Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VÀ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 45 trang )

A. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VÀ THỰC TRẠNG
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH PHÁI SINH :
1. Công cụ tài chính phái sinh :
a. Khái niệm :
Công cụ tài chính phái sinh là một công cụ mà giá trị của nó bắt nguồn từ giá trị của
các tài sản cơ sở. Chẳng hạn, phái sinh hàng hóa thì cà phê, đường, cao su, hay sắt thép,
vàng bạc, kim loại quý… là tài sản cơ sở tạo lập nên các phái sinh này; hoặc phái sinh
chứng khoán thì cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ là những tài sản cơ sở cho
các phái sinh, còn phái sinh tiền tệ thì tỷ giá, lãi suất, ngoại hối… là tài sản cơ sở.
b. Đặc điểm của công cụ tài chính phái sinh :
Thứ nhất, các công cụ tài chính phái sinh có giá trị thay đổi theo sự thay đổi giá trị
của các tài sản cơ sở (lãi suất, giá công cụ tài chính, giá hàng hóa, tỷ giá hối đoái, chỉ số
giá, xếp hạng tín dụng hoặc chỉ số tín dụng …). Sự thay đổi của các tài sản cơ sở chính là
điều kiện hình thành các công cụ tài chính phái sinh.
Do đặc điểm này mà việc định giá các công cụ phái sinh rất khác biệt so với các
công cụ tài chính khác. Chẳng hạn như để định giá một cổ phiếu phổ thông của một
doanh nghiệp, ta cần ước tính được các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai, cổ tức dự kiến
hàng năm, giá bán cổ phiếu dự kiến hay tốc độ tăng trưởng của công ty… Nhưng để định
giá một công cụ phái sinh, giả sử như định giá một quyền chọn bán 1.000 tấn gạo tại thời
điểm 02/06/2010, ngày đáo hạn là 19/01/2012, ta cần xét đến những biến động về giá trị
thị trường của tài sản, giá thực hiện của quyền chọn bán, lãi suất phi rủi ro, mức độ biến
động tỷ suất lợi nhuận của tài sản,… Như vậy, giá trị các công cụ tài chính phái sinh phụ
thuộc rất nhiều vào sự thay đổi giá trị của tài sản cơ sở.
Thứ hai, công cụ tài chính phái sinh không yêu cầu bất cứ một khoản đầu tư thuần
ban đầu nào hoặc chỉ yêu cầu một khoản đầu tư thuần ban đầu thấp hơn so với các loại
hợp đồng khác có các phản ứng tương tự đối với sự thay đổi của các yếu tố thị trường.
Điều này có nghĩa là một nhà đầu tư có thể không cần bỏ ra bất kỳ một khoản tiền nào
(chẳng hạn như trong giao dịch kỳ hạn, hoán đổi,…) hoặc chỉ bỏ ra một khoản tương đối
nhỏ (ví dụ: phí quyền chọn trong giao dịch quyền chọn, tài khoản đặt cọc và duy trì trong


NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
1
giao dịch tương lai,…) so với giá trị của những hợp đồng tương tự (hợp đồng mua bán
giao ngay,…), nhưng vẫn có thể tham gia vào thị trường phái sinh và thu lợi nhuận hoặc
phòng ngừa rủi ro.
Thứ ba, khác với mua bán giao ngay, các nhà đầu tư khi tham gia thị trường phái
sinh có quyền thanh toán (đôi khi là từ chối thanh toán trong các hợp đồng quyền chọn)
tại hoặc trước một thời điểm nhất định theo thỏa thuận (đối với thị trường phi tập trung)
hoặc theo quy định (đối với thị trường tập trung). Đây cũng được coi là một đặc điểm nổi
bật của các công cụ tài chính phái sinh.
c. Các loại công cụ tài chính phái sinh :
Các công cụ trên thị trường tài chính phái sinh rất đa dạng, nhưng nhìn chung có các
công cụ chính như sau :
Hợp đồng kỳ hạn (Forward):
Hợp đồng kỳ hạn (Forward) là một thỏa thuận trong đó một người mua và một
người bán chấp nhận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định tại một
thời điểm xác định trong tương lai với mức giá giao dịch được ấn định vào ngày hôm nay.
Tiền thu được từ hợp đồng kỳ hạn (Payoffs) được tính như sau :
• Payoff trên mỗi đơn vị tài sản từ vị thế mua = S
T

– K
• Payoff trên mỗi đơn vị tài sản từ vị thế bán = K – S
T

Trong đó : K : giá thực hiện
S
T
: giá giao ngay tài sản tại thời điểm đáo hạn hợp đồng.

Trong hợp đồng kỳ hạn, giá hàng hóa vào thời điểm đáo hạn hợp đồng có thể thay
đổi tăng hay giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai
bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (đối với bên bán)
hoặc cao hơn (đối với bên mua) so với giá thị trường.
 Đặc điểm của hợp đồng kỳ hạn:
- Trong suốt thời hạn của hợp đồng giá trị của hợp đồng không được tiến hành định giá lại,
do đó, không đặt ra yêu cầu phải bổ sung khoản ký quỹ. Chính vì vậy, rủi ro không có khả
năng chi trả của hợp đồng có hai chiều.
- Giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày đáo hạn của hợp đồng, không
có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hợp đồng hoặc trong thời hạn của
hợp đồng.
 Ví dụ về hợp đồng kỳ hạn :
X muốn mua 1 ngôi nhà vào năm tới, Y có 1 căn nhà và muốn bán cũng thời gian
đó. Y thỏa thuận bán nhà của Y cho X sau 1 năm nữa với gía 104,000$ (K), hợp đồng này
là hợp đồng kì hạn. Vì X mua nên X mong giá sẽ tăng trong tương lai và ngược lại Y
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
2
muốn giá giảm. Cuối năm, giả sử giá thị trường ngôi nhà là 110,000$ (S
T
) trong khi Y có
nghĩa vụ phải bán với giá 104,000$ (K) => Y lỗ 6000$ và X lãi 6000$.
Hợp đồng tương lai (Future):
Hợp đồng tương lai (Future) là một thỏa ước giữa một bên là người mua (hoặc
người bán) và một bên là sở giao dịch hoặc trung tâm thanh toán về việc giao và nhận một
khối lượng tài sản xác định tại một thời điểm nhất định trong tương lai với một mức giá
đã được ấn định sẵn. Khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai thường được giao
dịch trên các sở giao dịch. Tiền thu được từ hợp đồng tương lai (Payoffs) được tương tự
như ở hợp đồng kỳ hạn.
 Đặc điểm của hợp đồng tương lai :

