Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

CÁC CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ QUÁ TẢI TRONG THỂ THAO docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.38 KB, 13 trang )

CÁC CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ QUÁ
TẢI TRONG THỂ THAO

Các chiến lược có thể áp dụng làm giảm tải trên cơ thể vận động viên sẽ
được bàn luận đối với những yếu tố bên ngoài đã đưa ra ở hình 9.3. Có chiến
lược áp dụng cho vận động viên đỉnh cao, có chiến lược cho vận động viên
hàng ngày.
Động tác
Lực bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng hiệu quả do động tác của vận
động viên. Lực vận động bên ngoài tối đa trong đi bộ hơi vượt quá 1 BW
(thể trọng). Lực vận động bên ngoài tối đa cho chạy là 1800 đến 2200N cho
tốc độ chạy từ 3 đến 6 m/s. Lực ảnh hưởng tối đa trong chạy tăng từ khoảng
1200 đến 2300N cho tốc độ chạy từ 3 đến 6 m/s (Nigg và CS, 1987). Lực
hoạt động nhạy cảm với loại động tác, chúng tác động các lực lên tốc độ của
động tác. Kết quả là nếu lực thái quá người ta có thể thay đổi tốc độ (chạy
chậm hơn) hoặc thay đổi loại hoạt động (đi bộ thay cho chạy). Chiến lược
này áp dụng cho vận động viên hàng ngày. Ví dụ, sự thay đổi động tác từ
hoạt động có tác động cao tới hoạt động có tác động thấp được giới thiệu
trong chạy và thể dục nhịp điệu tính đến số tổn thương hay xảy ra có liên
quan đến sự chịu tải tác động cao và hoạt động chạy thường thay thế bằng
hoạt động đi bộ. Khả năng thay đổi động tác của vận động viên thành tích
cao thì có giới hạn. Có thể áp dụng các kỹ thuật vận động hữu hiệu lúc khởi
đầu huấn luyện thành tích cao. Tuy nhiên, nhìn chung, hoạt động trong chạy
vượt rào, nhảy cao, tennis hay thể dục dụng cụ được qui định trong điều kiện
giới hạn rõ và chỉ có sự thay đổi nhỏ là có thể.
Số lần tập lặp lại và sự nghỉ ngơi giữa quá trình tập lặp lại
Phản ứng của mô người đối với sự mang tải có thể làm tăng hay giảm sức
mạnh, phụ thuộc vào số lần lặp lại của lực tác động và sự nghỉ ngơi giữa các
lần lặp lại (giai đoạn luyện tập). Thực tế là sức mạnh tối đa của vật liệu sinh
học lại nhỏ hơn nhiều khi tập lặp lại so với khi mang tải một lần duy nhất
cho gợi ý nên tránh bắt chịu tải dài ngày một cách có chu kỳ. Hơn thế nữa,


