Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

di san quoc gia cua Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.33 KB, 5 trang )

Di sản quốc gia Việt Nam
Năm 1962, vịnh Hạ Long được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam xếp hạng
di tích danh thắng cấp quốc gia với diện tích 1553km² bao gồm 1969 hòn
đảo
[10]
.
Các đảo trong vùng vịnh Hạ Long được quy hoạch là khu bảo tồn các di tích
văn hoá-lịch sử và cảnh quan quốc gia, theo Quyết định Số 313/VH-VP của
Bộ Văn hoá-Thông tin Việt Nam ngày 28 tháng 4 năm 1962 (ADB 1999).
Các đảo này cũng có trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết
định Số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng Chính Phủ).
Năm 1995, vịnh Hạ Long, cùng với đảo Cát Bà, được Phân viện Hải dương
học Hải Phòng đề nghị đưa vào danh sách hệ thống các khu bảo tồn biển.
Năm 1999, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB 1999) đề xuất thành lập một
khu bảo vệ có tên là Khu cảnh quan thiên nhiên vịnh Hạ Long rộng 155.300
ha
[5]
, tuy hiện nay vẫn chưa thực hiện được.
[sửa] Di sản thế giới lần 1: giá trị thẩm mỹ
Ngày 21 tháng 12 năm 1991 Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng hồ sơ
về cảnh quan vịnh Hạ Long để trình Hội đồng Di sản Thế giới xét duyệt di
sản thiên nhiên thế giới. Năm 1993, hồ sơ khoa học về vịnh Hạ Long được
hoàn tất và chuyển đến UNESCO để xem xét. Trong quá trình hoàn chỉnh hồ
sơ, UNESCO lần lượt cử các đoàn chuyên gia đến Quảng Ninh khảo sát,
hướng dẫn, nghiên cứu, thẩm định hồ sơ tại chỗ. Hồ sơ vịnh Hạ Long được
chấp nhận đưa vào xem xét tại hội nghị lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế
giới
[10]
.
Ngày 17 tháng 12 năm 1994, trong kỳ họp thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, Ủy


ban Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên
nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mĩ (tiêu chí vii)
[34]
, theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản tự nhiên và văn
hóa của thế giới
[10][11]
.
[sửa] Di sản thế giới lần 2: giá trị địa chất địa mạo
Tháng 9 năm 1998, theo đề nghị của Ban quản lý vịnh Hạ Long và IUCN,
Giáo sư Tony Waltham, chuyên gia địa chất học trường Đại học Trent
Nottingham đã tiến hành nghiên cứu địa chất vùng đá vôi carxtơ vịnh Hạ
Long. Giáo sư đã gửi bản báo cáo về giá trị địa chất vịnh Hạ Long tới
UNESCO tại Paris, Văn phòng IUCN tại Thụy Sĩ và Hà Nội, đồng gửi Ban
quản lý vịnh Hạ Long
[10]
. Ngày 25 tháng 2 năm 1999, sau khi nhận được báo
cáo của giáo sư Tony Waltham, UNESCO đã gửi thư tới Ủy ban Nhân dân
tỉnh Quảng Ninh, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam và Ban quản lý vịnh
Hạ Long yêu cầu xúc tiến việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO công nhận về
giá trị địa chất, địa mạo vùng đá vôi vịnh Hạ Long.
Tới tháng 7 năm 1999, hồ sơ trình Hội đồng Di sản Thế giới để công nhận
vịnh Hạ Long về giá trị địa chất hoàn tất và được gửi đến Trung tâm Di sản
thế giới tại Paris. Tháng 12 năm 1999 tại hội nghị lần thứ 23 Hội đồng Di
sản Thế giới họp tại thành phố Marrakech của Maroc, Hội đồng Di sản Thế
giới đã đưa việc thẩm định hồ sơ để công nhận giá trị địa chất vịnh Hạ Long
vào năm 2000. Tháng 3 năm 2000 Giáo sư Erery Hamilton Smith, chuyên
gia của tổ chức IUCN được cử đến Hạ Long để thẩm định. Tháng 7 năm
2000, kỳ họp giữa năm của Trung tâm Di sản thế giới tại Paris đã chính thức
đề nghị Ủy ban Di sản Thế giới công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới
bởi giá trị toàn cầu về địa chất địa mạo, theo tiêu chuẩn viii của UNESCO

