Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

LỄ HỘI CHÙA HƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.53 KB, 5 trang )

LỄ HỘI CHÙA HƯƠNG
Lễ hội Chùa Hương
29/06/2007, 10h47
Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng
tao nhân mặc khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền
đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành, để dâng lên Người một lời nguyện cầu,
một nén tâm hương, hoặc thả hồn bay bổng hòa quyện với thiên nhiên ở một vùng rừng núi
còn in dấu Phật.
Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa phận huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà
Tây. Xã gần sáu thôn: Tiên Mai, Phú Yên, Hội Xá, Đục Khê, Yến Vĩ và Hạ Đoàn.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch.
Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này vốn là ngày lễ
khai sơn (lễ mở cửa rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ "mở cửa rừng" hàm chứa ý nghĩa
mới - mở cửa chùa.
Chùa Hương là một danh thắng nổi tiếng. Không giống bất cứ chùa nào, chùa Hương làm
một tập hợp nhiều động, nhiều chùa trong một tổng thể cấu trúc kết hợp vừa thiên nhiên vừa
nhân tạo. Tạo hóa đã khéo bày đặt ở vùng này nhúm núi đá gồ ghề bên cạnh sự mềm mại
của các dòng suối. Màu sắc xám đanh, già dặn, dãi dầu của đá trơ ra bên màu xanh non tơ
của cây lá. Sự hấp dẫn của Hương Sơn không chỉ ở bề ngoài mà còn có ở bên trong. Đó là
vẻ đẹp sâu lắng giàu triết lý dân gian của hang động. Khách đến với chùa Hương có cái thú
ngồi thuyền chiêm ngưỡng bầu trời, cảnh bụt, khoái chú nhìn sông ngắm núi như thấy một
góc của non sông đất nước vừa thơ, vừa thực thu gọn trong tầm mắt và cũng huyền ảo như
lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh. Cảm xúc hư, thực đan xen lẫn nhau nâng tâm hồn của con
người bay bổng, phiêu diêu. Con người đi tới đâu dấu tích lịch sử và văn hóa như đã in hầu
hết vào thiên nhiên và đã được định vị. Ven núi có hang Sơn - Thủy hữu tình, hàng Long Vân,
hang Cá. Trên cao có hang Hồng Sự, hang Sũng Sàm, hang Trú Quân, động Tiên, động
Tuyết, động Hương Tích. Con người đến với thiên nhiên bằng tấm lòng bè bạn, đặt tên cho
động, cho hang rồi xây chùa, lập điện tôn thành những chùa động hang độc đáo, tạo nên cái
thiêng cái đẹp. Để rồi lại chính con người thăm viếng, ngưỡng mộ thờ phụng và hưởng thụ
thành quả về miền thành tín của mình. Hang động ở Hương Sơn là yếu tố cấu thành quan
trọng để quần thể Hương Sơn trở thành danh thắng nổi tiếng và đặc thù của quần thể này. Cả