người ta nghĩ rằng chất lượng huấn luyện quan trọng hơn số lượng, thừa
nhận rằng mô người cần thời gian nghỉ để tái sinh nhằm phát huy tác dụng
sinh học tốt trong luyện tập. Tuy nhiên, số lần lặp lại và nghỉ giữa các lần đó
vẫn còn là chủ đề đặc biệt và chưa có lời khuyên rõ ràng.
Giầy thể thao
Rõ ràng loại giầy dùng cho hoạt động thể thao đặc biệt có ảnh hưởng đến
loại và tần suất tổn thương. Torg và Quedenfeld (1971) đã nghiên cứu hồi
sức tổn thương đầu gối và mắt cá của vận động viên Liên đoàn bóng đá các
trường trung học Mỹ. Họ đã cho thấy tần số và độ nguy hiểm của tổn thương
là cao hơn ở các vận động viên dùng giầy đá bóng (9,5mm đường kính) so
với vận động viên dùng giầy với đệm (12,5mm đường kính).
Trong một nghiên cứu tiến cứu ở tennis, Luethi và CS (1986) nghiên cứu
ảnh hưởng của giầy. Họ đã phân phối hai loại giầy khác nhau - có trong thời
gian thử nghiệm cho một nhóm chơi tennis khỏe mạnh và theo dõi những
tổn thương do quá tải xuất hiện trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo chơi tennis.
Họ đã thấy sự khác biệt rõ ràng trong con số liên quan của tổn thương cho 2
nhóm giầy (32,6 và 47,1%). Thêm vào đó, vị trí và kiểu tổn thương khác
nhau cho 2 nhóm giầy. Cả hai nghiên cứu đều chỉ ra rằng giầy thể thao, thực
tế, có ảnh hưởng tới vị trí, kiểu và tần suất tổn thương trong thể thao.
Hình 9.4
Việc sản xuất giầy thể thao sử dụng nhiều loại để độ cứng khác nhau (với
vật liệu và dung dịch sản xuất) và các dạng hình học khác nhau. Cả hai có
ảnh hưởng tới sự phân bố lực bằng cách khác nhau.
1. Độ cứng của đế không có tác dụng trên lực thẳng đứng bên ngoài (Nigg
và CS, 1987) và mức mang tải thẳng đứng bên ngoài (Hình 9.4). Kết quả này
là đáng ngạc nhiên và hiện nay chưa được hiểu hoàn toàn. Công việc đang
tiến hành trong phòng thí nghiệm của chúng tôi cho thấy lực bên trong các
cấu trúc chính chịu lực của chận, khi chạy không chịu ảnh hưởng sự thay đổi
độ cứng của đế giầy. Điều này gợi ý rằng "lót nệm" của giầy có thể là làm
phương tiện thuận lợi hơn là làm chức năng bảo vệ.

2. Cấu tạo hình học và cấu tạo đặc biệt của giầy thể thao có tác dụng chính
lên động tác và do đó lên lực bên ngoài và lực bên trong. Ví dụ, gót loe, ảnh
hưởng đến sự úp sấp và sự lật ngửa khi tiếp đất (Nigg và Morlock, 1987).
Chất ổn định gót và đệm gót làm tăng sự đặt úp sấp ban đầu và giảm lực tác
động thẳng đứng. Sự cứng nhắc khi vặn của giầy có ảnh hưởng lên độ dãn
của dây chằng mắt cá chân (Hình 9.5) và do đó đè nặng lên một số dây
chằng mắt cá (Morlock, 1990). Nhìn chung, tóm lại, tăng sức đòn bẩy giữa
giầy và đất có xu hướng làm tăng độ úp sấp hay độ lật ngửa và giảm lực tác
động.
Gẫy xương do mệt mỏi xuất hiện ở chi dưới thường xảy ra ở những vận
động viên thành tích cao. Sự phát sinh vết gẫy do nén ở vận động viên chạy
thường liên quan tới sự giảm mật độ chất khoáng trong xương. (Linnell và
CS, 1984; Martin và Bailey, 1987). Ở 6 nữ vận động viên chạy bị gẫy xương
do nén kéo dài và 8 nữ vận động viên gẫy xương mà có tiền sử nén ta thấy,
các vận động viên gẫy xương do nén có mật độ chất khoáng trong cổ xương
đùi và xương sống nhiều hơn so với vận động viên chạy mà không gẫy
xương do có tiền sử nén và mật độ chất khoáng của xương chày của hai
nhóm trên không khác gì nhau (Grimston và CS, 1991). Kết quả này cho
thấy sự phát sinh gẫy xương do nén không có liên quan tới giảm mật độ chất
khoáng của xương. Tuy nhiên, lực bên ngoài lên giầy của vận động viên
khác nhau ở 2 nhóm (Hình 9.6), trung bình của nhóm gẫy xương do nén
nhiều hơn đáng kể so với nhóm bình thường (lực tác động thẳng đứng tối đa)
13%; lực chủ động thẳng đứng tối đa 7%; lực sâu tối đa 15%; lực giữa tối đa
46%; và lực ngang tối đa 64%. Sự khác biệt nhất trong lực trung gian là lý
do đối với mômen uốn giữa - ngang mà có thể có liên quan đến nguyên nhân
gẫy do nén (Hình 9.6). Vì lực bên ngoài có thể bị ảnh hưởng cùng với cách
đóng giầy, người ta nghĩ rằng sự gẫy do nén có thể được điều trị ngăn chặn
nếu có giầy thích hợp giảm thành phần lực giữa - ngang.

