Động vật không xương sống ( phần 8 )
Lớp giun dẹp Có tiêm mao = lớp Sán lông
Lớp này có khoảng 3.000 loài, chỉ một số ít (150 loài) sống hội sinh hay
ký sinh trong cơ thể động vật, phần lớn sống tự do.
1. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Thành cơ thể từ ngoài vào trong có các lớp như sau:
Lớp biểu mô (mô bì) bao gồm các tế bào biểu mô đơn có tiêm mao. Có 2
loại tế bào biểu mô là tế bào biểu mô bọc ngoài có cấu trúc tế bào rõ ràng
và biểu mô chìm hợp bào. Xen giữa các tế bào biểu mô là các tế bào
tuyến, tế bào que (rhabdit). Tế bào tuyến thường xếp thành cặp, được gọi
là tế bào tuyến kép (duo – gland), tập trung nhiều ở mặt bụng (hình 4.1).
Chức năng của loại tế bào này còn chưa rõ, có thể là tiết chất hoà tan chất
dính để cơ thể có thể di chuyển được. Tế bào que có thể tiết chất bảo vệ,
chất nhầy để bắt mồi và giữ ẩm cho cơ thể.
Phía dưới lớp tế bào biểu mô là lớp màng đáy, dưới lớp màng đáy là bao
cơ. Bao cơ thường có 3 lớp: Lớp cơ vòng, lớp cơ xiên và lớp cơ dọc,
ngoài ra còn có cơ lưng bụng. Sán lông chuyển động nhờ lông (bơi trong
nước) và nhờ bao cơ (bò trên nền đáy). Nhu mô là mô bì chèn giữa bao
cơ và thành các nội quan.
Tế bào nhu mô có hình dạng rất khác nhau, tạo thành mô liên kết xốp.
Trong nhu mô còn có các tế bào tuyến, sợi thần kinh và các ống bài tiết.
Hệ cơ của nhu mô
có cơ lưng - bụng và cơ ngang, chúng có quan hệ chặt chẽ với thành ruột
(nhất là hệ cơ lưng - bụng) và quyết định sự vận chuyển của ruột. Ngoài
ra còn có các loại tế bào khác nhau như là các tế bào hình sao giữ chức
năng nâng đỡ, hô hấp và thực bào, các tế bào lien ết có đuôi dính vào
nhau, trong dịch nhu mô có các tế bào sắc tố hấp thụ màu đỏ (được gọi là
mô xốp chứa đầy dịch).
Cơ quan tiêu hoá hình túi. Có miệng nằm ở mặt bụng về phía đầu. Bề mặt
hầu được phủ một lớp tiêm mao nhưng không có que rhabdit. Hầu nằm
trong xoang bao hầu có dạng hình trụ với hệ cơ rất phát triển và phức tạp.
Hầu có thể phóng ra được để bắt mồi. Ruột giữa hình túi đơn giản hay
chia thành nhiều nhánh. Mức độ chia nhánh liên quan đến kích thước cơ
thể, là một đặc điểm thích nghi để phát tán chất dinh dưỡng. Thành ruột
giữa có các tế bào tuyến và tế bào tiêu hoá thực bào. Chất cặn bã được
tống ra ngoài qua lỗ miệng. Khi đói một số loài sán lông có thể tiêu hoá
các phần khác nhau của cơ thể như tuyến trứng, tế bào sinh dục, nhu mô,
tế bào cơ và ruột… (hình 4.2).
Hệ bài tiết là nguyên đơn thận (protonephridia), gồm 2 hay nhiều ống dọc
và rất nhiều ống ngang phân bố chằng chịt. Đầu ống có tế bào hình sao
nhỏ (còn được gọi là tế bào ngọn lửa hay tế bào cùng), có tiêm mao
hướng vào lòng ống. Khi tiêm mao rung động thì sẽ tạo nên sự chênh lệch
áp suất bên ngoài (nhu mô đệm) so với trong lòng ống và chất thải từ nhu
mô sẽ thấm vào lòng ống, sau đó được tống ra ngoài (hình 4.3).
Hệ thần kinh gồm có hạch não và các dây thần kinh. mức độ tập trung của
các tế bào thần kinh tùy thuộc vào các nhóm sán lông khác nhau. Hệ thần
kinh chuyển dần sang đối xứng 2 bên trên nền đối xứng toả tròn. Sán lông
sống tự do có giác quan phát triển. Phần trước hệ thần kinh có 2 thùy cảm
giác (lobisensoriel), các dây thần kinh xuất phát từ thùy cảm giác chủ yếu
đến hai mấu cảm giác của đầu và mắt. Mắt có 1 hay nhiều đôi, cấu tạo
theo kiểu mắt ngược vì que cảm quang nằm trong lòng cốc sắc tố, ánh
sáng xuyên qua thân tế bào cảm quang rồi đến phần cảm quang của tế
bào. Ngoài ra ở sán lông còn có bình nang và cơ quan cảm giác hóa học
(hình 4.4).
Hệ sinh dục của sán lông lưỡng tính. Cơ quan sinh dục có cấu tạo đơn
giản (ở sán lông Không ruột) hay cấu tạo phức tạp như con đực có 2 hay
nhiều tuyến tinh (có tớí 300 tuyến tinh), có ống thoát tinh, ống dẫn tinh và
cơ quan giao phối. Con cái có 1 hay nhiều đôi tuyến trứng, các tế bào
tuyến noãn hoàng, ống dẫn trứng và âm đạo, cuối cùng là huyệt sinh dục
nằm ở cuối cơ thể.
