Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Chính sách và chế độ tỷ giá của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 42 trang )

ti TCTT: "Chớnh sỏch v ch t giỏ ca Vit Nam"
Mở đầu
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ về đầu t, tài chính
tiền tệ, thơng mại quốc tế giữa các quốc gia phát triển mạnh mẽ. Việc trao đổi thơng
mại quốc tế đòi hỏi sự chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quan hệ
giữa các nớc, nhóm nớc với nhau làm nảy sinh phạm trù tỉ giá hối đoáI nhằm so sánh
giá trị, sức mua của đồng tiền trong nớc với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau
Tỷ giá hối đoáI đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia và trong mối
quan hệ kinh tế quốc tế. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị của
mình để lựa chọn tỷ giá hối đoái phù hợp để điều tiết cán cân thơng mại quốc tế theo
mục tiêu định trớc của Nhà nớc
Giai đoạn những năm 1990, Việt Nam đã từng áp dụng chính sách tỷ giá hối đoáI cố
định trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Tác dụng điều tiết của tỷ giá hối
đoáI hạn chế nhiều và hầu nh không phát huy đợc tác dụng, không phản ánh đúng
quan hệ cung cầu trên thị trờng ngoại hối, giá trị của đồng nội tệ. Hiện nay, chính
sách tỷ giá hối đoái thả nổi có sự kiểm soát của Nhà nớc đợc Việt Nam áp dụng đem
lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Song chính phủ luôn có những cải cách hoàn thiện
chính sách để đảm bảo phù hợp tơng quan giữa nền kinh tế quốc gia, tăng trởng kinh
tế, ổn định tiền tệ và tạo thuận lợi cho Việt Nam trên thị trờng thế giới.
Nhận thấy ý nghĩa quan trọng của chế độ tỷ giá hối đoáI, nhóm chọn vấn đề
"Chớnh sỏch v ch t giỏ ca Vit Nam"
Ni dung chớnh:
Chng 1: TNG QUAN V CHNH SCH V CH T GI
Chng 2: CH T GI CA VIT NAM T NM 1990 N NAY
Chng 3: CC BI HC V VN CHNH SCH T GI CA VIT
NAM
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ CHẾ ĐỘ TỈ GIÁ
1. Tỷ giá
Khái niệm tỷ giá
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có


đồng tiền riêng khác nhau cả về hình thức lẫn giá trị và đều tham gia ngày càng tích
cực vào đời sống kinh tế xã hội quốc tế theo trình độ phát triển và vị thế của quốc
gia mình. Trong quá trình tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư, vay mượn và
trao đổi quốc tế các nước, các tổ chức, cá nhân, các đối tác phải thanh toán với
nhau thông qua các đồng tiền của các bên được chuyển đổi, tính toán theo một
tương quan tỷ lệ nhất định.
Theo quan điểm kinh tế hiện đại: “Tỷ giá là giá mà người ta trả khi mua hoặc
nhận được khi bán một ngoại tệ, trên thị trường ngoại hối tỷ giá là giá cả của tiền tệ
nước này tính bằng đơn vị tiền tệ nước khác”.
Ví dụ: 1 USD = 20300 VND. Trong ví dụ này, giá của USD được biểu thị
thông qua VND và 1 USD có giá là 20300 VND.
1.2 Cơ sở hình thành tỷ giá
1.2.1 Thuyết ngang giá vàng
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền quốc
gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại (vàng) chứa
đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của mình đại diện. Trong
giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu đại chiến thế giới lần thứ nhất,
người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền bằng cách so sánh hàm lượng vàng chứa
trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và của
một đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD là:
GBP/USD = 2,488281/0,888671 = 2,80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên thế giới
khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng vàng chứa
đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm chế sự phát triển kinh tế
và giao lưu kinh tế quốc tế ) nên phần lớn các nước đã từ bỏ chế độ bản vị vàng vào đầu
những năm 30. Đến năm 1971, các nước hoàn toàn bãi bỏ chế độ bản vị vàng.
1.2.2. Thuyết ngang giá sức mua ( Purchasing Power Parity - PPP )

Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước
khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra, người tiêu
dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu.
Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát
cao. Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mẫu mậu
dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Một trong
những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất trong tài chính quốc tế là
thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên hệ lạm phát – tỷ giá hối đoái. Theo
hình thức, thuyết ngang giá sức mua gồm 2 loại là hình thức tuyệt đối và hình thức
tương đối
*Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một giá.
Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất một loại hàng
hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau trên toàn thế giới và
không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất với giá
100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000 JPY/tấn thì có
nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.
Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt tương
đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho đến khi giá
thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên USD/JPY = 100 (tức là
giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150 JPY/USD thì xu hướng là cầu thép
của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ giá phải giảm xuống đến 100 JPY/USD
(tăng giá đồng JPY).
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ giữa hai
đồng tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại cùng thời điểm.
Ví dụ: Thép Nhật tăng giá 11.000 JPY/tấn, thép Mỹ vẫn ở giá 100 USD/tấn,
tỷ giá cũ là 100 JPY/USD, thì lúc đó thuyết PPP nói rằng tỷ giá sẽ được điều chỉnh
theo hướng giảm giá đồng JPY, tức là bằng 110 JPY/USD. Việc vận dụng thuyết
PPP chỉ cung cấp cho ta một hướng dẫn lâu dài về sự vận động của tỷ giá.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị sai lệch

đáng kể vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển, bảo hiểm, thanh
toán, thông tin và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó, thuyết PPP tuyệt đối hiếm
khi thấy trong thực tế, nhưng thuyết PPP tương đối lại khá phổ biến.
*Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền không
giống nhau ở mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp thụ bởi sự
biến động của tỷ giá, do đó, quan hệ PPP được duy trì không thay đổi. Nếu nước A
có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và nước B có tỷ lệ lạm phát bằng 10% thì đồng tiền của
nước B phải giảm giá 10% so với đồng tiền của nước A. Sự biến động của tỷ giá sẽ
duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau khi lạm phát xảy ra là không thay đổi.
Nếu thuyết PPP tương đối hoạt động, có hiệu lực ngay lập tức và chính xác,
thì chính sách tiền tệ sẽ không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại. Bất cứ sự
thay đổi nào trong các mức giá cả giữa hai nước do thay đổi mức cung ứng tiền sẽ
được hấp thụ ngay lập tức bởi sự thay đổi của tỷ giá. Trong thực tế thuyết PPP tương
đối có ảnh hưởng tương đối tới sự biến động của tỷ giá, nhưng xảy ra chậm hơn. Xu
hướng là rõ ràng nhưng nhiều yếu tố có thể làm méo mó quan hệ này trong ngắn
hạn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do trong giai đoạn ngắn hạn đối với
cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế thì giá cả hàng hoá được coi như là cố
định. Trong khi đó tỷ giá trao đổi thì được điều chỉnh thường xuyên do sự cập nhật
thông tin và do sự thay đổi của chính sách kinh tế. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi của
tỷ giá đã tạo ra sự sai lệch lớn và kéo dài so với thuyết PPP.
1.3 Niêm yết tỷ giá
Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, tỷ giá hối đoái thường được
yết giá như sau:
USD/DEM = 1,4125/1,4175
USD/VND = 15.300/15.500
Trong công thức trên, đồng USD đứng trước gọi là đồng tiền yết giá và là một
đơn vị tiền tệ. VND đứng sau gọi là đồng tiền định giá và là một số đơn vị tiền tệ và
thường xuyên thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết giá.
Tỷ giá đứng trước 15.300 là tỷ giá mua đô la trả bằng VND của ngân hàng,
được gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng (BID RATE).

