tập luyện trong ít
nhất 14 tuần lễ mà sức tải tác dụng lên xương một cách tích cực sẽ có ảnh
hưởng đến mật độ xương. Các trường hợp gẫy xương được biết do sức nén
hay gặp hơn ở người trẻ đã trưởng thành, phản ánh sự đòi hỏi đang tăng lên
hiện nay ở các vận động viên trẻ. Cần nghiên cứu nhiều hơn thông tin này
nhằm xác định hiệu lực của các bài tập đặc biệt để làm tăng mật độ xương,
đề phòng giãn xương do sức nén ở vận động viên và có thể giảm được tỷ lệ
mắc xốp xương trong các năm về sau (Dalsky, 1989).

Hình 3.1. Những biến đổi về kích thước cơ gặp khi đáp ứng với công


việc luyện tập mạnh và bất động.
(a) Khi luyện tập, miền thớ cắt chéo tăng tỷ lệ trực tiếp với sự tăng
kích cỡ thớ sợi cơ và số lượng. (b) Khi bất động miền thớ giảm tỷ lệ với sự
giảm kích cỡ thớ sợi. (c) Sự chẽ tách thớ do tập luyện gây ra sẽ xảy ra trong
những loài nhất định song ít xảy ra ở người trưởng thành. Theo MacDougall
(1986).
Sụn
Là một mô không được tưới máu, hoạt động của nó cần thiết để duy
trì tình trạng dinh dưỡng và sự toàn vẹn về chức năng của sụn trong suốt nối
liền mọi bề mặt khớp của các khớp nối hoạt dịch. Mặc dù sự thiếu vận động
làm giảm tính mềm dẻo của toàn bộ khớp và thúc đẩy xơ sụn, hoạt động nén
quá sức hoặc rất không hợp sinh lý, có thể gây hao mòn liên tục, làm mềm
hoặc cuối cùng thoái hóa sụn. Chẳng hạn mang các túi quá nặng hoặc các
vật quá dài có thể làm vỡ sụn trong suốt nối liền các tấm tận cùng của các cơ
thể có xương sống và làm gẫy sụn xơ ở vòng xơ của các đĩa liên đốt sống.
Phòng ngừa các chấn thương bên trong này là việc cần phải hiểu biết rõ và
đáp ứng thích hợp trong quá trình huấn luyện.
Gân và dây chằng
Gân và dây chằng quanh khớp bảo vệ chống chấn thương và không
dựa vào hoạt động hoặc sự kiểm soát có ý thức. Khi và nếu hoạt động của cơ
bắp không đủ để chống lại các lực đối kháng thì độ căng của bao khớp kìm
hãm các phân đoạn cơ thể, giống như sợi dây xích kìm hãm sự chuyển động
quá mức của cột buồm chiếc thuyền. Hoạt động bảo vệ như vậy yêu cầu các
cấu trúc mô liên kết này vừa phải mạnh để đủ chống đỡ với mức lớn và tốc
độ các lực đối kháng, vừa phải đàn hồi để phục hồi được trạng thái cũ của
chúng trước khi bị kéo căng.
Gân có chức năng gắn bắp thịt vào xương. Đó là những cấu trúc thụ
động tích trữ năng lượng và đóng góp tới 50% toàn bộ năng lượng để chạy
(Cavagna và Kaneko, 1977). Giống như dây chằng, gân có thể trở nên chặt
căng khi dùng quá mức, bị kéo quá căng và đứt. Trong vòng tuổi ngoài 30,

đặc biệt người ở tuổi trung niên và tuổi già, gân không được cấp máu và dễ
đứt khi ép nén đột ngột. Các vận động viên trẻ hơn thì sức ép nén đột ngột
thường hay nhổ giật, lúc đó đơn vị cơ gân bị đứt đoạn và gân bị tách lìa khỏi
xương (Riegger, 1985).
Tiêu chuẩn đánh giá tính toàn vẹn về dây chằng trong cơ thể người ta
bao gồm độ linh hoạt (chiều dài lúc có một lực tải đặc biệt) và độ cứng rắn
(sự thay đổi chiều dài lúc có thay đổi đặc biệt ở lực tải). Trang bị được nhắm
vào để đánh giá độ linh hoạt của đầu gối có nhiều mức độ tin cậy và nhiều
mặt bằng vận động khác nhau (Hanten và Pace, 1987). Đo tính cứng rắn yêu
cầu các mức cao về lực mà nhiều trang bị (hoặc qui định chủ quan) không
đạt được. Còn nói chung độ linh hoạt thì đều đo được. Các dây chằng chặt
quá thì phá hoại tình trạng cơ học sinh học bình thường và có thể thúc đẩy
sinh ra các tổn thương bên trong liên quan đến sự sắp xếp không chỉnh
(Beynnon, 1991). Tính linh hoạt của khớp tăng lên liên quan đến sự bất ổn
định và sự có thể của chấn thương. Weisman đã chứng minh rằng độ linh
hoạt của khớp tăng lên sau khi mang tải chu kỳ và đã phỏng đoán rằng chấn
thương đầu gối khi trượt băng thường xảy ra ở cuối ngày vi mô liên kết đã
mệt mỏi do co kéo lặp đi lặp lại sau cả một ngày trượt băng (Weisman và
CS, 1980).
Cần nghiên cứu nhiều hơn nữa để xác định cách nào tốt nhất để phát
triển các cấu trúc khớp bảo vệ chống chấn thương. Tuy nhiên, một điều chắc
chắn là bắp thịt không thể tập luyện để đáp ứng nhanh chóng và đủ mạnh để
tránh được nhiều kiểu thương tích cho gân và dây chằng.
Sức kéo căng dây chằng của người có thể mạnh hơn hay không nếu
không cần đến phẫu thuật vẫn là điều còn bàn. Các công trình nghiên cứu
trên súc vật cho ta nghĩ rằng các dây chằng đáp lại việc luyện tập động bền
bỉ bằng cách gia tăng lượng collagen và phát triển sức kéo căng tăng hơn
(Tipton và CS,1978). Sức kéo căng được đánh giá bằng lực tác động để gây
đứt. Những công trình nghiên cứu tương tự như vậy chưa được thực hiện in
vivo và người ta chưa biết rõ liệu bài tập tăng dần dần ở người có làm tăng