- Luôn có 2 vị thế : vị thế mua và vị thế bán. Nếu nhà đầu tư dự đoán giá thị trường của
hàng hóa cơ sở tăng lên trong tương lai sẽ đứng ở vị thế mua. Ngược lại, sẽ chọn vị thế
bán nếu dự đoán giá thị trường giảm đi.
- Ngày thực hiện hợp đồng là một ngày chỉ định trước trong tương lai. Tại ngày này, cả 2
bên đều phải thực hiện hợp đồng
- Để bảo đảm nghĩa vụ này, cả 2 bên đều phải ký quỹ một khoản tiền tại một trung tâm
thanh toán hoặc sở giao dịch, khoản ký quỹ này sẽ được điều chỉnh theo giá trị thị trường
hàng ngày.
- Người ở vị thế bán phải giao hàng tại thời kỳ xác định trước, trong khi đó người ở vị thế
mua phải trả tiền khi hàng hóa được chuyển giao. Hầu hết những người giao dịch trên thị
trường tương lai chọn cách thanh toán khoản chênh lệch thay vì tiến hành giao nhận.
- Người ở vị thế mua có thể kết thúc quyền và nghĩa vụ của họ vào bất cứ lúc nào trước
ngày đáo hạn bằng 1 hợp đồng bán đối ứng tương tự với hợp đồng mua. Những người ở
vị thế bán có thể hủy bỏ quyền và nghĩ vụ của họ bằng hợp đồng mua đối ứng.
 Ví dụ về hợp đồng tương lai :
Công ty A bán cho công ty B 100,000 thùng dầu giao tháng 12/2013 theo một hợp
đồng tương lai với giá 65$/ thùng. Đến tháng 12/2013, giá dầu lên 85$/thùng thì hoặc là
A sẽ phải giao cho B 100,000 thùng dầu với giá 65$ hoặc A sẽ không phải giao dầu mà
thanh toán cho B số tiền là 20$*100,000 = 2.000.000 USD.
Hợp đồng tương lai thực chất là hợp đồng kì hạn được tiêu chuẩn hóa. Có thể
thấy rõ điều này qua bảng so sánh nhữn đặc điểm quan trọng như sau :
Các tiêu chuẩn Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng tương lai
Quy mô thị trường
Nhỏ bé, cá nhân, người tham
gia biết nhau.
Rộng lớn, đại chúng, người
mua và bán có thể không
biết nhau
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM

3
Giao dịch trên thị
trường
Phi tập trung Tập trung
Các điều khoản
hợp đồng
Không tiêu chuẩn hóa hợp
đồng
Tiêu chuẩn hóa hợp đồng
theo quy định của sàn giao
dịch (về khối lượng giao
dịch, ngày giá trị, loại hàng
hóa, đơn vị hàng hóa …)
Thời điểm giao
hàng
Thường quy định một hoặc
một khoảng thời gian nhất
định
Thường có thời điểm cụ thể
Giá trị hợp đồng
điều chỉnh theo thị
trường
Thanh toán vào thời điểm
chấm dứt hợp đồng
Định giá hằng ngày
Việc giao hàng Phải giao hàng
Thường không phải giao
hàng (thanh toán theo kết
quả chênh lệc lỗ, lãi)
Việc thế chấp

(Ký quỹ )
Thường không yêu cầu kí
quỹ
Cả 2 bên đều phải ký quỹ, có
điều chỉnh theo thị trường
hàng ngày.
Rủi ro giao hàng Có Không
Rủi ro thanh toán Có Không
Hợp đồng quyền chọn (Option) :
Hợp đồng quyền chọn (Option) là hợp đồng cho phép người mua nó có quyền,
nhưng không bắt buộc, được mua hoặc được bán một số lượng xác định các đơn vị tài sản
cơ sở trong một khoảng thời gian hoặc tại một thời điểm xác định trong tương lai với mức
giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
 Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn:
- Vị thế mua là người mua quyền có quyền thực hiện hay không thực hiện quyền, còn vị thế
người bán phải có nghĩa vụ thực hiện quyền khi bên mua yêu cầu.
- Ngày thực hiện quyền trong một khoảng thời gian do người mua quyết định (quyền chọn
kiểu Mỹ) hoặc tại một thời điểm xác định trong tương lai (quyền chọn kiểu châu Âu).
- Người mua quyền phải trả cho người bán quyền một khoản tiền cược được xem như giá
của quyền chọn.
 Các loại hợp đồng quyền chọn :
Quyền chọn mua (Call option): Hợp đồng này cho người mua hợp đồng được
quyền mua một số lượng hàng hóa cơ sở ấn định theo giá cố định trước thời điểm ấn định
trong tương lai. Để có được quyền này, người mua phải trả cho người bán hợp đồng Call
option một khoản lệ phí (phí Option).
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
4
Quyền chọn bán (Put Option): Quyền chọn này này ngược lại với Call Option.
Quyền chọn bán cho người mua hợp đồng quyền được bán một số lượng hàng hóa nhất

định với giá ấn định trong 1 thời hạn nhất định.
Quyền chọn hai chiều : Trong trường hợp giá hàng hóa cơ sở trên thị trường phức
tạp, nhà đầu tư không thể dự đoán trước chiều hướng tăng hay giảm của nên sẽ chọn hợp
đồng 2 chiều. Hợp đồng này cho phép thực hiện cà 2 quyền mua và bán. Nếu giá thị
trường giảm đi, nhà đầu tư thực hiện quyền chọn bán và ngược lại.
2. Thị trường tài chính phái sinh :
a. Khái niệm :
Thị trường tài chính phái sinh là nơi diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các loại
sản phẩm tài chính phái sinh, với các sản phẩm thông dụng của thị trường tài chính phái
sinh như: Quyền mua cổ phần, Chứng quyền, Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Hợp
đồng hoán đổi Thị trường này chỉ được hình thành khi thị trường chứng khóan phát triển
đến một mức độ nhất định về qui mô, tổ chức, cơ chế họat động, trình độ hiểu biết của
nhà đầu tư, ……
b. Các chủ thể giao dịch trên thị trường tài chính phái sinh :
Nhà bảo hộ (hedger) tham gia vào thị trường để giữ giá tại thời điểm mà họ có thể
thực hiện giao dịch trong tương lai, bởi vì họ cố tránh những rủi ro về giá.
Nhà đầu cơ (speculator) tham gia mua bán nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên chênh
lệch giá cả hợp đồng. Họ không hứng thú sở hữu bản thân sản phẩm mà chỉ chú ý tới biến
động giá cả của nó.
Nhà kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrageur) sẽ quan sát thị trường giao ngay và
giao sau khi thấy sự chênh lệch giá giữa 2 thị trường trên thì họ sẽ tham gia vào thị trường
để hưởng những khoản lợi nhuận không rủi ro.
c. Vai trò của thị trường tài chính phái sinh :
Thị trường phái sinh, với các công cụ phái sinh như Forward, Future, Option,
Swap…tùy theo đặc điểm của từng công cụ và việc sử dụng mỗi công cụ vào các hoạt
động nghiệp vụ cụ thể khác nhau như : sử dụng trong hoạt động tín dụng, kinh doanh
ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán…đến cả trong lĩnh vực mua bán hàng hóa trên thị
trường hàng hóa, sẽ có vai trò và tác dụng khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều mang lại một
lợi ích cơ bản và quan trọng là phòng chống rủi ro tài chính, nhờ hạn chế được sự biến
động của giá cả hàng hóa, tỷ giá, lãi suất… Cũng chính lợi ích này của các công cụ phái

NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
5
sinh đã phản ánh vai trò to lớn của thị trường này đối với nền kinh tế, các doanh nghiệp
và các tổ chức tín dụng.
 Đối với các Doanh nghiệp:
Với tư cách là người sử dụng các dịch vụ của thị trường phái sinh, thị trường phái
sinh đem lại các lợi ích sau :
- Khi sử dụng các dịch vụ phái sinh sẽ giúp doanh nghiệp phòng ngừa và hạn chế các loại
rủi ro có liên quan do những biến động của các yếu tố thị trường : do biến động giá cả, tỷ
giá, lãi suất…Qua đó, doanh nghiệp không phải chịu các khoản lỗ do biến động bất lợi từ
các yếu tố trên. Đảm bảo lợi nhuận và duy trì kết quả kinh doanh theo đúng kế hoạch.
- Sử dụng các dịch vụ phái sinh giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng sử dụng vốn
hiệu quả nhờ cân đối được luồng tiền, giúp cơ cấu lại tài sản nợ-tài sản có và giảm bớt chi
phí vốn cho doanh nghiệp
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao khả năng thu thập, phân tích, xử lý thông tin
hiệu quả, qua đó nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp của các nhà quản trị.
 Đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) :
- Tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng và phát triển các hoạt động dịch vụ, phát triển và
đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
- Tạo điều kiện cho các TCTD nâng cao hiệu quả kinh doanh : phát triển dịch vụ phái sinh
và cung cấp các công cụ này cho doanh nghiệp nhằm phòng ngừa rủi ro cho doanh
nghiệp.
- Phát triển và cung ứng các dịch vụ phái sinh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng không chỉ
giúp các ngân hàng nâng cao khả năng phân tích, đánh giá và dự báo diễn biến thị trường,
rất có lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng mà còn nâng cao uy tín cho các ngân hàng
nhờ cung cấp sản phẩm dịch vụ hiện đại, góp phần hình thành thương hiệu ngân hàng
mạnh.
 Đối với nền kinh tế:
- Sự phát triển của thị trường phái sinh, tạo ra sự phát triển hoàn thiện các loại thị trường