Tỷ giá đứng sau 15.500 là tỷ giá bán đô la thu bằng VND của ngân hàng, gọi
là tỷ giá bán ra của ngân hàng (ASK RATE). Tỷ giá ASK thường lớn hơn tỷ giá
BID. Chênh lệch giữa chúng gọi là SPREAD, còn được gọi là lợi nhuận (chưa nộp
thuế) của ngân hàng trong giao dịch mua bán ngoại hối.
Phương pháp yết giá ngoại tệ: Có hai phương pháp yết giá ngoại tệ là yết giá
trực tiếp và yết giá gián tiếp.
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc tế, trên thế giới hiện nay chỉ có hai
đồng tiền quốc gia: USD, GBP và hai tiền tệ quốc tế: SDR, EURO (trước đây là
ECU) là dùng cách yết giá trực tiếp (Certain quotation), các tiền tệ còn lại dùng cách
yết giá gián tiếp (incertain quotation):
Ví dụ: USD/DEM, GBP/FRF, SDR/FRF, SDR/FRF
Có nghĩa là giá của USD, GBP hay của SDR, EURO được thể hiện trực tiếp
ra bên ngoài, còn các tiền tệ khác như DEM, FRF, VND mới thể hiện gián tiếp ra
bên ngoài. Ví dụ: USD/VND = 15.000
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc gia, thì nước Anh và nước Mỹ dùng
cách yết giá gián tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối, còn các quốc gia khác lại dùng
cách yết giá trực tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối.
1.4 Phân loại tỷ giá:
1.4.1 Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối
Bao gồm tỷ giá chính thức, tỷ giá kinh doanh và tỷ giá chợ đen.
Tỷ giá chính thức: là loại tỷ giá do NHTW của mỗi nước công bố, tỷ giá này
được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của NHTW. Dựa vào tỷ giá này các
NHTM, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ
hạn, hoán đổi.
Tỷ giá kinh doanh: là tỷ giá dùng để kinh doanh mua bán ngoại tệ. tỷ giá này
do các NHTM hay các tổ chức tín dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này do NHTW
công bố xem xét đến các yếu tố liên quan đến kinh doanh như: quan hệ cung cầu
ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc
bán. Tỷ giá kinh doanh bao gồm tỷ giá mua và bán.
Tỷ giá chợ đen(tự do): tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường chính thức

1.4.2 Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán
Gồm tỷ giá giao nhận ngay, tỷ giá giao nhận có kỳ hạn, tỷ giá mở cửa, tỷ giá
đóng cửa.
Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được
thực hiện ngay ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Loại tỷ giá này do tổ chức tín dụng
yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong biểu
độ do NHNN quy định. Việc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng 2
ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam kết mua bán.
Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết giá
hoặc do 2 bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải
đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của NHNN tại thời điểm
ký hợp đồng, thường là giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực
hiện theo hợp đồng(1,3,6…tháng).
Tỷ giá mở cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
Tỷ giá đóng cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối cùng trong ngày.
1.4.3 Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá
Gồm tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực.
Tỷ giá danh nghĩa: là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa 2 đồng tiền mà
không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng.
Tỷ giá thực là tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi trong tương quan giá cả
của nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng tiền định giá.
1.4.4 Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối
Gồm tỷ giá điện hối và tỷ giá thư hối.
Tỷ giá điện hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. đây là tỷ giá cơ sở để
xác định các loại tỷ giá khác.
Tỷ giá thư hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
1.4.5 Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế
Tỷ giá được chia làm 5 loại: tỷ giá séc, tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay, tỷ giá
hối phiếu có kỳ hạn, tỷ giá chuyển khoản, tỷ giá tiền mặt.
Tỷ giá séc: là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.

Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả tiền
ngay bằng ngoại tệ.
Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn
bằng ngoại tệ.
Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển khoản
qua ngân hàng.
Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền mặt.
1.5. Các yếu tố cơ bản tác động đến tỷ giá
1.5.1 Sức mua của mỗi đồng tiền trong một cặp tiền tệ
Do tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại hối và nguyên tắc
một giá nên khi sức mua của đồng nội tệ tăng lên sẽ làm tỷ giá giảm xuống và ngược
lại.
1.5.2 Cán cân thanh toán quốc tế
Đây là yếu tố cực kì quan trọng trong những yếu tố kinh tế tác động đến tỷ
giá. Đánh giá chung có tính chất truyền thống đối với sự biến động của TG, các nhà
kinh tế đều cho rằng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ quốc gia là những
nhân tố cơ bản đứng sau lưng tăng giá TG.
Tình trạng của cán cân thanh toán tác động đến cung cầu về ngoại hối do vậy,
tác động trực tiếp đến TG.
1.5.3. Yếu tố tâm lý
Dựa vào sự phán đoán từ các sự kiện kinh tế, chính trị của một nước và tình
hình thế giới, cả chính trị và kin tế có liên quan các nhà kinh doanh ngoại hối bao
gồm các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp và kể cả người đầu cơ tùy theo sự
phán đoán đó mà hành động.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng một cách hết sức nhạy cảm đối với thị trường tài
chính, trong đó có thị trường hối đoái. Tuy nhiên những biến động này bao giờ cũng
mang tính chất ngắn hạn, xác lập một vị thế ngắn hạn.
1.5.4 Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương
Chế độ tỷ giá mà phần đông các nước vận hành là thả nổi có quản lý do đó vai
trò can thiệp của nhà nước giữ vị trí quan trọng. NHTW tự biến mình thành một bộ

phận của thị trường, quyện chặt với thị trường, lúc với tư cách người mua lúc khác là tư
cách người bán, nhằm tác động về phía cung hay cầu của quỹ ngoại hối thị trường
nhằm cho ra một tỷ giá phù hợp như ý đồ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều kiện
vật chất để có thể can thiệp là thực lực về tiềm năng quốc gia biểu hiện bằng quỹ ngoại
tệ bình ổn giá, bao gồm ngoại tệ dự trữ quốc gia.
1.5.5 Năng suất lao động
Nếu năng suất lao động trong nước có sự gia tăng sẽ làm cho mức giá tương
đối có xu hướng sụt giảm làm đồng ngoại tệ có xu hướng giảm hay đồng nội tệ lên
giá làm tỷ giá giảm xuống.
2. Chính sách tỷ giá
Khái niệm chính sách tỷ giá
Theo nghĩa rộng thì: “Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ
(mà đại diện thường là các NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định và hệ
thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ
giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc
gia”.
Với định nghĩa ở trên, ở hầu hết các quốc gia mục tiêu chính sách kinh tế nói
ở đây là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ, cân
bằng cán cân vãng lai.
Theo nghĩa hẹp thì: “Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ
thông qua cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm đạt được
một mức tỷ giá nhất định, để tỷ giá tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ của quốc gia”.
Công cụ chính sách tỷ giá:
Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định
hay gây ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu
đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng
thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn
cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can thiệp này của NHTW thì phải sử dụng

thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt
tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHTW tham
gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị
trường của NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược
lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có giá.
Tuy nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các
biến số kinh tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ
thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường
mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện
pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục
đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế
thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn
định.
Nhóm công cụ gián tiếp
Bao gồm các công cụ như lãi suất tái chiết khấu, thuế quan, hạn ngạch, giá
cả…Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối
đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều
của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn
quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong
nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và
làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn
vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn
ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để
thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại muốn tăng tỷ giá
sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Muốn giảm tỷ giá thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế quan cao, quy định
hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Và ngược

lại sẽ làm tăng tỷ giá.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ
lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với NHTW, quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn
đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ
ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
2.3 Chế độ tỷ giá và vai trò của NHTW
Tỷ giá là một công cụ của chính sách kinh tế nên tỷ giá chứa đựng nhiều yếu
tố chủ quan. Chính vì vậy, các quốc gia luôn xây dựng những quy tắc, cơ chế xác
định và điều tiết tỷ giá của riêng mình. Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều
tiết tỷ giá của một quốc gia tạo nên chế độ tỷ giá của quốc gia này.
Vì chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan nên chế độ tỷ giá của một quốc gia có thể
thay đổi từ thời gian này sang thời gian khác và chế độ giữa các quốc gia thường là
khác nhau. Tính chất đa dạng của chế độ tỷ giá phụ thuộc vào vai trò của chính phủ
và vai trò của thị trường trong việc hình thành tỷ giá. Tùy theo mức độ can thiệp của
chính phủ, có thể nêu ra 3 chế độ tỷ giá đặc trưng là: chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn,
chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, chế độ tỷ giá cố định.
2.3.1 Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn và vai trò NHTW
Đây là chế độ trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy luật
cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW.
Như vậy, sự biến động tỷ giá trong chế độ là không giới hạn và luôn phản ánh
những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. cũng theo đó,
NHTW chỉ tham gia vào thị trường ngoại hối như một thành viên bình thường, tức
là có thể mua hay bán một đồng tiền nhấ định để phục vụ cho mục đích hoạt động
của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá hay để cố định tỷ giá.
Tuy nhiên đây chỉ là chế độ tỷ giá mang tính lý thuyết nhiều hơn, vì điều dễ
thấy là không có chính phủ nào thờ ơ trước sự biến đổi bất thường của tỷ giá, ít
nhiều cũng sẽ can thiệp đến tỷ giá.
2.3.2 Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
Là chế độ trong đó NHTW tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngoại
hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.

Theo đó thì NHTW không cam kết duy trì cố định một mức tỷ giá nào nhưng
cam kết can thiệp để tỷ giá ngày hôm nay chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ %
nhất định so với ngày hôm trước. Chế độ này được coi là sự kết hợp giữa chế độ tỷ
giá cố định và chế độ thả nổi hoàn toàn. Trong chế độ này, NHTW tích cực và chủ
động can thiệp lên tỷ giá.
2.3.3 Chế độ tỷ giá cố định
Là chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố và cam kết can thiệp để duy trì tỷ
giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp nhất định. Tỷ giá được
NHTW cam kết cố định trong một biên độ hẹp (thường là 2-5%), không phụ thuộc
vào quan hệ cung cầu thị trường.
Trong chế độ tỷ giá này, NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ
trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá trung tâm và duy trì sự biến
động của nó trong một biên độ hẹp đã định trước, điều này đòi hỏi NHTW phải có
sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định.
Chương 2
CHẾ ĐỘ TỈ GIÁ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY
1. Chế độ tỷ giá Việt Nam những năm 1990
1.1 Giai đoạn 1989 - 1992
1.1.1 Diễn biến thả nổi tỷ giá
Diễn biến của tỷ giá hối đoái từ năm 1989 đến năm 1992 cho ta thấy rằng tỷ
giá giữa khu vực nhà nước và thị trường tự do là khá lớn và đồng thời đồng đô la
Mỹ tăng nhanh ở cả khu vực nhà nước và thị trường. Năm 1990, giá trị đồng đô la
Mỹ tăng từ 60% đến 80% so với đầu năm. Mức tăng giá USD trong năm 1991 còn
cao hơn nữa, tính đến cuối năm 1991, cụ thể là 4/12/1991, tỷ giá đô la Mỹ trên thị
trường tư nhân tại Hà Nội và TP HCM là 14.450 VND/USD.
Với tình trạng tăng giá của USD, đã xuất hiện tình trạng đầu cơ ngoại tệ nhằm
mục đích ăn chênh lệch giá, tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ
đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế, quản lý ngoại tệ của
chính phủ không đạt được như mong muốn. Như vậy, nhà nước không kiểm soát
được lưu thông ngoại tệ, tình trạng theo thang của giá đồng đô la đã kích thích tâm

lý dự trữ đồng đô la. Ngoại tệ vốn khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động
xuất nhập khẩu mà lại bị buôn bán giữa các tổ chức ở trong nước.
Trong năm 1991- 1992, việc sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô nên đã dẫn đến
sự sụp đổ quan hệ ngoại thương, nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng (năm
1991 là 357 triệu USD đến năm 1992 thì chỉ là 91.1 triệu USD). Các doanh nghiệp
nhập khẩu theo phương thức trả chậm và phải chịu một lãi suất cao do thiếu đô la, vì
vậy thời điểm này là thời điểm khan hiếm đô la nhất, điều đó dẫn đến các cơn sốt đô
la theo chu kì ở giai đoạn này.
Đến đầu năm 1992 chính phủ đã có những chính sách trong việc điều chỉnh tỷ
giá (như buộc các doanh nghiệp có đôla phải gửi ở ngân hàng, bãi bỏ hình thức quy
định tỷ giá theo từng nhóm hàng…) làm cho giá đô la bắt đầu giảm. Cụ thể, cuối
năm 1991 tỷ giá USD/VND là 14500 thì đến tháng 3/1992 là 11550 và đến cuối năm
vẫn tiếp tục giảm.
1.1.2 Nguyên nhân thả nổi tỷ giá
Giai đoạn 1989 – 1992, các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, quan hệ ngoại
thương trước đó với Đông Âu và Liên Xô (cũ) cũng bị gián đoạn, buộc chúng ta
phải chuyển sang giao dịch buôn bán với các nước thanh toán bằng đô la Mỹ.
Trong giai đoạn này, nền kinh tế chịu ảnh hưởng của tỷ giá thả nổi. Tỷ giá hối
đoái biến động theo xu hướng giá trị đồng đô la Mỹ tăng liên tục kèm theo đó là các
cơn sốt, các đột biến với biên độ rất lớn khiến cho ngân hàng Nhà nước không kiểm
soát được lưu thông tiền tệ.
1.2 Giai đoạn 1993-1996
1.2.1 Diễn biến tỷ giá
Trước những tồn tại của thả nổi mất kiểm soát tỷ giá, Ngân hàng nhà nước đã
có những thay đổi trong việc điều hành chính sách tỷ giá, cụ thể:
- Quy định biên độ dao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức do Ngân hàng
nhà nước công bố (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và biên độ dao động); tăng
cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế
có ngoại tệ phải bán ngoại tệ cho ngân hàng đặc biệt là các đơn vị kinh tế quốc
doanh.