sức kéo căng của dây chằng ở người cho rằng cần phải huấn luyện tối thiểu
12 tuần.
Cơ bắp
Có thể thấy các vết rách bằng kính hiển vi ở tế bào cơ hoặc bằng mắt
thường ở các chỗ nối cơ gân. Trong mọi trường hợp, biến cố thúc đẩy dường
như là sự co cơ lệch tâm mạnh. Dưới đây nói đến một số dung mạo riêng
biệt của việc thử nghiệm và thành tích của cơ bắp.

Sức mạnh của cơ bắp
Sức mạnh này là ngẫu lực xoắn tĩnh hoặc động mà một bắp thịt có thể
sinh ra ở một tư thế đặc biệt và vận tốc đặc biệt của chi, và là chức năng của
miền cắt chéo của cơ bắp, số lượng các thớ cơ được hoạt hóa, góc cận xương
và mức độ thu nạp các đơn vị vận động. Sự cố gắng có chủ định phải tối đa
để đạt được một số đo thực tối đa. Ngẫu lực xoắn của động tác co lệch tâm
bình thường, thường lớn hơn 1,5 lần so với sự cố gắng đồng tâm ở tốc độ
thấp khi thử nghiệm, song nếu tăng tốc độ thử nghiệm thì sai khác ở ngẫu
lực trở nên lớn hơn. Đó là vì ngẫu lực xoắn đồng tâm giảm đi khi tăng tốc độ
vận động, trong khi mà ngẫu lực xoắn lệch tâm vẫn duy trì như vậy hoặc
tăng ít nhiều (Hortobagyi và CS, 1989).
Độ dài của bắp thịt có liên quan đến sức mạnh của cơ bắp và một bắp
thịt bị kéo căng quá mức không đủ ngẫu lực ở điểm cần thiết đạt mức độ vận
động. Chẳng hạn một cơ gluteus medium không thể sinh ra đủ ngẫu lực để
duy trì một level pelvis khi chạy, ngay cả khi bắp thịt có thể đạt tới mức
ngẫu lực đích ở tư thế rút ngắn lại nhiều hơn trong tầm mức khi thử nghiệm
cơ bắp. Tư thế mà khi đó thử nghiệm bắp thịt và dự kiến có hoạt động là tư
thế tới hạn để đánh giá một cách logic sức mạnh khi tuyển chọn trước mùa
thi đấu.

Sức mạnh của cơ bắp giữa các nhóm cơ đối lập có lẽ rất quan trọng để
ngăn ngừa chấn thương trong các cuộc thi đấu thể thao (Burkett, 1970). Mặc

dù là ngẫu nhiên, chưa thấy các công trình nghiên cứu trước đây khẳng định
ý kiến này, thông tin hoàn chỉnh hơn về sức mạnh của cơ bắp cuối cùng có
thể chứng minh sự cân bằng cơ bắp tối ưu quanh miền khớp nối khác nhau
đối với các môn thể thao đặc biệt.
Một khả năng khác về sức mạnh cơ bắp của chân tay là mức ngẫu lực
xoắn bên phải và bên trái, bên nọ sẽ là giữa 10 và 15% bên kia. Các cơ bắp
xa phù hợp với mô hình này, với chi thuận thể hiện mức ngẫu lực xoắn cao
hơn. Càng gần, mức độ ngẫu lực xoắn có khuynh hướng càng giống nhau.
Chưa có giải pháp thích đáng là ngẫu lực xoắn tuyệt đối bao nhiêu là "bình
thường". Ngẫu lực tối đa tương đối tính theo phần trăm trọng lượng cơ thể
không phải là một chỉ số thích hợp (Delitto và CS, 1989). Việc tính toán các
đòi hỏi về ngẫu lực xoắn riêng biệt đối với các tốc độ nhằm đạt thành tích
cao sẽ phải tiến hành đầy đủ hơn, song việc nghiên cứu hiện vẫn còn là sơ
khai. Vì hiểu biết của chúng ta về huấn luyện chính xác các môn thể thao
theo chuyên biệt còn rất sơ sài. Zohar (1973) khuyên nên tập luyện vượt
mức yêu cầu ở một chừng mực thích đáng đối với một hoạt động dự định.


×