tại Việt Nam. Đồng thời, với bản chất là công cụ phái sinh, thị trường này sẽ hỗ trợ cho
thị trường hàng hóa, thị trường tài chính phát triển ổn định, hiệu quả góp phần thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
- Tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam. Quá trình này gắn liền với sự tin tưởng, niềm tin của nhà đầu tư về mức độ
phòng ngừa rủi ro khi nền kinh tế có đủ biện pháp phòng ngừa, có thị trường phái sinh
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
6
phát triển, để các nhà đầu tư bảo toàn và tạo lợi nhuận, cũng như chủ động trong kế hoạch
đầu tư kinh doanh.
II.THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM :
1. Thị trường tài chính phái sinh thế giới :
Trong những năm gần đây, thị trường các sản phẩm phái sinh ngày càng trở
nên quan trọng và rất cần thiết cho các nhà kinh doanh và đầu tư. Trên thực tế, các công
cụ tài chính phái sinh đã phát triển không ngừng cả về quy mô và sự đa dạng. Đây là
những cải tiến tài chính rất thành công, cung cấp những công cụ quản lý rủi ro hữu hiệu
cũng đồng thời là các công cụ để tìm kiếm lợi nhuận cho các nhà đầu tư tài chính và kinh
doanh trên thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới có nhiều biến động,
các số liệu thống kê cho thấy hoạt động trên các thị trường tài chính phái sinh cả thị
trường tập trung và phi tập trung đều tăng trưởng rất mạnh. Đến cuối tháng 6 năm 2011,
giá trị thị trường đã đạt mức 707.569 tỷ USD, tăng 17,7% so với thời điểm cuối năm 2010
và tăng 69,2% so với năm 2006. Thực tế này cho thấy, càng ngày các công cụ tài chính
phái sinh càng trở thành những công cụ quan trọng trong việc phòng chống rủi ro của các
trung gian tài chính, đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại. Mặc dù tác dụng
phòng ngừa rủi ro của việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh đã được biết đến từ
vài chục năm nay, nhưng phải đợi đến cuối thập kỷ, khi có được sự phát triển của công
nghệ thông tin và viễn thông, người ta mới có khả năng tạo ra được những sản phẩm với
những đặc điểm kỹ thuật phức tạp có thể sử dụng một cách có hiệu quả trong điều kiện thị
trường luôn có nhiều biến động. Khả năng sáng tạo và sử dụng các công cụ tài chính phức

tạp cũng khuyến khích giới khoa học nghiên cứu phát triển những mô hình quản lý rủi ro
ngày một hoàn thiện và có ích hơn ứng dụng vào thực tế.
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
7
Đối với các giao dịch phái sinh tại thị trường có tổ chức có giá trị nhỏ hơn
nhiều, thường chỉ bằng khoảng trên 10% so với thị trường phi tập trung. Tuy
nhiên, thị trường này cũng đã tăng trưởng trong những năm qua. Đặc biệt, trong 6
tháng đầu năm 2011, sau giai đoạn suy giảm do khủng hoảng tài chính thế giới,
tổng giá trị thị trường phái sinh có tổ chức đã có mức tăng 15,5% so với năm 2010.
Khác với thị trường phi tập trung, tại các thị trường phái sinh có tổ chức, giá trị các
hợp đồng phái sinh ngoại hối lại có mức tăng mạnh nhất, vượt xa tốc độ tăng trưởng của
cả thị trường. Cụ thể, đến tháng 6 năm 2011, các giao dịch phái sinh ngoại hối có mức
tăng 23,6% so với năm 2010 và 61,6% so với năm 2006. Đứng thứ hai trên thị trường có
tổ chức là các hợp đồng phái sinh lãi suất với mức tăng giá trị khoảng 20%.
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
8
Xét về cơ cấu thị trường phái sinh phi tập trung cho thấy, các hợp đồng phái
sinh về lãi suất chiếm tổng giá trị lớn nhất trên thị trường với tỷ trọng trên 80%, tiếp sau
đó là các hợp đồng phái sinh về ngoại hối chiếm tỷ trọng khoảng 10% tổng giá trị thị
trường. Các hợp đồng phái sinh về tín dụng, cổ phiếu và hàng hóa chỉ chiếm những tỷ
trọng rất nhỏ, ở mức 5%, mức 2% và 1% cho mỗi loại.
Tại thị trường có tổ chức, giá trị các hợp đồng phái sinh lãi suất cũng có vị trí dẫn
đầu, thậm chí còn chiếm một tỷ trọng cao hơn so với tại thị trường phi tập trung là trên
90%. Trong khi đó, tỷ trọng của các hợp đồng cổ phiếu và hợp đồng ngoại hối lại có
những sự khác biệt đáng kể. Nếu như ở thị trường phi tập trung các hợp đồng phái sinh cổ
phiếu chỉ chiếm tỷ trọng có 2% thì tại thị trường có tổ chức, các hợp đồng này lại có vị trí
đứng thứ hai với tỷ trọng 8% tổng giá trị thị trường. Điều này cũng là phù hợp vì các giao
dịch liên quan đến cổ phiếu chủ yếu được thực hiện tại thị trường có tổ chức, nơi có đầy

đủ thông tin hơn về các chứng khoán niêm yết giao dịch. Ngược lại, với các giao dịch
phái sinh cổ phiếu, tại thị trường có tổ chức, các giao dịch phái sinh ngoại hối chỉ có một
vị trí rất khiêm tốn với tỷ trọng nhỏ hơn 1% tổng giá trị thị trường.
Đồ thị 2 : Cơ cấu hợp đồng phái sinh trên thị trường có tổ chức
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
9
Mức độ tăng trưởng mạnh cũng như tỷ trọng lớn nhất của các hợp đồng phái
sinh lãi suất trên thị trường phái sinh toàn cầu cho thấy tầm quan trọng của những
công cụ này trong thực tế phòng ngừa rủi ro lãi suất của các chủ thể kinh tế, đặc
biệt là các ngân hàng thương mại. Sự gia tăng mạnh giá trị các giao dịch phái sinh
về lãi suất trên thị trường trong thời gian gần đây có thể được giải thích bởi hai lý
do chính. Một là, do phản ứng của các nhà đầu tư trước sự biến động của lãi suất
thị trường, được thể hiện ở độ dốc lớn của đường cong lãi suất. Lãi suất thị trường
tăng lên dẫn đến sự gia tăng nhu cầu phòng ngừa rủi ro cho các tài sản tài chính dài
hạn (trái phiếu dài hạn có bảo đảm, chứng khoán hóa từ các khoản cho vay thế
chấp, ) tại các trung gian tài chính. Các tổ chức này rút ngắn thời hạn trung bình
các tài sản có của mình bằng việc sử dụng các công cụ phái sinh về lãi suất, trong
đó các hợp đồng swap lãi suất với thời hạn 5 năm là công cụ được các ngân hàng
ưa thích nhất. Bằng việc mua hợp đồng swap lãi suất, các ngân hàng này sẽ thanh toán
các khoản lãi suất cố định cho bên đối tác từ khoản lãi thu được từ các khoản đầu tư dài
hạn và nhận về các khoản thanh toán lãi theo lãi suất thả nổi cho phù hợp với việc trả lãi
cho các nguồn vốn huy động ngắn hạn. Lý do thứ hai dẫn đến sự phát triển của thị trường
phái sinh lãi suất là do mức độ biến động thường xuyên của lãi suất thị trường. Nghiên
cứu của See M Micu và S Jeanneau cho thấy hệ số tương quan (correlation) giữa mức độ
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
10
dao động của lãi suất và giá trị các giao dịch phái sinh lãi suất gần đạt mức tương quan
dương hoàn hảo từ sau năm 1999 (gần bằng 80%).

