Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Ý nghĩa ngày nay của học thuyết về giá trị thặng dư của Mác pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.5 KB, 6 trang )

Ý NGHĨA NGÀY NAY CỦA HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ CỦA C. MÁC
Posted on 13/06/2009 by Civillawinfor
GS.TS. BÙI NGỌC CHƯỞNG – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh
1 – Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư,
rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản
xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm
vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian
lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm
hữu tư liệu sản xuất"
(1)
. Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột
người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình
thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về thân
thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ
còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế
độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về thân thể đối với
giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình
thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia
rõ ràng. Bởi vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến
bộ hơn chiếm hữu nô lệ.
Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư nhân
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong hai
hình thái kinh tế – xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế
bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ
trao đổi những vật ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này
che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và
bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành


công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài rằng,
mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên cả hai
ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn
gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết
tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động;
lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để
đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao
đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi
nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy
luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.
C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không
phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc
biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng
khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là
giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động
của công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… –
Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản
xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức
lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên
cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi
nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ
định lẫn nhau mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân
theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn
thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác
gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành
bóc lột giá trị thặng dư là quy luậtbóc lột đặc thù của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến hay tỷ số giữa lao động thặng
dư và lao động cần thiết là tỷ suất giá trị thặng dư; tỷ suất đó nói lên mức độ

bóc lột giai cấp công nhân. Giá trị thặng dư có biểu hiện bề ngoài là một số
tiền dôi ra ngoài tư bản ứng trước; số tiền đó có tên gọi là lợi nhuận. Phạm
trù lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột vì nó làm cho người ta dễ lầm tưởng là
con đẻ của tư bản ứng trước (c + v) chứ không phải là con đẻ của tư bản khả
biến (v).
Tổng số giá trị thặng dư bóc lột được phân chia thành các loại thu nhập ăn
bám trong xã hội tư bản: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp,
lợi nhuận ngân hàng; nó còn được phân chia nhỏ hơn nữa thành lợi nhuận
doanh nghiệp, lợi tức cho vay v.v Quá trình phân chia đó tuân thủ theo quy
luật cạnh tranh bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng dư còn phải
phân chia cho chủ sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, tổng số
giá trị thặng dư do toàn bộ giai cấp vô sản, công nhân tạo ra trong các ngành
sản xuất bị toàn bộ giai cấp tư bản và địa chủ phân chia nhau trong cuộc đấu
tranh không khoan nhượng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đỉnh cao của nó là độc quyền
nhà nước là chủ nghĩa đế quốc, đã có nhiều biến đổi trong hình thức và cơ
chế bóc lột tư bản chủ nghĩa. Quy luật sản xuất giá trị thặng dư biểu hiện
thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong thời kỳ tự do cạnh tranh thì
nay, trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nó biểu hiện thành quy luậttỷ suất
lợi nhuận độc quyền cao; quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản
xuất trong thời kỳ tự do cạnh tranh nay biểu hiện thành quy luật giá cả độc
quyền với hệ thống giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp do tư
bản độc quyền can thiệp và áp đặt v.v Những bộ phận cấu thành lợi nhuận
độc quyền cao là: lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết
của công nhân trong xí nghiệp độc quyền; một phần lao động thặng dư của
các xí nghiệp nhỏ và vừa do xí nghiệp độc quyền xén bớt thông qua hệ thống
giá cả độc quyền; lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết
của nông dân và thợ thủ công cũng bị bóc lột thông qua hệ thống giá cả độc
quyền; phần quan trọng là siêu lợi nhuận thuộc địa dựa trên sự bóc lột nặng
nề lao động thặng dư và một phần lao động cần thiết của nhân dân lao động