- Bãi bỏ hoàn toàn hình thức tỷ giá quy định theo nhóm hàng trong thanh toán
ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại
thương. Thay vào đó là áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố.
Để hạn chế các yếu tố phi kinh tế, chính phủ đã tăng cường các yếu tố thông
tin, công khai hóa một cách nhanh chóng chính xác các chi tiết kinh tế quan trọng
như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá tiêu dùng, sự biến động của giá
vàng Nhờ vậy hạn chế được hiện tượng đầu cơ và giải quyết tâm lý hoang mang.
Mặt khác chính phủ cũng thể hiện quyết tâm trong việc cải cách nền kinh tế
nói chung và ngăn chặn sự bùng nổ về lạm phát bằng nhiều hình thức, tốc độ và mức
can thiệp khác nhau. Chính phủ cũng cho thấy sự tăng cường trong thực lực điều
hành chính sách tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ quỹ dự trữ ngoại hối và lập quĩ
ổn định. Những biện pháp trên đã góp phần nào vào việc ổn định tỷ giá và xóa đi
tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Tính đến cuối năm 1992 đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã mang
lại hiệu quả, nạn đầu cơ về ngoại tệ về cơ bản được xóa bỏ, ngoại tệ đã được dùng
để hướng vào xuất nhập khẩu thay vì đầu cơ như trước đây. Tình hình cung cầu đã
được cải thiện, USD có xu hướng giảm. Mức tỷ giá giao động trên thị trường chợ
đen chỉ giao đọng trong khoảng từ 10.200 đến 10.400, có lúc còn giảm xuống tới
9.750. Sự chênh lệch không đáng kể giữa tỷ giá trên thị trường chợ đen và thị trường
chính thức chứng tỏ mặc dù có sự can thiệp của chính phủ nhưng vẫn phù hợp với
quy luật cung cầu trên thị trường.
Thị trường Việt Nam năm 1993 đến 1996, tình hình giá cả USD trên thị
trường tiền tệ quốc tế thường xuyên có sự biến động mạnh so với hàng loạt các đồng
tiền chủ chốt khác như Yên Nhật, Mác Đức, Nhân dân tệ của Trung Quốc, trong khi
đó trên thị trường tiền tệ VN đồng, USD vẫn giữ tỷ giá ổn định.
Điều này cho thấy các biện pháp can thiệp của chính phủ mà đặc biệt là Ngân
hàng nhà nước thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ trong bối cảnh thị
trường tiền tệ quốc tế đầy biến động mà nền kinh tế Việt Nam lại được giữ ổn định
và tăng trưởng cao, điều này đã thể hiện tính hợp lý về cơ bản của các tỷ số kinh tế
vĩ mô và tất yếu là có biến số tỷ giá hối đoái.

Tuy nhiên, khi đánh giá về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và ngoại thương
của Việt Nam từ năm 1992 đến năm 1997 thì đây là giai đoạn tăng giá của đồng Việt
Nam. Các kết luận đều cho rằng: chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng
thâm hụt lớn trong thương mại của Việt Nam. Ví dụ: nếu ước tính một cách tương
đối và lấy năm gốc là năm 1992 thì đầu năm 1997, chỉ số giá tiêu dùng của Việt
Nam đã tăng 36.8%, trong khi ở Mỹ là 16.5% thì theo thuyết ngang giá sức mua,
nếu tỷ giá chính thức vào đầu năm 1993 là 1USD=10.300VND, thì tỷ giá đầu năm
1997 là 1USD=10.300*(1+16,5%)=12.095VND. Trong khi đó tỷ giá chính thức trên
thị trường Việt Nam là 1USD=11.000VND. Số liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá
trị tuyệt đối bằng tiền tệ thì thâm hụt trong cán cân thương mại Việt Nam đã có sự
tăng lên liên tục qua các năm (1993 là 547, 1994 là 1170, 1995 là 2345, 1996 là
3150 triệu đô la Mỹ). Nếu so sánh mức thâm hụt này với kim ngạch xuất khẩu thì
con số cũng có chiều hướng tăng lên (năm 1993 là 8,4%, 1994 là 12,8%, 1995 là
18,4%, 1996 là 17,7%).
Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam đặc biệt
nghiêm trọng trong 3 năm 1994, 1995, 1996 có thể nói là do việc phá giá mạnh đồng
nhân dân tệ vào đầu năm 1994. Số liệu thực tế cho thấy sau khi phá giá thì kim
ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên rất nhanh. Năm 1992, kim ngạch nhập
khẩu từ Trung Quốc là 31,8% chiếm 1,3% tổng kim ngạch nhập khẩu thì trong
những năm sau 1993, 1994, 1995 thì con số này là 144,2% chiếm 2,7%. Thực tế đó
cũng chỉ ra rằng chính sách điều hành tỷ giá và chính sách ngoại thương của Việt
Nam có phần thụ động.
Sự phá giá đồng nhân dân tệ vào cuối năm 1993 không có sự tác động trực
tiếp vào ngoại thương và nền kinh tế nói chung, nhưng có thể thấy rằng trong suốt
những năm từ 1993 đến 1995 chính phủ Việt Nam không có biện pháp điều chỉnh tỷ
giá nào để đối phó hay phản ánh tình hình đó. Tuy nhiên trong giai đoạn này tỷ giá
được duy trì ổn định đã tạo được tâm lý ổn định cho thị trường và thu hút được một
lượng kiều hối và đầu tư khá lớn vào Việt Nam. Mặt khác việc duy trì lãi suất thực
dương của VND cao đã khuyến khích các cá nhân bán ngoại tệ để gửi VND. Cả 2
yếu tố trên đã đồng thời ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định giá trị VND và tăng