2. Thị trường tài chính phái sinh Việt Nam :
a. Các mốc thời điểm có ý nghĩa đối với thị trường tài chính phái sinh :
Thực tế, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những hoạt động cho việc ra
đời thị trường tài chính phái sinh như sau :
- Năm 1998, Bộ Thương mại có Đề án Phát triển thị trường hàng hóa giao sau về nông sản.
- Năm 2002, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở giao
dịch) hợp tác với một tổ chức tài chính Hoa Kỳ tổ chức Sàn giao dịch kỳ hạn hạt điều.
- Năm 2004, UBND tỉnh Đắk Lắk cho ra đời Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột
và Ngân hàng TMCP Techcombank cung cấp dịch vụ môi giới giao dịch mua bán cà phê
trên các thị trường cà phê quốc tế.
- Năm 2005, Quốc hội ban hành Luật Thương mại, trong đó có quy định giao dịch hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
- Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 158/2006/NĐ-CP hướng dẫn hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
- Năm 2010, Công ty TNHH Triệu Phong cho ra đời Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam,
giao dịch quyền lựa chọn về cà phê, cao su và sắt thép.
- Năm 2011, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước bắt đầu xây dựng đề án và tổ chức nhiều cuộc
hội thảo về thị trường chứng khoán phái sinh.
Phái sinh tiền tệ là loại công cụ phái sinh xuất hiện sớm nhất, trong đó ngân hàng là
một bên trong hợp đồng và bên còn lại có thể là khách hàng cá nhân, doanh nghiệp hoặc
định chế tài chính. Trong thời gian đầu, phái sinh tiền tệ chỉ tập trung vào một số ít ngân
hàng lớn Vietcombank, Techcombank, Eximbank và một số ngân hàng nước ngoài
(HSBC, Citibank ) nhưng vài năm trở lại đây, ngày càng có nhiều ngân hàng thương mại
trong nước giới thiệu và cung cấp các loại sản phẩm phái sinh tiền tệ. Tuy nhiên, số lượng
khách hàng còn ít, khối lượng giao dịch cũng khá nhỏ so với nhu cầu có thật của thị
trường về phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất.
Trên thị trường hàng hóa, các giao dịch kỳ hạn và tương lai đối với các hàng hóa cơ
bản như gạo, cà phê, cao su, thép được các doanh nghiệp sử dụng nhiều trên các Sở giao
dịch phái sinh nước ngoài như COMEX (SGD vàng, cao su, tơ lụa và gia súc) hoặc LME
(SGD kim loại London)…

Thị trường hàng hóa trong nước có 3 sàn giao dịch là Trung tâm giao dịch cà phê
Buôn Mê Thuột, Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam và Sàn giao dịch hàng hóa Sài Gòn
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
11
Thương Tín…, đã bước đầu triển khai một số sản phẩm phái sinh như SGD hàng hóa Việt
Nam (VNX) thực hiện niêm yết và giao dịch Hợp đồng tương lai của 3 nhóm hàng hóa
gồm: cà phê (Robusta và Arabica), cao su (RSS3) và thép thỏi cán nóng (HRC). Nhưng
đa phần các giao dịch phái sinh cũng mới chỉ dừng ở mức thăm dò, thử nghiệm, sự tham
gia của các Doanh nghiệp Xuất nhập khẩu và nhà đầu tư còn hạn chế.
b. Thực trạng sử dụng các công cụ tài chính phái sinh Việt Nam :
Hợp đồng quyền chọn:
 Quyền chọn ngoại tệ :
Các giao dịch quyền chọn được thực hiện đầu tiên ở Việt Nam là quyền chọn tiền tệ,
bắt đầu từ năm 2004 theo quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004 của
Thống đốc NHNN Việt Nam :
- Giao dịch quyền chọn tiền tệ chỉ bao gồm giao dịch giữa các ngoại tệ (không liên quan
đến VND).
- Đối tượng được tham gia giao dịch quyền chọn tiền tệ bao gồm các TCTD được phép
giao dịch hối đoái, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, cá nhân, và NHNN Việt Nam.
- Các TCTD không được mua quyền chọn mà chỉ được bán quyền chọn cho các đối tượng
tham gia, chỉ được phép duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền chọn không có giao dịch đối
ứng tối đa là 10% so với vốn tự có.
- Thời hạn của hợp đồng không bị hạn chế, hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các
bên tham gia.
Năm 2005 các ngân hàng VCB, VIB, Eximbank, chi nhánh ngân hàng Citibank,
BIDV, Techcombank, MB, ACB và Agribank được triển khai nghiệp vụ này. Hiện nay
các ngoại tệ được sử dụng nhiều trong giao dịch quyền chọn là USD, EUR, GBP, JPY,
AUD, CHF,
Tại Việt Nam, quyền chọn ngoại tệ không phổ biến bằng các giao dịch phái sinh

ngoại tệ khác. Các doanh nghiệp thường không lựa chọn phương thức này để phòng ngừa
rủi ro. Hơn nữa, các TCTD chỉ được phép mua quyền chọn từ phía các doanh nghiệp
trong nước rồi tìm đối tác nước ngoài để tái bảo hiểm. Trong quá trình đó, các TCTD sẽ
phải nộp thuế giá trị gia tăng 10% trên khoản phí thu từ phía đối tác trong nước nhưng lại
không được khấu trừ khoản thuế này khi trả phí cho đối tác nước ngoài. Điều này khiến
các TCTD chịu khoản lỗ 10% ngay từ ban đầu.
 Quyền chọn tiền Đồng Việt Nam
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
12
Quyền chọn tiền đồng đã được thực hiện vào năm 2005. Các ngân hàng được phép
thực hiện theo chương trình thí điểm của NHNN là BIDV, ACB, Techcombank, VCB và
VIB.
Dịch vụ opiton tiền đồng có đặc thù là TCTD không thể tái bảo hiểm sản phẩm của
mình ở một đơn vị thứ ba, vì vậy rủi ro đối với bên bán là rất lớn.
Tại Việt Nam dịch vụ này chủ yếu là phục vụ các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu và phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thông thường, quy
mô hợp đồng tối thiểu đối với ngoại tệ khác là 100.000 USD hoặc tương đương. Điều này
khiến các cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu bảo hiểm tỷ giá cho một lượng
ngoại tệ nhỏ hơn không thể tham gia nghiệp vụ này. Mức phí quyền chọn tiền đồng mà
các TCTD đưa ra cho doanh nghiệp được nhận định còn cao, chưa hợp lý và không mang
tính khuyến khích sử dụng.
Cùng với công văn 1820/NHNN – QLNH của NHNN ngày 18/3/2009 thì nghiệp vụ
quyền chọn tiền đồng dừng thí điểm từ 23/3/2009.
 Quyền chọn vàng
Cùng với sản phẩm quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn tiền đồng, quyền chọn vàng
đã xuất hiện vào cuối năm 2004. Do trong năm 2005 giá vàng liên tục biến động, các
doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý thực sự quan tâm tìm kiếm công cụ bảo vệ rủi
ro giá vàng. Quyền chọn vàng vẫn còn khá mới mẻ đối với cả các ngân hàng cung cấp và
các nhà đầu tư tại thị trường Việt Nam.