Hình 9.5.


Hình 9.6.
Giầy thể thao không thích hợp có thể tăng gấp đôi hay ba động tác úp sấp
hay lật ngửa giữa bàn chân và cẳng chân dưới so với động tác của chân trần
(Nigg, 1986). Lực bên trong cơ thể tăng theo. Sự nghiêng của đế giầy trong
trượt băng, vật chỉnh hình trong giầy chạy hay giầy đá bóng và nhiều chiến
lược khác thường đều có ảnh hưởng đến sự sắp xếp về hình học của xương.
Người ta cho rằng những kỹ thuật đó giúp ngăn chặn tổn thương trong thể
thao. Tuy nhiên, ở đây bằng chứng thường có tính chất giai thoại.
Tóm lại, giầy thể thao là yếu tố quan trọng nhất gây ta hoặc ngăn chặn tổn
thương trong thể thao. Lực đòn bẩy quá mức được coi là lý do đầu tiên để
lực bên trong cao và có thể xảy ra tổn thương.
Sân bãi
Sân bãi thể thao liên quan tới nguyên nhân của tổn thương trong thể thao.
Tần suất xảy ra tổn thương thay đổi đáng kể với sân bãi tennis khác nhau
(Nigg và Denoth, 1980). Trong nghiên cứu hơn 2000 trường hợp (1trường
hợp = 1 vận động viên trong 6 tháng) tần suất đau thường thấp hơn đáng kể
đối với hai loại sân bãi cho phép có độ trượt (đất sét và cát tổng hợp) so với
4 loại sân bãi không có độ trượt (mặt tổng hợp, rải nhựa đường, thảm bọc nỉ
và lưới tổng hợp). Tần suất tổn thương xảy ra đối với những bề mặt không
cho phép có độ trượt tối thiểu thì 200% cao hơn so với tần suất tổn thương
đối với hai loại bề mặt có độ trượt. Do đó, ma sát dường như là yếu tố quan
trọng đối với nguyên nhân tổn thương trong thể thao.
Bảng 9.2. Tần suất và tổn thương của vận động viên chơi tennis trên 6 sân
bãi khác nhau để so sánh với toàn bộ số vận động viên tennis chơi trên sân
bãi đặc biệt; F(sân) là tần suất xảy ra đau và tổn thương ở sân bãi đặc biệt,
và F(đất) là tần suất đau và tổn thương trên bãi đất sét.
Sân bãi
Tần số đau và tổn thương
(%)

F(bề mặt i) : F(đất) (%)
Đất sét 2,2 100
Cát tổng hợp 3,0 136
Sân bãi tổng
hợp
10,7 486
Nhựa đường 14,5 659
Nỉ 14,8 673
Phên sắt tổng
18,0 818
hợp
Các nghiên cứu hồi cố dài hạn đối với tần suất tổn thương ở các hoạt
động thể thao khác nhau đã được công bố do hiệp hội các vận động viên các
trường học (NCAA) (1990-1991). Các thống kê thu được từ cơ sở dữ liệu
hồi cố, gồm hàng triệu lần thực hành hay thi đấu thể thao. Cơ sở dữ liệu này
có thể được dùng để so sánh ảnh hưởng của cỏ tự nhiên và lớp cỏ nhân tạo
đối với tần suất của tổn thương trong thể thao. Kết quả so sánh được tóm tắt
ở bảng 9.3. Chúng cho thấy rằng tần số tổn thương là cao đối với lớp cỏ
nhân tạp hơn là đối với cỏ tự nhiên ở bóng đá Mỹ (71% khi thi đấu), ở bóng
đá nam (19% khi luyện tập và thi đấu), ở bóng đá nữ (8% khi luyện tập và
27% khi thi đấu) và hockey nữ (27% khi luyện tập và 14% khi thi đấu). Hai
loại sân bãi không khác nhau về tần số tổn thương đối với hoạt động tập
luyện ở bóng đá Mỹ.
Bảng 9.3. Tóm tắt tổn thương có liên quan tới sân bãi đối với cầu thủ bóng
đá Mỹ, bóng đá và hockey dựa trên dẫn liệu của NCAA.
Thể thao Giới
tính
Hoạt
động
Sân bãi % tổn