lượng dự trữ ngoại tệ. Trong giai đoạn đầu khi mới bắt đầu điều hành chính sách tỷ
giá theo cơ chế thị trường, việc can thiệp của Ngân hàng nhà nước là rất chặt chẽ,
tuy nhiên thời gian tiếp theo khi lượng ngoại tệ vào Việt Nam khá lớn, quan hệ cung
cầu không còn khoảng cách quá lớn thì NHNN đã từng bước giảm sự can thiệp và
để cho tỷ giá hình thành một cách khách quan hơn.
1.2.2 Nguyên nhân biến động tỷ giá
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả của sự can thiệp của ngân hàng Nhà
nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/ USD dần dần ổn định khiến cho lượng
ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải tỏa khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào
kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời có một lượng ngoại tệ từ nước ngoài chuyển
về cho người thân tăng lên từ 300 đến 400 USD khiến cho cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ và kéo theo đó là tỷ giá giảm mạnh.
Bên cạnh đó việc quản lý các điểm thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh
lệch tỷ giá ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến các đại lý lợi dụng
danh nghĩa nhà nước nhằm buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu được lượng
ngoại tệ qua nguồn này. Một mặt Việt Nam không kiểm soát được các ngoại tệ khác
lưu hành trong nước, làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen, tâm lý đầu
cơ, găm giữ các ngoại tệ mạnh. Ngân hàng quy định cứng nhắc sự chênh lệch giữa
tỷ giá bán và tỷ giá mua khiến cho tỷ giá chính thức thoát ly hoàn toàn ra khỏi quan
hệ cung cầu, điều đó khiến cho nhiều ngân hàng không hoạt động theo đúng cơ chế
của nó và có không ít ngân hàng đã phá rào.
Trong giai đoạn này xảy ra sự khủng hoảng kinh tế châu Á, và Việt Nam cũng
ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Trong cuộc khủng hoảng tỷ giá
thường xuyên biến đổi phức tạp nhưng xu hướng chung là USD lên giá mạnh, điều
đó làm cho người dân có xu hướng dịch chuyển sang nắm giữ USD, giá vàng trong
nước và trên thị trường thế giới có sự chênh lệch lớn do đó dẫn đến tình trạng vơ vét
ngoại tệ để mua vàng.
1.3 Giai đoạn 7/1997 – 26/2/1999
1.3.1 Diễn biến tỷ giá
So với giai đoạn trước đây, tỷ giá thời kỳ này có diễn biến phức tạp với xu

hướng USD lên giá mạnh.
Đây là giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông
Nam Á, điểm xuất phát là Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và tầm ảnh
hưởng rộng khắp trên phạm vi thế giới. Việt Nam cũng không tránh khỏi những ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng. Xét trên góc độ vĩ mô, nền kinh tế Việt Nam phải đối
đầu với những cơn sốc rộng khắp trong các lĩnh vực như: tài chính – ngân hàng;
ngoại thương; đầu tư; thu chi ngân sách nhà nước; tăng trưởng kinh tế, dự trữ quốc
gia và nợ nước ngoài. Mặt khác, những hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái thời
kỳ từ năm 1993-1997 đã trở nên trầm trọng khi cuộc khủng hoảng xảy ra và đặt Việt
Nam trước những vấn đề nan giải cấp bách trong việc lựa chọn, đều chỉnh chính
sách tỷ giá hối đoái. Cuộc khủng hoảng đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước
trong khu vực như: đồng Won (Hàn Quốc), đồng Baht (Thái Lan), đồng Rupiah
(Inđonexia), đồng Ringit (Malaysia), Peso (Philipin) giảm giá mạnh so với đồng
USD, mốc xuất phát bắt đầu từ năm 1996 trở đi tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền
trên và đồng đôla Mỹ biến động rất mạnh – tăng đột biến. Điều đó cũng có nghĩa là
đã đẩy giá trị của đồng Việt Nam đang bị đánh giá cao hơn thực tế so với các đồng
tiền của các nước trong khu vực.
Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng 7.1997 chỉ có một lần duy
nhất điều chỉnh biên độ giao dịch từ 0,1% lên 0,5% vào ngày 27.02.1997, thì từ
tháng 7.1997 đến đầu năm 1999 có nhiều lần thay đổi với các mốc chỉnh:
Những lần điều chỉnh tỷ giá và biên độ giao dịch:
Mốc thời gian Tỷ giá cũ
(USD/VNĐ)
Tỷ giá mới
(sau điều chỉnh)
(USD/VNĐ)
Biên độ giao dịch mới
(sau điều chỉnh)
13.10.1997
16.02.1998

7.08.1998
6.11.1998
14.11.1998
16.11.1998
11.175
11.800
12.998
12.992
12.991
12.989
+10%
+7%
26.11.1998
15.01.1999
12.987
12.980
(Nguồn:N
HNH Việt Nam)
Nhìn chung, sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái của Ngân hàng nhà nước sau khi
cuộc khủng hoảng nổ ra là đúng hướng và hợp lý. Nhưng có thể đây chỉ là những
biện pháp cấp bách mang tính chất đối phó để giải quyết những vấn đề bức xúc
trước mắt về tỷ giá hối đoái để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho một chiến lược
lâu dài, ổn định đối với vấn đề tỷ giá hối đoái.
1.3.2 Nguyên nhân biến động tỷ giá
Việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên độ
trong giai đoạn này có nhiều lý do, nhưng gạt bỏ những lý do khác và chỉ đứng trên
góc độ lựa chọn chế độ tỷ giá thì có thể thấy: nếu phân loại chế độ tỷ giá gồm 3 chế
độ chính là chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ giá thả nổi thuần tuý và nằm giữa hai
thái cực này gọi chung là chế độ tỷ giá biên thả nổi hay thả nổi có quản lý, thì việc
có nhiều những điều chỉnh trong tỷ giá chính thức cùng biên độ tuy không làm thay

đổi về cơ bản chế độ tỷ giá nhưng điều này đồng nghĩa với việc đưa chế độ tỷ giá
biên thả nổi tới gần cực thả nổi hơn so với giai đoạn từ cuối năm 1992 đến đầu năm
1997. Hướng điều chỉnh này về cơ bản là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về lựa
chọn chế độ tỷ giá: “một chế độ tỷ giá thả nổi sẽ góp phần hạn chế những cơn sốc có
thể xảy đến cho nền kinh tế mà nguồn gốc của cơn sốc là xuất phát từ thị trường thế
giới (Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á)”. Tính hợp lý này có thể được nhận thấy
khi cùng với những giải pháp kinh tế vĩ mô khác để đem đến những thành quả cho
nền kinh tế như: theo đánh giá của WB đăng tải trên Country Brief: The World Bank
and Vietnam thì dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á, tốc
độ tăng trưởng GDP của VN chỉ có thể từ 3,5-4,5% trong năm 1998, đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể giảm tới 60%; tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt 4%. Nhưng trong
thực tế tốc độ tăng trưởng GDP đã đạt 5,8%; đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ giảm
17,5% so với năm 1997 và thâm hụt trong cán cân thương mại không có sự gia tăng
mạnh. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã kiềm giữ được lạm phát dưới 10% (lạm phát
9.2% năm 1998).
2. Chế độ tỷ giá Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng và suy thoái kinh
tế toàn cầu
2.1 Tình hình thị trường ngoại tệ và diễn biến tỉ giá đô la Mỹ
2.1.1 Biến động tỉ giá năm 2008
3.1.1. Những biến động tỉ giá năm 2008
Năm 2008 được coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những biến động tỷ giá rất phức
tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ
trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong
lịch sử.
Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 - Nguồn: BIDV
a. Giai đoạn đầu (từ 01/01-25/03/2008): Tỷ giá liên tục giảm, dưới mức sàn
* Diễn biến tỷ giá:
Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112
đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD
dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD

* Nguyên nhân:
+Thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển
về nước khá lớn.
+Các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi
suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND.
Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ
Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh
doanh…Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.
+ Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế
lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng
12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm
hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên
1%/năm trong ngày 10/03/2008.
b. Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07/2008): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt
USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
* Diễn biến tỷ giá:
Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6,
đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức
trần, còn trên TTTD cao hơn khoảng 100-150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ
từ 1% lên +/-2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi
* Nguyên nhân:
+ Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của
doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của
giưois đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến
hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế.
+ Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán trái phiếu CP khi lo ngại
về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu
mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
+ Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh
nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết

khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng
doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
c. Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10/2008): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
* Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình
ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11.
* Nguyên nhân
+ Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng. Nhận
thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công
khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho
rằng USD đang trở nên khan hiếm.
+ NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như
kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do
không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên
độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường
thông qua các NHTM lớn.
d. Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): Tỷ giá USD tăng trở lại.
* Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998
sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ
vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới
mức 17.440 đồng/USD.
* Nguyên nhân
+ Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh
việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu
USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo
thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài
cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).
+ Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập
vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là

đồng tiền thanh toán chính).
+ NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt
hàng thiết yếu.
2.1.2 Biến động tỉ giá năm 2009 và nửa đầu năm 2010
3.1.2. Những biến động tỉ giá năm 2009 và nửa đầu 2010
3.1.2.1. Giai đoạn năm 2009
Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi
NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có
đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD. Trong bối cảnh
nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến
cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do sự nắm giữ ngoại tệ.
Diễn biến tỷ giá VNĐ/USD năm 2008-2009
a. Giai đoạn 1 (từ 01/01 –24/11/2009): Tỷ giá liên tục tăng
* Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.Cụ thể:
-Từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá LNH dao động trong khoảng 17.450 - 17.700
đồng/USD, cách giá trần khoảng từ 0 – 200đồng,còn TTTD cao hơn tỷ giá LNH khoảng
100 đồng
-Từ tháng 4 đến tháng 9 :tỷ giá trên 2 thị trường dao động trong khoảng 18.180 -
18.500 đồng/USD.
-Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 –
19.300đồng/USD, có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên TTTD và 19.750 đồng/USD trên
thị trường liên ngân hàng.
* Nguyên nhân
+ Hiện tượng nắm giữ ngoại tệ chờ giá lên của người dân
+ Có hiện tượng DN vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để
giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của DN khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài
ra, do tâm lý bất ổn của cả DN và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm
giữ ngoại tệ.
+ Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, do lãi suất

vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ
nên một số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền
đồng. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu.
+ Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các
tháng cuối năm 2008, yếu tố tin đồn ,…
b. Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009)
* Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá bắt đầu giảm về quanh mức 18.500 đồng /USD
* Nguyên nhân
Nguyên nhân là do NHNN thực hiện các biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt có sự
chung góp sức của các NHTM đã làm giảm tỷ giá sau 1 giai đoạn đầy biến động.
3.1.2.2. Giai đoạn đầu năm 2010
a. Giai đoạn tháng 1-giữa tháng 2/2010
* Diễn biến tỷ giá
Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1.2010 lại
giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010.
* Nguyên nhân :
- Nguồn cung USD có thể sẽ tăng khá từ các nguồn: Từ nước ngoài, lượng USD vào
nước ta sẽ tăng khá so với năm trước, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp (thực hiện tháng 1
tăng 33,3%);
- Vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết, ký kết đạt mức kỷ lục;
Vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng
khoán;
- Nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn
thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%); Kim ngạch xuất
khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương…Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng
công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo
sợ rủi ro tỷ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường
chính thức đã giảm đáng kể.
- Từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp “vượt

trước ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ giá liên
ngân hàng đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%; Yêu cầu các
tập đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng; Bán ngoại tệ
cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%; Hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi USD…
b. Giai đoạn từ giữa tháng 2/2010:
* Diễn biến tỷ giá:
Tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000 đồng/USD (18.900-19.100 đồng /USD)
và đang có xu hướng giảm do nhưng chính sách tích cực từ phía NHNN.
Ngày 11/02 Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng
từ mức 17.941 VNĐ/USD lên mức 18.544 VNĐ/USD.
* Nguyên nhân:
- Ngày 30/12/2009, với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
chính thức ban hành thông tư hướng dẫn việc các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước
bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng. Việc bán lại được thực hiện khá nhanh sau đó và tạo
một nguồn cung đáng kể, hỗ trợ các ngân hàng cải thiện trạng thái ngoại tệ vốn căng thẳng
trước đó.
- Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm
mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2%
đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng)
cho các ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường.
- Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, quy định
mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm.
Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức
kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy
định này được bình luận là đặt các tổ chức đó vào thế “tự xử”, phải tính toán lợi ích và
xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính
sách này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn
ngoại tệ tiềm năng này.

- Chênh lệch lãi suất vay vốn bằng VND và USD lớn khiến các doanh nghiệp cân
nhắc và dịch chuyển sang vay USD. Lãi suất vay VND tăng cao đầu năm 2010, lên từ 15%
- 17%, thậm chí 18%/năm…, trong khi lãi suất vay USD chỉ khoảng 6% - 9%/năm. Chênh
lệch này khiến một bộ phận doanh nghiệp chọn “đường vòng” vay USD rồi bán lại lấy vốn
VND, tăng cung ngoại tệ cho thị trường. Ngoài chênh lệch lãi suất lớn, lựa chọn này được
hỗ trợ bởi kỳ vọng tỷ giá USD/VND sẽ ổn định, hoặc rủi ro biến động không quá lớn trong
kỳ vay vốn. Thực tế, tỷ giá USD/VND gần như cố định kể từ tháng 2 đến nay.
- Ngày 15/12/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 25/2009/TT-NHNN
mở rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt là các đối tượng xuất khẩu.
2.2 Phản ứng chính sách của Việt Nam
2.2.1 Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam
Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2010
Thời gian Mục tiêu của chính
sách
Phân loại chế độ tỉ giá của
IMF
Năm 2008
6 tháng đầu
năm
6 tháng cuối
năm
Kiểm soát lạm phát
Ngăn chặn suy
giảm kinh tế
Chế dộ tỉ giá cố định thông
thường,biên độ giao dịch ± 1%
Chế độ tỉ giá cố định thông
thường, biên độ giao dịch ± 2%
sau đó nâng lên ± 3%
Năm 2009 và