3 tuyến du lịch (Hương Tích, Long Vân, Tuyết Sơn) đều khai thác các vị trí trong đá để thu hút
khách.
Tuyến thứ nhất gọi là tuyến Hương Tích. Khách chủ yếu đi tuyến này bởi vì ở tuyến này
những gì đặc sắc nhất đều tập trung ở đó. Bắt đầu từ bến đò Yến Vĩ - Suối Yến - đền Trình
Ngũ Nhạc - cầu Hội - chùa Thanh Sơn chùa Hương Đài - chùa Thiên Trù - chùa Hinh Bồng -
chùa Tiêu - chùa Giải Oan - đền cửa Võng và cuối cùng vào trong Hương Tích.
Bến Đục là nơi tập kết để vào chùa Hương. Khách theo dòng suối Yến bập bềnh vào cõi tiên,
lên khỏi đò cách chừng hơn nửa km là đền Trình. Ngôi đền này thờ Sơn Thần, và mùng 6
tháng Giêng lễ mở cờ rừng được cử hành trọng thể tại đây để người trần gian xin phép thần
rừng được vào rừng bái lễ và làm ăn sinh sống. Tiếp tuyến đường là đến bến Trò, tức là bến
đò chùa Thiên Trù nằm lọt giữa một thung lũng xinh đẹp. Chặng đường tiếp, theo lối lên gập
ghềnh vào chùa, trong có lối rẽ vào Chùa Tiên, đó là một hang động thoáng rộng. Trong chùa
Tiên có vô số những pho tượng bằng đá và nhũ đá. Khi gõ lên nghe như tiếng chiêng, tiếng
khánh và có một pho tượng trong suốt như thủy tinh hồng khi đặt ngọn đèn phía bên kia
tượng. Hành trình tiếp đến chùa Giải Oan, trong khu vực chùa có giếng nước mang tên giếng
Giải Oan, tương truyền xưa kia Đức Phật đõ tâty trầm tại Giếng nước này. Những di tích đậm
màu sắc Phật như am Phật tích, đông Tuyết Quỳnh … dẫn dắt giúp du khách quen với cảnh
thâm u của đất trời. Đến động Hương Tích (tức là chùa Trong) du khách được chiêm ngưỡng
những nhũ đá - tác phẩm tuyệt mỹ mà tạo hóa phải thầm lặng hàng triệu năm bồi hoàn mới
thành khối, thành hình lạ lùng đến thế, Tương truyền trong động này, Đức Phật Bà đã tu hành
đắc đạo. Sau đó các La Hán cũng tu luyện nơi đây. Một hệ thống các tạo tác nghệ thuật do
những nghệ sĩ vô danh tài ba để lại trong hang động, tiêu biểu nhất là tượng Phật Bà Quan
Âm. Phật Bà có hình dáng một thiếu nữ, khuôn mặt trái xoan, cổ cao ba ngấn, đầu đội mũ Bồ
Tát. Phật Bà ngồi lên tảng đá trông tựa gốc cổ thụ, chân như để hờ lên một bông sen độ nở.
Đây là pho tượng khá đẹp, nét chạm rắn rỏi mà thanh thoát. Hình tượng Phật Bà thật gần gũi
với người lao động Phía trong cùng hang động, có đường "lên trời" và cả lối xuống "địa
phủ”.
Tuyến thứ hai là tuyến Tuyết Sơn. Đò cũng xuất phát từ bến Yến, đưa khách đến thăm đền
Trình. Ngắm nhìn sông nước, khách lần lượt thấy núi Thuyền Rồng, núi con Phượng cho tới
bến Tuyết Sơn. Trong động Tuyết Sơn có nhũ đá nhủ xuống, trùng trập hiện ra coi như vảy