2. Sinh sản và phát triển
Sán lông có khả năng sinh sản vô tính bằng cách tái sinh (paratomic) hay
cắt đoạn (architomic). Một số sán lông có thể hình thành tập đoàn tạm
thời từ sự sinh sản vô tính.
Sán lông sinh sản hữu tính: Trường hợp đơn giản nhất như ở Convoluta tế
bào sinh dục theo lỗ miệng ra ngoài (giống Ruột khoang). Cách thụ tinh
khác nhau: có thể thụ tinh trong nhưng ở mức độ thấp như ở loài
Cryptocoelis alba (nhóm Không ruột) cơ quan giao phối có thể xuyên qua
bất cứ phần nào của cơ thể, một số sán lông khác thì qua huyệt (bầu) sinh
dục (hình 5.5A). Trứng đẻ trong kén thành từng nhóm (6 – 7 chiếc) với
nhiều tế bào noãn hoàng cung cấp dinh dưỡng. Trứng phân cắt xoắn ốc,
phát triển trực tiếp hay qua ấu trùng Muller có 8 thùy phủ tiêm mao, bơi
lội tự do (hình 4.5).
3. Phân loại
Sán lông chủ yếu sống tự do, căn cứ vào mức độ phát triển của tổ chức cơ
thể mà chia 12 bộ, trong đó có 5 bộ chủ yếu:
a. Bộ Không ruột (Acoela): Cơ thể nhỏ, sống ở biển, bám trên các cây
thuỷ sinh vùng triều, thiếu ruột, thiếu nguyên đơn thận, hệ thần kinh
mạng lưới. Đại diện có giống Colvoluta và giống Chilida.
b. Bộ Ruột thẳng (Rhabdocoela): Cơ thể bé (0,5 – 5mm), sống ở biển hay
ở nước ngọt, bơi giỏi vì có lông bơi phát triển. Đại diện có loài
Mesostoma ehrenbergi.
c. Bộ Miệng lớn (Macrostomia): Sống ở biển hay nước ngọt, hệ sinh dục
đơn giản, ăn thịt. Đại diện có giống Microstomum và giống Stenostomium
(hình 4.6B và
4.6C).
d. Bộ Ruột nhiều nhánh (Polycladida): Hình lá lớn, sống ở biển, có nhiều
đặc điểm nguyên thuỷ. Đại diện có giống Phagocata (hình 4.6A) và
các loài Planaria graffi và loài Thysanozoon brocchii (hình 4.7B).
e. Bộ Ruột ba nhánh (Tricladida): Hệ sinh dục phức tạp, ruột có 3 nhánh
(hình
4.7A). Đại diện có loài Dallyella viridis và loài sán sữa Dendrocoelum
lactum.
Ngoài ra còn có một số loài thuộc sán lông Ruột thẳng sống ký sinh trên
giáp xác, ốc, cá và rùa như Sán tua đầu hay bộ Udonellida.
4 Phát sinh chủng loại
Phát sinh chủng loại của sán lông liên quan đến nguồn gốc của đối xứng
hai bên. Giữa sán lông và sứa lược có những đặc điểm giống nhau
cơ bản như di chuyển bằng lông, hệ tiêu hoá cùng một kiểu cấu tạo (có
hầu, dạ dày và các nhánh ruột bịt kín ở tận cùng, nhánh trước của dạ dày
ở sán lông tương tự như nhánh đối miệng của sứa lược…). Một số sán
lông có bình nang trên não giống sứa lược. Trong phát triển của sứa
lược có mầm của lá phôi thứ 3. Đặc điểm thống nhất của 2 nhóm trên
càng được chứng tỏ khi phát hiện ra loài Coeloplana meschnikovi và loài
Ctenoplana kowalevskyi. Giống Coeloplana có nhiều đặc điểm của sán
lông như cơ thể phủ đầy lông, có thể bò trên giá, ruột nhiều nhánh, không
có ống vị dọc. Giống Ctenoplana là động vật thuộc Sán lông nhưng rất
giống sứa lược (nhất là hình thành 8 dãy tấm lược ngắn). Khi chuyển
sang đời sống bò thì lỗ miệng nằm phía dưới, bò một hướng nên phần
trước có ưu thế hơn về việc bắt mồi do vậy lỗ miệng chuyển dần về phía
trước. Phần đầu cũng là phần tiếp xúc đầu tiên với môi trường nên ở đó
giác quan phát triển và não cũng chuyển dần về phía trước. Với đời sống
bò, cơ thể chuyển dần sang đối xứng 2 bên và mặt miệng của sứa lược -
mặt bụng của sán lông.
Nguồn gốc và mối quan hệ giữa các bộ của Sán lông chưa thật rõ
ràng. Khuynh hướng hiện nay cho rằng nhóm Không ruột là nguyên thuỷ
nhất, từ đó hình thành nên các nhóm khác. Có thể hình dung tổ tiên của
Không ruột có cấu tạo đơn giản như là ấu trùng Planula của ruột khoang.