Về đối tượng giao dịch, quyền chọn vàng được áp dụng đối với các cá nhân và tổ
chức có nhu cầu muốn bảo hiểm rủi ro sự biến động của vàng. Tuy nhiên, cũng như các
loại quyền chọn khác, khách hàng chỉ là người mua quyền chọn chứ không phải là người
bán. Thực tế cho thấy lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng chủ yếu là các doanh
nghiệp kinh doanh vàng, sử dụng quyền chọn vàng để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động
nhập vàng hoặc mua bán vàng là chính. Mục đích đầu cơ không phổ biến ở Việt Nam khi
các chủ thể chưa am hiểu về tình hình thị trường vàng thế giới và trong nước cũng như
thiếu khả năng phân tích, dự đoán về biến động giá vàng tương lai.
Khách hàng muốn thực hiện quyền chọn vàng phải giao dịch vàng tối thiểu 50 lượng
và mức trả phí khá cao. Vì vậy, trên thị trường vàng, hợp đồng quyền chọn vàng đang dần
bị thay thế bởi các nghiệp vụ mua bán giao ngay hoặc kỳ hạn 3 đến 6 tháng do phí phải
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
13
trả trong hợp đồng kỳ hạn thấp hơn nhiều so với dịch vụ quyền chọn vàng và phù hợp với
khách hàng có thu nhập ổn định và nhu cầu thanh toán thực sự.
 Quyền chọn lãi suất
Bắt đầu từ ngày 07/09/2004, NHNN thực hiện chương trình thí điểm 1 năm cho
phép NHTM thực hiện nghiệp vụ quyền chọn lãi suất. Các NHTM phải có quy trình
nghiệp vụ quyền chọn lãi suất phù hợp với thông lệ quốc tế và không trái pháp luật Việt
Nam, trong đó có các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Số vốn gốc hợp đồng quyền chọn lãi
suất tối đa bằng 15% vốn tự có của ngân hàng. Tổng số vốn gốc tối đa của tất cả các hợp
đồng quyền chọn lãi suất trong thời gian thí điểm không quá 50% vốn tự có.
Theo quy định, các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện tại Việt Nam
đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng
EUR. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại
Việt Nam, các NHTM hoạt động tại Việt Nam được NHNN cho phép và các ngân hàng
nước ngoài.
Hợp đồng kỳ hạn:
Các giao dịch kỳ hạn đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam là giao dịch ngoại tệ kỳ

hạn theo Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái kèm theo Quyết định số 17/1998/QĐ
-NHNN7 ngày 10/01/1998. Ban đầu việc xác định tỷ giá chịu sự chỉ đạo của NHNN
khiến tỷ giá kỳ hạn không đạt được tính linh hoạt.
Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN rra đời ngày 28/05/2004 về việc sửa đổi bổ
sung Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD
được phép kinh doanh ngoại tệ. Theo Quyết định mới này, giới hạn về thời hạn giao dịch
ngoại tệ kỳ hạn đã được dỡ bỏ đối với các giao dịch giữa các loại ngoại tệ với nhau và
cho phép thực hiện theo thông lệ quốc tế, đồng thời mở rộng từ mức 7 - 180 ngày như
trước đây lên mức 3 - 365 ngày đối với các giao dịch giữa đồng Việt Nam và các loại
ngoại tệ. Các kỳ hạn được sử dụng nhiều nhất vẫn là 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 30 ngày
và 60 ngày tương ứng với kỳ hạn thanh toán xuất nhập khẩu.
Điểm đổi mới đáng chú ý nhất của Quyết định này là tỷ giá kỳ hạn giữa VND và
USD không còn bị khống chế bằng việc quy định mức trần cứng áp dụng cho từng kỳ hạn
theo tính toán chủ quan của NHNN trong từng thời kỳ như trước đây. Các NHTM tự đưa
ra các tỷ giá giao dịch kỳ hạn trên cơ sở thoả thuận với khách hàng phù hợp theo thông lệ
quốc tế nhằm tạo sự chủ động cho khách hàng và TCTD.
Có thể đơn cử tại VCB mức tỷ giá kỳ hạn đã linh hoạt hơn từ năm 2005:
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
14
Tỷ giá kỳ hạn và giao ngay VCB tại thời điểm thực hiện giao dịch kỳ hạn
Tháng
/Năm
Tỷ
giá
giao
ngay
Lãi
suất
VNĐ

Lãi
suất
USD
Tỷ giá
kỳ hạn
1 tháng
Tỷ giá
kỳ hạn
2 tháng
Tỷ giá
kỳ hạn
3 tháng
01/05 15.783 7,05% 2,25% 15.852 15.921 15.990
12/05 15.907 8,25% 4,00% 15.954 16.011 16.055
01/06 15.916 8,25% 4,25% 15.963 16.005 16.065
12/06 16.076 8,25% 5,25% 16.095 16.108 16.114
01/07 16.040 8,25% 5,25% 16.116 16.135 16.148
12/07 16.131 8,25% 5,25% 16.144 16.148 16.154
01/08 16.080 8,25% 4,75% 16.228 16.250 16.252
12/08 16.023 8,25% 4,75% 16.108 16.174 16.323
01/09 17.486 11,00% 3,00% 17.603 17.719 17.836
12/09 18.492 10,497% 4,50% 18.584 18.677 18.769
01/10 18.479 10,490% 3,40% 18.588 18.697 18.807
07/10 19.095 11,2% 4,2% 19.206 19.318 19.429
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của NHNN
Ngày 10/11/2004, NHNN Việt Nam ban hành Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN
cho phép cá nhân được thực hiện giao dịch ngoại tệ kỳ hạn với các NHTM. Cá nhân có
nguồn thu ngoại tệ trong tương lai có thể bán ngoại tệ cho NHTM theo hợp đồng mua bán
kỳ hạn. Tuy vậy Quyết định cũng hạn chế việc đầu cơ thu lợi của doanh nghiệp khi yêu
cầu doanh nghiệp phải xuất trình giấy tờ chứng minh mục đích sử dụng ngoại tệ.