2010
Ngăn chặn suy
giảm kinh tế và kiềm chế
lạm phát
Chế độ tỷ giá cố định
thông thường với biên độ dao động
±5%, sau đó giảm xuống ±3 %
2.2.2 Phân tích một số phản ứng chính sách của Việt Nam
Diễn biến, tác động dây chuyền và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa
Kì hầu như đã vượt qua tất cả mọi dự báo ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy
giảm kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó,
Việt Nam đã có những điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ
cũng như các ngoại tệ khác.Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá giữa tỷ giá chính thức và
tỷ giá thị trường đã được thực hiện. Đặc biệt là lần đầu tiên điều chỉnh tỷ giá theo hướng
giảm nhẹ giá trị của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ vào năm 2010 trong điều kiện thị
trường có chiều hướng ổn định với 1 USD= 19.100 VNĐ để tỉ giá chính thức sát hơn với tỉ
giá thị trường 1USD= 19.420 VND .Việc điều chỉnh này đã triệt tiêu dần khoảng cách
giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá được hình thành tự do trên thị trường để hạn chế những biến
động của tỉ giá hoặc nạn đầu cơ dựa vào tỉ giá
Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả to
lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới, cùng
những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục tiêu từ
kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm.
Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững.
3. Chế độ và chính sách tỷ giá Việt Nam hiện nay
3.1 Chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2011 đến nay
1. Giai đoạn từ 2011 đến nay:
Giai đoạn từ 2011 đến 2012: so với tháng 12 năm trước sau khi tăng giá khá cao trong
thời kỳ 2008-2010, tỷ giá hối đoái đã tăng chậm lại vào năm 2011 (tăng 2.24%), giảm

vào năm 2012 (giảm 0.96%) va tiếp tục tăng thấp trong tháng 11 năm 2013 mặc dù giá
vàng trong nước vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới.
1.1 Năm 2011:
Năm 2011 đánh dấu tỷ giá đã chuyển biến từ biến động mạnh sang cơ bản ổn định
trong thời gian tương đối dài. Tuy nhiên tỷ giá vẫn đang đứng trước một số yếu tố có
thể dẫn tới rủi ro.
Trong năm 2011 căn cứ vào tính chất biến động của tỷ giá hối đoái VND/USD, chúng
ta có thể chia ra các giai đoạn như sau:
1.1.1 Quý 1 năm 2011: Tỷ giá hối đoái VND/USD tăng mạnh và liên tục do chính sách
điều chỉnh của nhà nước
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ tháng 01/2011 đến tháng 3/2011
Nguồn: NHNN Việt Nam
Cuối năm 2010, cầu về ngoại tệ tăng lên nhanh chóng do nhiều nguyên nhân. Mặc dù
NHNN đã phải thực hiện một loạt các biện pháp hành chính như tuyên bố tăng cung ngoại
tệ cho việc nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất, thắt chặt việc trao đổi cũng
như nhận gửi và cho vay bằng vàng, và tăng hạn ngạch nhập khẩu vàng để làm dịu tình
hình căng thẳng trên thị trường vàng. Đồng thời, lãi suất cơ bản cũng được tăng lên 9
%/năm vào tháng 11.
Tuy nhiên, tỷ giá thị trường tự do chỉ giảm nhẹ đôi chút và vào cuối năm 2010 và đầu
năm 2011 vẫn đứng ở mức cao.
Nguyên nhân:
Thứ nhất, hầu hết các biện pháp của NHNN, nhất là đối với thị trường vàng chỉ mang
tính tạm thời.
Thứ hai, dự trữ ngoại hối đã liên tục giảm sút từ năm 2009 và do đó tuyên bố của
NHNN về việc cung ngoại tệ ra thị trường không được hoàn toàn đảm bảo.
Thứ ba, lạm phát tăng cao và vẫn tiếp tục đà tăng.
Thứ tư, thâm hụt thương mại năm 2010 vẫn cao ở mức 12,4 tỷ đô la (đã loại trừ 2,8 tỷ
nhập khẩu ròng vàng). Tình trạng này còn trầm trọng hơn do các hoạt động đầu cơ.
Từ ngày 11/2/2011 thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ
đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 thì NHNN cũng đã

có quyết định điều chỉnh tỷ giá chính thức. Không thể tiếp tục duy trì tỷ giá, NHNN đã
tuyên bố mức phá giá cao nhất trong lịch sử vào đầu tháng 2 năm 2011, nâng tỷ giá chính
thức từ 18.932 VND/USD lên 20.693 VND/USD. Đây là mức điều chỉnh lớn và gây sốc
nhất trong suốt hơn một năm qua, với giá USD trong giao dịch liên ngân hàng đã tăng hơn
9,3 % so với mức tăng 2,1% trong đợt điều chỉnh tỷ giá ngày 18/8/2010, và tăng 3,36%
ngày 11/2/2010. Như vậy, trong vòng đúng 1 năm qua, NHNN đã chính thức 3 lần điều
chỉnh tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng với mức tăng tổng cộng 14,46%, tức xấp
xỉ mức lạm phát tháng 2/2011 so với tháng 2/2010 (Tổng cục Thống kê cho biết, CPI
tháng 1/2011 của cả nước đã tăng tới 1,74% so với tháng 12/2010 và tăng 12,17% so với
cùng kỳ năm 2010).
Tiếp tục xu hướng thu hẹp biên độ giao dịch qua 3 lần điều chỉnh tỷ giá trong vòng 1
năm qua, theo đó, biên độ giao dịch đã liên tục thu hẹp dần từ +/- 5%, rồi giảm tiếp và giữ
nguyên ở mức +/- 3%, và lần này xuống gần như mức tối thiểu, chỉ còn +/- 1%. Nỗ lực
này đã không có kết quả ngay lập tức. Tỷ giá thị trường tự do vọt lên trên 22.100
VND/USD trong vòng vài ngày kể từ sau lần phá giá này.
Vào tháng 3 năm 2011, NHNN đã siết chặt các hoạt động trên thị trường tự do, áp đặt
trần lãi suất thấp cho tiền gửi bằng ngoại tệ và do đó mở rộng chênh lệch giữa lãi suất tiền
gửi ngoại tệ và lãi suất VND lúc đó đã lên kịch trần 14%. Do vậy, cung ngoại tệ đã tăng
lên khi các doanh nghiệp và cá nhân chuyển đổi tiền gửi bằng ngoại tệ sang tiền gửi bằng
VND để tận dụng chênh lệch lãi suất cao. Đồng thời, NHNN cũng tuyên bố là đã mua
thêm được 3 tỷ cho dự trữ ngoại hối. Nhờ đó, cả tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá NHTM
đều giảm xuống từ tháng 4 năm 2011.
Nguyên nhân:
Trong thời gian đầu, sự điều chỉnh tỷ giá này có thể ít nhiều làm tăng giá USD trên thị
trường tự do (thực tế, giá USD trên TTTD cả nước giao động nhẹ ở mức 21.450 - 21.550
đồng mỗi USD); cũng như làm tăng giá của hàng hoá và nguyên liệu nhập khẩu, do đó làm
tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, cũng như làm giảm lượng
hàng nhập khẩu, từ đó có thể làm gia tăng áp lực lạm phát cung-cầu và chi phí đẩy; đồng
thời, có thể tạo ra cái gọi là rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh và tín dụng của những
doanh nghiệp vay VND lãi suất cao và phải nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào sản xuất