rồng. Trên ngọn núi có tượng Phật bằng đá, lai có những cây thông mọc từng hàng coi như
một dãy tán. Cảnh trí xanh tối âm u (thích trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú).
Tuyến thứ ba là tuyến Long Vân, đò cũng xuất phát từ bến Yến, đi thăm đền Trình (Phú Yên)
rồi rẽ sang một nhánh của suối Yến để tới chùa Long Vân. Lên thuyền vào chùa Long Vân, rồi
leo núi thăm động cùng tên. Đi nữa đến chùa Cây Khế và cách đó chừng vài trăm mét là hang
Sũng Sâm - một di chỉ khảo cổ lưu dấu tích của người xưa.
Từ đó có thể thấy rằng không phải ngẫu nhiên các bậc thánh thơ của nhiều thời đại đã tìm
đến Hương Sơn và để lại nhiều bài thơ hay, lắng sâu trong trái tim bạn đọc. Những bài thơ ấy
sống mãi với thời gian và góp tiếng nói đưa Hương Sơn trở thành danh thắng không chỉ của
một vùng mà còn là của cả nước. Do đó, tuy du khách đến chùa Hương có nhiều mục đích
khác nhau nhưng mục đích tích cực nhất là đến chùa Hương đồng nghĩa đến với cái đẹp.
Điều đó đã phản ánh sự khao khát của con ngưòi hướng tới cái đẹp để tự hoàn thiện bản
thân mình. Yếu tố này tạo nên sắc thái văn hóa du lịch của chùa Hương.
Theo cuốn Nam Hải Quan Thế âm - một truyện Nôm ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII - XIX thì
chùa Hương là nơi lưu dấu tu hành của công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu Trang Vương
nước Hưng Lâm. Dân gian quen gọi công chúa Diệu Thiện là Bà chúa Ba. Bà tu hành chín
năm ở động Hương Tích đắc đạo trở thành Đức Quan Thế âm bồ tát. Sau trở về diệt trừ cái
ác, đáp hiếu cha mẹ, phổ độ chúng sinh.
Phật thoại truyền miệng còn phong phú hơn. Theo các cụ bô lão làng Phú Yên (làng quản lý
tuyến Tuyết Sơn) kể: khi mãnh hổ cõng Bà Chúa Ba đến núi Hương Sơn, ban đầu bà tu hành
ở chùa Hỏa Quang - nay là nền đình làng Phú Yên, sau đó bà lên núi để tĩnh tâm, tu hành ở
động Tuyết Sơn, ít lâu sau bà ngược hướng Bắc tu ở động Hương Tích.
Các cụ ở làng Yến Vĩ thì kể : Khi Ngọc Hoàng sai thần linh hóa hổ đến cứu bà Diệu Thiện, vì
quyết chí tu hành không tuân theo lời cha nên bị vua sai lính giết, mãnh hổ cõng bà vào núi
Hương Sơn. Chỗ bà xuống đầu tiên là hang Thánh Mẫu, còn gọi là am Phật Tích, tương
truyền trong hang còn dấu một bàn chân bà in trên đá. Ở đây, bà sang một vũng nước trong
hang bên cạnh tắm gội rửa nỗi oan ức bụi trần. Chỗ đó sau thành chùa Giải Oan có giếng
Giải Oan. Người xưa quan niệm ai oan ức điều gì thành kính đến nơi đây lễ Phật, uống nước
ở giếng Giải Oan coi như đã giải được nỗi uẩn khúc trong lòng.

Câu chuyện về bà chúa Ba là câu chuyện nhà phật sáng tác dựa trên các kinh điển đạo Phật.
Nam Hải Quan Thế Âm bồ tát là biểu tượng đẹp đẽ của sự chân tu giữ đạo cứu đời, trở thành
hình tượng gần gũi, thân thương, cảm thông sâu sắc nỗi bất hạnh của con người và dân
chúng.
Việc lưu truyền Phật thoại về bà chúa Ba
và hang Phật Tích ở nơi thờ Tam Phủ đã
khẳng định sự thắng thua của đạo Phật ở
đất Hương Sơn. Ở đó, Phật hiện thân
trong tín ngưỡng thờ đá mà người dâm
quen gọi là bụt mọc. Sức mạnh huyền
diệu của Phật pháp đồng nhất với linh
hồn thiêng liêng trong những cây đá, nhũ
đá sẽ truyền cho các tín đồ niềm tin, tăng
thêm sức mạnh cho mỗi người.
Lạ thay, chốn bồng lai tiên cảnh, lại thể
hiện khát vọng rất thực của cuộc đời, cầu
mong sự sinh sôi nảy nở, ước mong cuộc
sống đầy đủ. Nhà nông cầu mong mình làm ruộng gạo vun lên thành đụn gạo trắng như ngọc,
người buôn bán mong sao có lẽ, có lời, tiền của như cây vàng, cây bạc. Ai muốn con trai thì
xoa đầu núi cậu, ai ước con gái thì xoa đầu núi cô. Còn người bệnh thì tin rằng những giọt
nước rớt tí tách từ bầu sữa tiên (vú mẹ) sẽ trợ thêm sức mạnh cho người mau khỏe… Đó
thực là những tín ngưỡng của người lao động. Nơi đây không có chỗ cho những ai cầu vinh
hoa danh vọng, chức tước, quyền hành.
Những yếu tố trên đây cho thấy, dưới góc độ văn hoá dân gian, lễ hội chùa Hương mang màu
sắc hội cầu may.
Lễ hội chùa Hưng trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả
các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương
Sơn.
Xã Hương Sơn là xã sở tại trực tiếp quản lý các tuyến du lịch. Trước khi vào chùa, du khách
phải nghỉ lại ở các làng quanh bến Đục, bến Yến. Vì thế đi hội chùa Hương du khách dễ có