ở những nước thuộc địa hay phụ thuộc.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và của chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế bóc lột đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn
(chủ nghĩa Taylo, chủ nghĩa Fayol, chủ nghĩa Ford, chủ nghĩa Ford mới v.v.,
lần lượt xuất hiện để biện minh cho tính công bằng, sòng phẳng trong quan
hệ giữa tư bản với lao động). Trên thực tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại,
ngày càng có nhiều thủ đoạn và hình thức bòn rút lợi nhuận tinh vi để không
ít người còn lầm tưởng đến một thứ chủ nghĩa tư bản mới "nhân văn" hơn
trước đây, như "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "xã hội tham dự"… Điều không
thể che dấu được đó là sự hình thành một tầng lớp tư sản ăn bám, quý tộc,
thực lợi, tài phiệt; sự thao túng có tính chất toàn cầu của các tập đoàn xuyên
quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế; sự
xuất hiện của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế; sự áp đặt chính sách giữa
Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo…
2 – Đào sâu sự phân cực xã hội – hệ quả tất yếu của quy luật bóc lột tư
bản chủ nghĩa
Sự phân hóa xã hội thành giai cấp không lao động nhưng giàu có, đầy quyền
lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã hội và giai cấp lao động sản xuất
ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị tước mọi quyền và bị áp bức là sản
phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ người bóc lột người dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng sự phân cực xã hội với hình thức biểu hiện
kinh tế của nó là sự phân hóa giàu – nghèo trong các xã hội nô lệ và phong
kiến, mặc dù các chế độ bóc lột siêu kinh tế này biểu hiện ra là dã man, tàn
bạo, nhưng là có hạn độ.
Trong chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu
sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của cải ngày càng
tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối
lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển
và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát
triển. Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã sớm chớp lấy những thành tựu mới

của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất lao
động xã hội, do đó năng suất lao động thặng dư cũng ngày càng tăng theo;
cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa đã chuyển hướng sang dựa chủ yếu trên sự
tăng năng suất lao động. Cũng trên cơ sở kỹ thuật đã phát triển mà cơ chế
bóc lột dựa trên tăng cường độ lao động thái quá và kéo dài ngày lao động
một cách che dấu cũng phát triển. Của cải xã hội ngày càng được tạo ra
nhiều, nhưng lại chỉ tập trung vào một cực. Mặt khác, nội dung vật chất của
chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao
đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ); trong quan hệ bóc lột dựa trên hình thức giá
trị trao đổi, lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu
trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ. Sở dĩ như vậy là vì giá trị trao đổi với
hình thức biểu hiện vật chất của nó là vàng, tức tiền tệ, về mặt chất lượng có
sức mạnh vô hạn (có tiền là có tất cả), về mặt số lượng bao giờ cũng có hạn.
Mâu thuẫn giữa chất lượng có sức mạnh vô hạn và số lượng có hạn đó làm
tăng lòng thèm khát vơ vét được nhiều tiền. Do tất cả những điều kiện lịch
sử và tình hình trên, quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa đã đẩy sâu quá trình
phân cực xã hội mà các xã hội bóc lột trước kia không thể sánh kịp.
Đặc điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa còn là tái sản xuất mở rộng nhằm
mở rộng bóc lột và ngày càng tích tụ tập trung tư bản để cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội với
mục đích thu lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình và thắng trong cạnh
tranh. Do đó, tư bản tích lũy ngày càng giành đầu tư nhiều hơn vào việc hiện
đại hóa guồng máy sản xuất, làm cho kết cấu hữu cơ (c/v) của tư bản thay
đổi theo hướng: tư bản bất biến (c) tăng lên cả về giá trị tuyệt đối và tương
đối trong khi tư bản khả biến (v) tăng lên tuyệt đối, nhưng giảm tương đối
do kỹ thuật hiện đại vừa đắt tiền vừa làm giảm số lượng công nhân vận hành
máy móc. Quy luật kết cấu của tư bản thay đổi theo hướng tăng lên như vậy
dẫn đến giảm mức cầu về sức lao động trong khi số lượng của giai cấp công
nhân tăng lên cùng với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ đó
dẫn đến nạn nhân khẩu thừa tương đối hay nạn thất nghiệp và hình thành đội

quân công nghiệp trù bị.
Tích tụ, tập trung tư bản trong quá trình tích lũy cũng đưa đến kết quả một
số ít nhà tư bản tước đoạt của số đông nhà tư bản nhỏ và vừa qua con đường
cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé". Nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, bóc lột càng
tăng lên. Vậy là, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến
cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của
chúng nữa…
3 – Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với nước ta
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính
chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng
trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối
đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động
quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản,
thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định
với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng
kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách
tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu"
(2)
.
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ
ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào
đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận
giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng
ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức
sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn
phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc

và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính
sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều
xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả
hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa
thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các
hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành
đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận
thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội
chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát
chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất
thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà
nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết
nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được
những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như
việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức
sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công
với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao
động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể
mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi
ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu
thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là
một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo
vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo
vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận
dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời
cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây

dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

×