"là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của lịch sử trái đất, bao gồm
bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đáng kể đang diễn ra trong quá
trình diễn biến của các kiến tạo địa chất hay các đặc điểm địa chất và địa
văn"
[10][11]
.
Ngày 2 tháng 12 năm 2000, căn cứ Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản văn
hóa và thiên nhiên thế giới và kết quả xét duyệt hồ sơ địa chất vịnh Hạ Long,
tại Hội nghị lần thứ 24 của Hội đồng Di sản Thế giới tại thành phố Cairns,
Queensland, Úc, Hội đồng Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long là di
sản thế giới lần thứ 2 theo tiêu chuẩn (viii) về giá trị địa chất địa mạo
[10]
.
[sửa] Đề cử di sản thế giới lần thứ 3
Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang xúc tiến đệ trình UNESCO công nhận Vịnh
Hạ Long là Di sản thế giới lần thứ 3
[35]
, dựa trên những giá trị về khảo cổ
học và đa dạng sinh học trong vùng Vịnh.
Lịch sử
Chùa được khoi cong xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm
1049.
Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có
trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ
của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền
Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa
sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và
được nha sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm
bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng
và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì

thế chùa mang tên Diên Hựu.
Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 Âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật.
Các nhà sư và nhân dân khap kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm
Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con
chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của
một ngày hội lon.
Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân
hai tháp lợp sứ trắng. Năm 1108, Nguyên phi Ỷ Lan sai bay toi đúc một cái
chuông rất to, nặng den một vạn hai nghìn cân, đặt tên là "Giác thế chung"
(Quả chuông thức tỉnh người đời). Đây được xem là một trong tứ đại khí -
bốn công trình lớn của Việt Nam thời đó - là: tháp Báo Thiên, chuông Qui
Điền, vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm. "Giác thế chung" đúc xong nặng
quá không treo lên được, để dưới mặt đất thì đánh không kêu. Người ta đành
bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ, ruộng này có nhiều
rùa, do đó có tên la Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa). Đến thế kỷ 15,
giặc Minh xâm lược, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm 1426 Lê Lợi
đem nghĩa quân Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu thon
vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn sai nguoi đem phá
chuông Quy Điền lấy đồng. Quân Minh thua tran, nhưng chuông Quy Điền
thì không còn nữa.
Văn bia tháp Sùng thiện diên linh (chùa Đọi, Hà Nam), năm 1121 viết: "Do
lòng sùng kính đức Phật và dốc lòng mộ đạo nhân quả (đạo Phật) nên
hướng về vườn Tây Cấm nổi danh (Ngôi vườn ở phía tây cấm thành Thăng
Long đời Lý) mà xây ngôi chùa sáng Diên Hựu theo dấu vết chế độ cũ, cùng
với ý mưu mới của nhà vua (ý nói: theo dấu vết lề lối xây dựng chùa đời Lý
Thánh Tông, có thêm ý mới của Lý Nhân Tông mà chữa lại chùa đẹp hơn
trước)".
Đến thời nhà Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa nhà Lý nữa vì sách cũ
đã ghi: Năm 1249, " mùa xuân, tháng giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống
chiếu vẫn làm ở nền cũ ".

Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm
1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được sua chua lại năm 1955 do
kiến-trúc-sư Nguyễn Bá Lăng đảm-nhiệm.
Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) có một bài thơ về chùa Một Cột như
sau
Toàn cảnh chùa Một Cột
Diên Hựu tự
Thượng phương thu dạ nhất
chung lan
Nguyệt sắc như ba phong thụ
đan
Si vẫn đảo miên phương kính
lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm
hàn
Vạn duyên bất nhiễu thành giá
tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng
khoan
Tham thấu thị phi bình đẳng
tướng
Ma cung Phật quốc hảo sinh
quan
Nguyễn Huệ Chi dịch:
Đêm thu chùa thoảng tiếng
chuông tàn
Phong đỏ, trăng ngời, sóng
nguyệt lan
In ngược hình chim, gương
nước lạnh

Sẫm đôi bóng tháp, ngón tiên
hàn.
Muôn duyên chẳng vướng: xa
trần tục
Một mảy nào lo: rộng nhãn
quan
Thấu hiểu thị phi đều thế cả
Dầu ma dầu Phật, chốn nào
hơn?
Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan, với
ba chữ "Diên hựu tự", là mot ngôi chùa mới được xây dựng phụ vào với
chùa Một Cột, xây khoảng đầu thế kỷ 18.
[sửa] Kiến trú
Không gian chung quanh
Theo tài liệu lịch sử, lối kiến trúc một cột có từ trước đời nhà Lý. Ở Hoa Lư,
Ninh Bình trong ngôi chùa con gái vua Đinh Tiên Hoàng, có một cây cột đá
cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981–
1005). Phía trên cột là tòa sen chạm. Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm
đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía
trước điện dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen. Như vậy, trước
khi xây chùa Một Cột, lối kiến trúc đó đã là một thực tế nghệ thuật cổ
truyền.
Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để
thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm
hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên
cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã
cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước.
Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi
cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất),
đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng

trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài
Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều nguyệt.
Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn
thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là
kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình
vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng
men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.
Trong vườn chùa hiện có một cây bồ đề sum xuê từ đất Phật, do tổng thống
Rajendra Prasad tặng nhân dịp Chủ tịch Hồ Chí Minh qua thăm Ấn Độ năm
1958

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×