1.1.2 Từ tháng 4/2011 đến tháng 7/2011: Tỷ giá ổn định nhưng có xu hướng giảm và
xoay quanh mức tỷ giá chính thức
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ tháng 4/2011 đến tháng 7/2011
Nguồn: NHNN Việt Nam
Sau căng thẳng tỷ giá trong 2 thảng đầu năm 2011, áp lực tỷ giá dần bớt căng thẳng và
bước vào tháng 7 năm 2011 đã giảm hẳn. Tỷ giá TTTD sau khi lập đỉnh 22.500 VND/USD
vào ngày 21/2 đã liên tục giảm và xoay quanh tỷ giá chính thức với mức chênh lệch rất nhỏ
± 5%. Thậm chí, nhiều thời điểm, tỷ giá TTTD thấp hơn thị trường chính thức.
Đầu tháng 4/2011, tỷ giá bắt đầu có dấu hiệu bình ổn. Sự kiện này bắt nguồn từ những
giải pháp, yếu tố tạo cung áp và siết trần lãi suất huy động USD, tín dụng ngoại tệ tăng cao
tạo một nguồn cung thương mại từ vốn chuyển đổi cho thị trường; sự chuyển đổi vốn
ngoại tệ sang VND cũng có ở các ngân hàng thương mại khi chênh lệch lãi suất cho vay
quá hấp dẫn với khoảng 300% càng tạo cung cho thị trường mà điển hình là sự hy hữu
có trong hoạt động của các ngân hàng thương mại: chào mời doanh nghiệp mua ngoại tệ.
Thực tế, cung thuận lợi đã tạo một sự đứt gãy rõ rệt trên đường hiển thị biến động tỷ
giá, quãng từ 19/4 - 28/4/2011. Giá USD liên tục lao dốc chóng mặt, từ 20.940 VND rơi
xuống còn 20.590 VND. Để rồi ngày 29-4 trở thành mốc sự kiện quan trọng khi Sở Giao
dịch Ngân hàng Nhà nước bất ngờ tăng mạnh giá mua vào USD. Điểm đánh dấu quan
trọng cho sự ổn định của tỷ giá giai đoạn sau này của năm 2011.
Từ 29-4 và nối dài sau đó, Ngân hàng Nhà nước liên tục mua vào. Trạng thái dự trữ
ngoại tệ có sự cải thiện mạnh và nhanh chóng.
Kể từ trung tuần tháng 7, tỷ giá bình quân LNH luôn được duy trì ở mức 20.608
VND/USD, thấp nhất trong vòng 4 tháng trước đó, tương đương với mức giảm hơn 80
đồng/USD, hay xấp xỉ 0,5% so với khi mới điều chỉnh tỷ giá (11/2/2011). Đồng thời, tỷ
giá USD giao dịch tại các NHTM cũng có những diễn biến tích cực khi trong tháng
5/2011, lần đầu tiên trong 37 tháng liên tiếp, USD được giao dịch dưới tỷ giá tham chiếu
chính thức.
1.1.3 Từ tháng 8 đến hết năm 2011: Tỉ giá tăng nhẹ và liên tục
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ tháng 4/2011 đến tháng 7/2011
Nguồn: NHNN Việt Nam

Bước sang tháng 8, ngày 10/8 /2011, NHNN đã có động thái điều chỉnh tỷ giá bình
quân LNH tăng 10 VND/USD, lên mức 20.618 VND/USD. Các NHTM cũng niêm yết tỷ
giá kịch trần biên độ. Báo cáo của NHNN về hoạt động ngân hàng trong tuần từ 13 - 19/8
cho biết, tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại hối những ngày đầu tuần có xu hướng tăng
nhẹ. Tỷ giá niêm yết mua, bán VND/USD của các NHTM ở mức sát trần được phép
20.814 - 20.824 đồng/USD.
Đến sáng 24/8, lần thứ hai trong tháng này, NHNN lại tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình
quân LNH lên 20.628 đồng/USD. Ngay lập tức, các NHTM cũng đẩy giá bán USD lên
kịch trần (20.834 VND/USD). Với tỷ giá niêm yết tại Vietcombank ở mức 20.830/20.834
VND/USD. Trên TTTD, giá mua - bán USD cũng được đẩy lên mức khá cao 21.000-
21.020 VND/USD.
Ngày 5/10/2011 NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ
LNH là 1 USD = 20.638 VND. Theo đó, tỷ giá bình quân LNH đã tăng thêm 10 VND. Và
đây cũng là lần thứ 3 tỷ giá này tăng ở mức như vậy kể từ cuối tháng 7/2011 trở lại đây, từ
20.608 VND lên 20.638 VND. Bám sát điều chỉnh trên, với biên độ +/-1%, các NHTM
cũng đồng loạt nâng giá USD bán ra sát trần, khoảng cách giữa giá mua vào với bán ra vẫn
tiếp tục ở mức rất hẹp.
Ngày 28/10, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ LNH
là 1 USD = 20.803 VND. Theo đó tỷ giá này tiếp tục tăng thêm 15 VND và là lần tăng thứ
14 liên tiếp trong 10 tháng này. Qua 14 lần điều chỉnh trên, tỷ giá bình quân LNH giữa
VND với USD đã tăng tới 0,85% so với thời điểm NHNN đưa ra cam kết nếu điều chỉnh
(tính từ ngày 7/9/2011) đến cuối năm không quá 1%. Theo đó, với những bước tăng dồn
dập vừa qua có khả năng điều chỉnh tăng tỷ giá chỉ còn 0,15%.
Nguyên nhân: Thực tế, tỷ giá tăng có nguyên nhân chủ yếu là do thời gian qua, giá
vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng thế giới, có thời điểm chênh lệch tới 2 triệu
đồng/lượng. Tranh thủ cơ hội này, giới đầu cơ gom USD trên TTTD để nhập lậu vàng.
Bản thân các DN cũng đôn đáo gom USD để nhập vàng sau khi NHNN cho phép nhập
khẩu 5 tấn vàng để bình ổn giá vàng trong nước.
Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân khác, đó là một số DN bắt đầu mua ngoại tệ
trả trước các khoản vay bởi họ lo ngại rằng, tỷ giá có thể biến động vào cuối năm khi đa số

công ty bắt đầu phải hoàn trả các khoản vay ngoại tệ từ đầu năm.
NHNN quyết định hạ giá đồng Việt Nam là nhằm giảm áp lực các khoản nợ USD đến
kỳ trả nợ, thường rơi vào dịp cuối năm. Vì thông thường khi các doanh nghiệp vay USD từ
các ngân hàng để trả tiền nhập khẩu hoặc thanh toán các khoản mua hàng trả chậm từ bên
người bán nước ngoài, cuối năm là thời điểm đáo hạn.
Tỷ giá tại Việt Nam có nhiều sức ép do lạm phát cao hơn nhiều các nước đối tác
thương mại, nên đồng tiền mất giá nhanh hơn; thâm hụt thương mại còn lớn, tạo áp lực đến
thị trường ngoại hối, vì thế dẫn đến tình trạng mất cân bằng cung cầu ngoại tệ.
Vào thời điểm này, do chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho vay VND từ 19 - 25% so
với 6 - 8% của ngoại tệ, nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang vay USD. Ngân hàng được lợi
vì chênh lệch huy động và cho vay USD rất lớn nên đã tích cực cho vay ngoại tệ vượt 140
- 150% lượng huy động được. Hệ quả sẽ rất lớn khi các doanh nghiệp sẽ phải thanh toán số
tiền này về cuối năm.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Còn diễn biến trên thị trường thế giới, đồng USD sau một thời gian dài giảm giá
mạnh đã có sự phục hồi trở lại từ giữa tháng sáu. Trong các báo cáo, mặc dù FED đánh giá
kinh tế Mỹ sẽ phục hồi chậm lại với tăng trưởng GDP khoảng 2,7%, nhưng vẫn cao hơn

×