thương
Năm
Luyện tập Cỏ tự 11
nhiên
Cỏ nhân
tạo
11
Cỏ tự
nhiên
7

Bóng đá
Mỹ



Nam


Thi đấu
Cỏ nhân
tạo
12

1984-1991



Cỏ tự
nhiên

27 Luyện tập
Cỏ nhân
tạo
32
Cỏ tự
nhiên
26


Nữ


Thi đấu
Cỏ nhân
tạo
31


1988-1991








Bóng đá




Luyện tập Cỏ tự 26
nhiên
Cỏ nhân
tạo
28
Cỏ tự
nhiên
22

Nam
Thi đấu
Cỏ nhân
tạo
28

1988-1991


Cỏ tự
nhiên
26 Luyện tập
Cỏ nhân
tạo
33
Cỏ tự
nhiên
23



Hockey




Nữ


Thi đấu
Cỏ nhân
tạo
24


1988-1991



Kết quả của hai nghiên cứu được bàn luận trên tần số tổn thương gợi ý rằng
ma sát của mặt tiếp xúc giữa sân bãi với giầy là điều quan trọng để ngăn
chặn tổn thương trong thể thao. Cỏ nhân tạo, cũng như bề mặt nhân tạo
khác, thường mềm hơn cỏ thiên nhiên hay đất sét. Tuy nhiên, sân bãi nhân
tạo trong các nghiên cứu được bàn luận không cho thấy sự giảm tần số tổn
thương. Điều này có thể dẫn đến kết luận rằng cái đệm không phải là yếu tố
bảo vệ đầu tiên trong các hoạt động thể thao đã được bàn tới. Người ta suy
luận rằng đối với các môn thể thao được bàn, ma sát là điều rất quan trọng.
Sân bãi tốt nhất cho phép có độ trượt nhưng ngăn cản trật chân. Độ trượt làm
tăng khoảng giảm tốc, điều đó tương đương với giảm lực tối đa tác động lên
vận động viên.
Tuy nhiên, có những môn thể thao mà cái đệm cực kỳ quan trọng. Chẳng

hạn động tác tiếp đất trong thể dục dụng cụ, như hiện này, không thể thực
hiện mà không tổn thương nếu nơi tiếp đất không có đệm như vẫn có. Nói
chung, đệm là rất quan trọng cho mọi động tác có thành phần lực thẳng đứng
trội, còn ma sát giữa bề mặt và giầy là rất quan trọng đối với mọi động tác
có thành phần lực nằm ngang trội. Vì vậy người ta cho rằng với các vận
động viên tập hàng ngày hệ số ma sát giữa bề mặt và giầy cho phép là 0,5-1.
Tuy nhiên, hệ ma sát này có thể không là biện pháp thích hợp để triển khai
chiến lược làm giảm tổn thương trong thể thao. Yếu tố then chốt liên quan
với sự ma sát là độ trượt làm giảm sự mang tải của cơ thể vận động viên so
với lúc không có độ trượt. Tuy nhiên, lực bên ngoài và bên trong sẽ không bị
ảnh hưởng bởi tần số ma sát trong chừng mực vận động viên không trượt.
Hơn thế nữa, người ta phải cẩn thận để tránh trật chân, tất nhiên, rất dễ xảy
ra trên một sân bãi không cho phép có độ trượt.



×