dịp hòa mình vào không khí của hội làng truyền thống.
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương,
gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và
thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni
mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi
mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Trong
lúc chạy đàn, hai vị tăng ni múa rất dẻo
và đẹp mắt qua những động tác ít thấy
ở mọi nơi. Từ ngày mở hội cho đến hết
hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các
chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng
nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn
hương khói thì không bao giờ dứt. Về
phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở
chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần
thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh từ” thờ bà chúa
Thượng Ngổn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng"
của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và
tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt
Nam; có sự
sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính chất tôn giáo có phần bị tình
yêu thiên nhiên, tinh yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng… tràn đầy chất thẩm mỹ vừa thanh
cao, rất trần tục lấn đi. Trẩy hội chùa Hương vì cả tâm hồn và thể xác đều được đắm sâu vào
trong mây ngàn cỏ nội. Ngày hội, làng tổ chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước
dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già bà cả thành tâm tiễn thần.
Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người
làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc. điều
khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự

thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ
lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Cả ở những triền núi
thấp cao, những rừng cây, rừng mơ… là những đoàn người
trẩy hội. Kẻ đi ra, người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng
bềnh vào những đám mây nhẹ. Họ gặp nhau, quen hay không
quen cũng vui vẻ chào nhau bằng một lời chào: "Nam mô a di
đà Phật" nhẹ nhàng. đằm thắm và ấm áp…
Du khách đến chùa Hương sẽ có dịp được chứng kiến và may
mắn tham dự vào không khí sinh hoạt văn hóa của lễ hội. Cảm
nhận tinh thần thiên nhiên của ngày hội lịch sử ấy để từ đó hồi
âm về quá khứ của tổ tiên ở một làng quê ven chân núi.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc
độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn

Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo
của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy,
nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay
từ thuở xa xưa. Và đến nay, ngày hội bơi thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt
cho người đi hội.
Rời con thuyền, giã từ sông nước, con người được hòa nhập vào núi vãn cảnh chùa chiền và
bắt đầu hành trình mới - hành trình leo núi. Leo núi chơi hang, chơi động lý thú vui nước đông
đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Vì vậy mà leo núi
Hương Sơn dẫu có mệt nhưng có cảnh có người và có không
khí của ngày hội nên ai cũng cảm thấy thích thú với cuộc chơi
sông núi của mình. Cuộc leo núi ấy tạo ra trong con người tâm
lý kỳ vọng, muốn vươn lên đến cái đẹp. Và sự kỳ vọng cái đẹp
hẳn sẽ làm cho con người thêm phần sảng khoái tin yêu cuộc
đời này hơn.
Trong không khí linh thiêng của ngày hội. Ở bất cứ chỗ nào
như sân chùa, sân nhà tổ, hình thức hát chèo đò đều được

thực hiện. Các vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác chèo đò và hát những đoạn văn trên
sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật. Đây là một sinh hoạt rất được các vãi hâm mộ.
Có thể thấy, trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời - cảnh bụt,
mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người trước thiên nhiên cao
rộng. Đó là vẻ đẹp lung linh của sông nước, bao la của đất trời, sâu lắng của núi rừng, huyền
bí của hang động… Và dường như đất - trời, sông núi đẹp hơn nhờ tài sáng tạo hình tượng -
trí tưởng tượng này lòng nhân ái của con người.
Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác nhau mà
bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân
bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách.
Tổng thể thắng cảnh chùa Hương còn là biểu hiện của sự hòa hợp tự nhiên giữa tôn giáo và
tín ngưỡng dân gian.
Trẩy hội chùa Hương là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền
tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác,
nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.
Cinet

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×