Hiện nay, các giao dịch ngoại tệ kỳ hạn trên thị trường tiếp tục tăng về số lượng và
tốc độ giao dịch. Hiện nay, hầu hết NHTM Việt Nam đều tiến hành nghiệp vụ giao dịch
ngoại tệ kỳ hạn.
Kém sôi động hơn, giao dịch kỳ hạn trên thị trường vàng Việt Nam chủ yếu được
thực hiện bởi các tổ chức hơn là cá nhân. Giá vàng thường xuyên biến động không theo
sự biến động của giá vàng thế giới. Sự biến động của giá vàng làm nhu cầu đối với hợp
đồng kỳ hạn vàng tăng lên. Tuy nhiên, trong xu hướng giá vàng tăng các doanh nghiệp
Việt Nam - đóng vai trò chủ yếu là người mua vàng kỳ hạn lại chưa thực sự ý thức về cơ
hội sinh lời từ các hợp đồng này.
Đối với giao dịch kỳ hạn hàng hóa, hàng hóa chủ yếu là mặt hàng nông sản. Các chủ
thể tham gia thị trường phần lớn là các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu, người sản
xuất nông nghiệp. Năm 2002, loại hình giao dịch hàng hóa qua sàn bắt đầu xuất hiện với
sự khai trương của Sàn giao dịch hàng hóa Hồ Chí Minh, tiếp theo đó là sàn giao dịch tại
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
15
Cần Giờ (TP.HCM), sàn giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC). Tuy nhiên sự hoạt
động của các sàn này cũng không khởi sắc, kéo theo các giao dịch kỳ hạn cũng không
phát triển mạnh mẽ.
Ngày 28/12/2006, Nghị định 158/2006/NĐCP ra đời mới đưa ra những quy định chi
tiết cho hoạt động trên sở giao dịch hàng hóa, yêu cầu phân định rõ loại hình giao dịch,
cách thức thanh toán trên sàn giao dịch. Từ đó các giao dịch giao ngay và kỳ hạn mới
được phân định rõ ràng. Tháng 12/2009, sàn giao dịch hàng hóa của Sacombank với tên
gọi Sacom - STE đi vào hoạt động với mặt hàng chủ lực được giao dịch là thép.
Sacombank cũng mở lại sàn giao dịch điều tại Bình Phước với hệ thống giao dịch điện tử.
Hợp đồng tương lai :
Nhìn chung, hợp đồng tương lai vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Hiện tại ở Việt
Nam, SGD hàng hóa Việt Nam (VNX) thực hiện niêm yết và giao dịch Hợp đồng tương
lai của 3 nhóm hàng hóa gồm: cà phê (Robusta và Arabica), cao su (RSS3) và thép thỏi
cán nóng (HRC). Sàn giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín (Sacom – STE) giao dịch

chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, mà trọng tâm là sắt thép trên các sàn
giao dịch hàng hóa lớn như LIFFE (London), NYBOT (Newyork), ICE (Newyork),
Tocom (Tokyo), SICOM (Singapore),… song các ngân hàng thực hiện hợp đồng chỉ mới
đóng vai trò là trung gian môi giới giúp doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng tương lai
hàng hóa tại các sở giao dịch nước ngoài.
c. Những hạn chế và sự thất bại của một số mô hình giao dịch phái sinh tại Việt
Nam :
Hạn chế:
Là kênh đầu tư còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên số lượng NHTM Việt Nam triển
khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ còn ít, các công cụ tài chính chưa đa dạng, chưa
tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối với khách hàng
Mức độ am hiểu của nhà đầu tư về thị trường còn nhiều hạn chế. Nhiều nhà đầu tư
mới chỉ dừng lại ở mức độ quan tâm và thăm dò chứ chưa thực hiện giao dịch Các giao
dịch mua bán ngoại tệ tại NHTM Việt Nam chủ yếu là giao dịch giao ngay. Hoạt động
mua bán ngoại tệ nói chung và thực hiện công cụ tài chính phái sinh chủ yếu tập trung tại
hội sở chính của từng hệ thống NHTM Việt Nam và một số chi nhánh lớn
Nếu so sánh với thị trường giao ngay vốn đơn giản, quen thuộc, dễ thực hiện thì thị
trường tương lai trở nên ít được người dân và doanh nghiệp ưa chuộng. Hơn thế nữa,
truyền thống kinh doanh ở Việt Nam chủ yếu là kinh doanh nhỏ lẻ, mua bán trực tiếp trên
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
16
thị trường giao ngay, nhất thời người mua và người bán khó có thể thay đổi thói quen giao
dịch này. Mặc khác do những biến động về giá nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào tại Việt
Nam khó lớn, khiến nông dân trong nhiều trường hợp buộc phải mua chịu, bán non cho
các thương lái, đại lý mà gần như họ không còn sự lựa chọn nào khác.
Công cụ tài chính phái sinh được giao dịch dựa trên đòn bẩy nợ trong nền kinh tế
lớn nên đó cũng là nguy cơ dễ xảy ra tình trạng đầu cơ trục lợi, tạo biến động thị trường
nếu không có giám sát tốt, khả năng biến các sàn giao dịch thành nơi thao túng giá là điều
không tránh khỏi

Thực tế với hình thức mở một tài khoản bảo chứng 1% so với giá trị hợp đồng cần
mua thì một doanh nghiệp có thể khống chế số lượng hợp đồng hơn 100 lần, dẫn đến xáo
trộn thị trường. Khi nhà đầu tư vào chứng khoán phái sinh thì chỉ có được và mất mà
không có giá trị tăng thêm, chính vì vậy mà khi kèm với khả năng sinh lời chính là những
rủi ro rất lớn của nhà đầu tư.
Các khuôn khổ pháp lý như các luật lệ, các chính sách quản lý nhà nước còn thiếu,
cơ chế nghiệp vụ chư đầy đủ. Đặc biệt, hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam còn chưa
có các chuẩn mực tương đồng với các Chuẩn mực kế toán Quốc tế về các công cụ tài
chính. Việc thiếu vắng các tiêu chuẩn kế toán chất lượng cao để ghi nhận, đánh giá giá trị
công cụ tài chinh nói chung và công cụ tài chính phái sinh nói riêng sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc xác định kết quả tài chính, đến rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Thiếu sự thống nhất trong cơ chế quản lý, có sự phân định rõ và tách biệt trong quản
lý các công cụ gốc này. Cụ thể, các công cụ về chứng khoán do Bộ Tài chính và
UBCKNN quản lý; công cụ như tiền tệ, lãi suất, hối đoái, vàng do Ngân hàng nhà nước
quản lý; các công cụ hàng hóa thì do Bộ Công thương quản lý. Cho nên, về dài hạn cần có
sự thống nhất trong cơ chế quản lý này.
Thất bại của thị trường phái sinh :
Là một thị trường còn khá mới mẻ nên khó khăn xảy ra đối với thị trường phái sinh
là điều không tránh khỏi. Khách hàng còn thiếu thông tin về thị trường, hạn chế về mặt
pháp lý là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự thất bại của một số thị trường,
cụ thể:
 Thất bại của Trung tâm giao dịch Thủy sản Cần Giờ (Cangio ATC) do không thu
hút được khách hàng:
Tháng 5/2002, Cangio ATC được thành lập với số vốn đầu tư 7,5 tỷ đồng, được
trang bị khá đầy đủ điều kiện cần thiết cho một sàn giao dịch thủy sản. Sau vài tháng,
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
17
Cangio ATC vắng dần người giao dịch bởi nông dân vẫn thích bán cho thương lái hơn là
bán trực tiếp cho doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp cũng muốn mua sỉ qua thương

lái hơn mua lẻ qua nông dân vì họ vốn không đủ người, phương tiện để thực hiện giao
dịch. Do vậy, Trung tâm đã ngừng hoạt động.
 Thất bại của sàn giao dịch đường của CTCP Giao dịch hàng hóa Sài Gòn
Thương Tín (Sacom-STE) do không có khách hàng :
Tháng 3/2010 Sacom-STE thành lập sàn giao dịch đường với hai mặt hàng là đường
thô và đường tinh. Sacom-STE đã đầu tư một hệ thống cơ sở hạ tầng gồm có phần mềm
giao dịch, bảng điện tử, hệ thống lưu ký và đặc biệt, sàn còn có Tập đoàn tài chính
Sacombank đứng sau hỗ trợ cho giao dịch thanh toán.
Tuy nhiên, qua 8 tháng hoạt động, mỗi phiên chỉ giao dịch trên dưới 10 tấn đường.
Trong khi, để có thể tiến hành giao dịch, sàn cần 50 tấn đường. Thời gian sau đó, giá
đường trong nước lẫn thế giới tăng cao, các nhà máy và DN bắt đầu tạm trữ đường tại kho
chờ giá lên, do vậy Sacom-STE cũng gần như ngưng hoạt động vì không còn người bán
để giao dịch.
 Thất bại cả 2 công ty, Công ty chứng khoán VN Direct và Công ty Vàng thế giới
(VTG) do các vấn đề pháp lý:
Công ty chứng khoán VN Direct giới thiệu sản phẩm “hợp đồng hợp tác đầu tư” trên
20 cổ phiếu có tính thanh khoản cao trên SGDCK Tp. HCM và SGDCK Hà Nội. Nhà đầu
tư có thể giao dịch quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán cổ phiếu tùy theo sự biến động
giá của thị trường cổ phiếu
Công ty Vàng thế giới (VTG) giới thiệu sản phẩm đầu tư chỉ số VTG-VNIndex
mang nhiều dáng dấp của Hợp đồng tương lai.
Sau khi triển khai được một thời gian, các giao dịch phái sinh này gặp phải những
vướng mắc về quy định pháp lý khi Luật hiện hành chưa cho phép các giao dịch phái sinh
được hoạt động trên thị trường. Ủy ban Chứng khaosn nhà nước đã yêu cầu VN Direct và
VTG ngừng các hoạt động liên quan đến những sản phẩm trên, buộc hai tổ chức này phải
chấm dứt hoạt động giao dịch.
B. LIÊN HỆ THỰC TẾ: GIAO DỊCH CÀ PHÊ GIAO SAU VÀ
MÔ HÌNH HÀNG HÓA CỦA SÀN GIAO DỊCH CÀ PHÊ
BUÔN MÊ THUỘT BCEC
I. SỰ RA ĐỜI THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH HÀNG HÓA :

NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
18
Những thành công đạt được từ việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp đã thúc đẩy lượng hàng hóa nông sản tăng trưởng nhanh chóng. Hàng hóa không
chỉ đáp ứng dủ lượng cầu của một lãnh thổ, mà còn hướng đến xuất khẩu nguồn hàng dồi
dào sang các vùng miền, quốc gia khác. Tuy nhiên, do những hạn chế về khả năng tìm
kiếm nơi tiêu thu, thu hoạch theo mùa, hàng hóa cung ứng ồ ạt trên thị trường trong
khoảng thời gian ngắn đã khiến cho người sản xuất luôn rơi vào trạng thái bị động về giá
cả, gây thiệt hại cho cả bên cung và bên cầu.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa nông sản trên thị trường,
người sản xuất và nhà kinh doanh đã chủ động gặp nhau trước mỗi mùa vụ để thỏa thuận
giá cả, khối lượng, chất lượng, thời điểm giao hàng cụ thể trong tương lai. Song ban đầu
những thỏa thuận này vẫn còn rất đơn giản, nhỏ lẻ, không có tính quy chuẩn rõ ràng. Cụ
thể năm 1848, Sàn Thương mại Chicago (Chicago Board of Trade – CBOT) được thành
lập hướng tới mục đích tiêu thụ ngũ cốc bằng cách chuẩn hóa số lượng, chất lượng và
phát triển các hợp đồng dài hạn về mua bán ngũ cốc. Hợp đồng kỳ hạn được giao dịch
trong giai đoạn đầu tiên này. Năm 1865, sàn CBOT chính thức triển khai các hợp đồng
được tiêu chuẩn hóa, được gọi là hợp đồng tương lai (futures).
Thị trường phái sinh hàng hóa ra đời là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị
trường, là sự đa dạng hóa hình thức giao thương và mậu dịch tự do quốc tế. Những sản
phẩm của thị trường phái sinh được ứng dụng rộng khắp trên toàn cầu, mang đến những
lợi ích tích cực, tạo điều kiện thuận lợi trong lưu thông hàng hóa nông sản nói riêng và
các hàng hóa khác trong lĩnh vực công nghiệp, tài chính nói chung. Hàng hóa phái sinh đã
góp phần giảm thiểu rủi ro, chuyển rủi ro từ người sản xuất sang thị trường, giúp bên
cung ứng yên tâm, tập trung chuyên môn để sản xuất.
Sàn giao dịch cà phê phái sinh đầu tiên trên thế giới: Sàn giao dịch cà phê, đường và
cacao (CSCE) là sàn giao dịch cà phê, đường và cacao tương lai và quyền chọn đầu tiên
trên thế giới, được thành lập vào năm 1882 với tên gọi Sàn giao dịch cà phê tại thành phố
New York. Hợp đồng đường tương lai được cho phép năm 1914, và vào ngày 28/9/1979

Sàn giao dịch cà phê và đường New York đã hợp nhất với Sàn giao dịch cacao New York
(được thành lập năm 1925) trở thành Sàn CSCE. Vào năm 1998, CSCE hợp nhất với Sàn
giao dịch cotton New York là công ty con của Sàn Thương mại New York (NYBOT). Sàn
CSCE hoạt động như đơn vị độc lập của Sàn NYBOT cho phép giao dich hợp đồng tương
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
19
lai và quyền chọn đối với cà phê, đường, cacao và chỉ số hàng hóa S&P. Vào tháng
01/2007, Sàn NYBOT đã hợp nhất với Sàn giao dịch Liên lục địa
(IntercontinentalExchange -ICE) tại New York và trở thành công ty con của Sàn ICE.
II. THỰC TRẠNG GIAO DỊCH HÀNG HÓA CÀ PHÊ TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM :
1.

T ổ

n g

qu a

n

v



n g à

n


h

c ô

n g

n g

h i

ệ p

c à

ph ê :
a. N

g à

n

h

c

à

p h

ê


thế

g

iớ i :
Cây cà phê lần đầu tiên được phát hiện ở Ethiopia cách đây khoảng 2000 năm,
truyền thuyết kể rằng, một người chăn dê ở Ethiopia đã phát hiện ra cây cà phê và hái hạt
để đãi khách trong một bữa tiệc của ông ta. Sau đó những hạt cà phê này được đem đi thử
nghiệm và đã phát hiện ra có những năng lượng khác thường. Những thầy tu trong địa
phương đã đưa cà phê là một loại đồ uống.
Vào thế kỷ thứ 10 các nhà thương gia đã mua hạt cà phê mang đến Ả-rập, ở đó các
nhà tu chế biến thành một loại “rượu” hoa quả. Rượu là một thứ đồ uống bị cấm những
tín đồ hồi giáo ở đây do vậy chất nước này đã trở thành một đồ uống rất được ưa chuộng.
Năm 1300 cây cà phê được trồng phổ biến ở Ả-rập. Cà phê cũng có rất nhiều công
dụng từ mục đích tôn giáo tới chế biến thuốc. Khoa học Ả-rập đã chứng minh nhiều vai
trò của cà phê và nó trở thành một phần trong cuộc sống người dân Ả-rập. Thực sự cà phê
đã được sử dụng rộng rãi trong toàn thánh địa hồi giáo. Cà phê không chỉ là một đồ uống
bình thường mà nó còn tạo sự kích thích cho người uống.
Cùng với sự phát triển không biên giới của thị trường thưong mại. Cà phê đã được
trồng ở các nước châu Á, Châu Phi, Châu Âu. Ngày nay, cà phê là một trong những mặt
hàng thương mại quan trọng nhất trên thế giới, hơn 70 quốc gia sản xuất và ngành đã tạo
cho hơn 25 triệu hộ gia đình nông dân trên toàn thế giới có công việc ổn định. Rất nhiều
quốc gia phụ thuộc vào cà phê, xuất khẩu cà phê không chỉ đóng góp quan trọng trong thu
nhập ngoại tệ mà còn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thuế thu nhập và tổng sản phẩm
quốc dân (GDP). Ngày nay hai loại cà phê được giao dịch thương mại nhiều nhất là cà
phê Arabica (gọi tắt là Arabica) và cà phê Robusta (gọi tắt là Robusta). Cà phê là một đồ
uống được ưa 1925) trở thành Sàn CSCE. Vào năm 1998, CSCE hợp nhất với Sàn giao
dịch cotton chuộng nhất hiện nay. Được các nhà sản xuất pha chế thành rất nhiều chủng
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2

THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
20
loại, cà phê bột, cà phê hoà tan với mầu sắc, hương vị khác nhau. Doanh thu uống cà phê
chiếm hơn 80 tỷ USD trong doanh thu bán lẻ hàng năm.
b. Ngành công nghiệp cà phê Việt Nam :
Cây cà phê du nhập vào Việt Nam bắt đầu từ năm 1870, nhưng đến đầu thế kỷ XX
mới được phát triển hình thành một số đồn điền. Trong những năm 60 - 70 cây cà phê
được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở miền Bắc. Thời điểm cao nhất (1964
– 1966) diện tích cà phê đạt tới 13.000 ha. Sau năm 1975, cây cà phê phát triển mạnh tại
các tỉnh Tây Nguyên. Năm1986, trồng cà phê đã trở thành phong trào, ở cả thành thị và
nông thôn miền Nam. Năm 1990, tổng diện tích trồng cà phê của cả nước là 119.300 ha,
năm 2001 lên đến 535.000 ha, sản lượng đạt trên 900.000 tấn/ niên vụ.
Trong 20 năm trở lại đây ngành cà phê Việt Nam phát triển vượt bậc, sản lượng tăng
hàng chục lần, là mặt hàng xuất khẩu đứng vị trí thứ hai, sau gạo trong danh mục hàng
nông sản xuất khẩu, với kim ngạch đạt gần 2 tỷ USD. Trên thế giới, cà phê Việt Nam
đứng vị trí số 2 về khối lượng, sau Brazil. Ngành cà phê đã thu hút trên 300.000 hộ gia
đình, với trên 700.000 lao động chuyên nghiệp, chiếm khoảng
1,9% tổng số lao động của cả nước và 2,93% tổng số lao động trong ngành nông
nghiệp; nếu tính cả số lao động có liên quan và làm việc bán thời gian thì ngành cà phê đã
thu hút trên 1 triệu người. Hiện nay nước ta có hơn 500 nghìn hécta đất trồng cà phê
(trong đó Tây Nguyên chiếm tới 90% diện tích đất trồng với 439 nghìn hécta) với năng
suất gần 1,7 tấn/ha, sản lượng bình quân mỗi năm trên 1 triệu tấn. Sản phẩm chủ yếu là cà
phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Cà phê xuất khẩu chiếm tới 90%
cà phê của cả nước.
Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu cà phê trong những năm qua đã có tác
dụng tích cực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển ngành cà phê Việt Nam, đã góp phần quan
trọng vào tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Nhưng trong sự phát triển tự phát, ào ạt
của ngành cà phê vừa qua đã chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển bền vững của ngành cà phê Việt Nam, sản xuất café ở Việt Nam vẫn trong quy
mô nhỏ lẻ. Phát triển có tính tự phát, phân tán, không có quy hoạch dài hạn cũng như

ngắn hạn, 80% sản lượng là của hộ gia đình, 10% là của chủ trang trại và 10% của các
nông trường quốc doanh. Diện tích mỗi hộ trong khoảng từ 3-5ha, mỗi trang trại 30-50ha.
Trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX, do sự kích thích về giá, sản xuất vượt ra
ngoài sự kiểm soát của nhà nước, đưa sản lượng cà phê Việt Nam nói riêng, thế giới nói
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
21
chung lên cao, vượt quá nhu cầu tiêu thụ, tạo nên khủng hoảng thừa, đẩy giá sút giảm liên
tục, giảm đến mức thấp kỷ lục. Nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới thiên về cà phê chè
(Arabica), trong khi cây cà phê của ta chủ yếu là cà phê vối (Robusta). Từ đó, cho thấy
ngành cà phê của ta đang trong tình trạng thiếu sự quản lý chỉ đạo thống nhất từ giống, kỹ
thuật thâm canh và chế biến dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành hạ.
Năm 1990 đánh dấu bước phát triển quan trọng của ngành cà phê Việt Nam khi trở
thành nước xuất khẩu cà phê thứ hai thế giới (chỉ sau Brazil) với diện tích khoảng
119,300 ha và sản lượng 93 nghìn tấn (nguồn vicofa.org.vn).
Sản lượng cà phê Việt Nam giai đoạn từ năm 1990-2010 (nguồn vicofa)
Diện tích trồng cà phê Việt Nam qua các năm 1990-2010 (nguồn vicofa)
2. Giao dịch phái sinh cà phê trên thị trường thế giới :
Ngày nay hợp đồng giao sau là một kênh quản trị rủi ro và đầu cơ rất được ưa
chuộng thế giới. Hợp đồng giao sau được phát triển cho rất nhiều sản phẩm khác nhau.
Giao sau nông sản trong đó có cà phê là một trong những sản phẩm lâu đời nhất và hiện
nay vẫn đóng vai trò to lớn trong quy mô hợp đồng của nhiều sản giao dịch lớn trên thế
giới. Có rất nhiều sàn như Liffe, Nybot, CBOT, BM&FF của Brazil, TGE của Nhật,
SICOM của Singapore…
a. S à

n

g


i a

o

d ị

c h

LI

F F

E

:
LIFFE là chữ viết tắt của London International Financial and Futures Exchange.
Được thành lập vào năm 1984 cung cấp các hợp đồng giao sau và quyền chọn kết hợp với
lãi suất ngắn hạn. Đến cuối năm 1996 Liffe là sàn giao dịch lớn nhất London. LIFEE là
sàn giao dịch cà phê Robusta thuộc mảng giao dịch phái sinh của Euronext, ngoài đơn vị
thành viên Liffe tại London Euronext còn có sàn giao dịch tại Amsterdam, Brussels,
Lisbon và Paris.
Từ năm 2000, sau khi phát triển mạng giao dịch điện tử Liffe Connect khối lượng
giao dịch tại Liffe tăng gấp đôi. Tạo cơ hội cho các thành phần được tiếp cận thị trường
vào bất cứ lức nào với tốc độ nhanh nhất. Khối lượng giao dịch trung bình của cà phê trên
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
22
sàn Liffe khoảng 12-13 ngàn lot/ngày. Lượng hợp đồng mở giao dịch đạt mức 140-180
ngàn lot, tương đương khoảng 700-900 ngàn tấn cà phê.
Các quy định khi giao dịch trên sàn

Liffe như sau :
Đơn vị giao
dịch
lot ( 5tấn
)
Giá USD/tấn
Giới hạn biến động giá tối
thiểu
1USD/tấn
-5USD/lot
Giới hạn biến động giá tối
đa
Không

Tháng giao dịch
HĐGS

hiệu
1 3 5 7 9
11
F H K N U
X
Giờ giao
dịch
9.40 am - 4.45
pm
Ngày thông báo đầu
tiên
Ngày đầu tiên của tháng giao dịch gần
nhất

Thời gian giao dịch cuối
cùng
12h30 của ngày giao dịch cuối cùng của
tháng
giao
hàng
b. Sàn giao dịch NYBOT (The New York Boad of Trade) :

Sàn giao dịch NYBOT là một trong những sàn giao dịch lớn và lâu đời nhất trên thế
giới. Tiền thân của NYBOT là sự ra đời của NYCE ( The New York Cotton Exchange)
vào năm 1870, các hợp đồng Bông lần đầu được giao dịch.
Năm 1882 các hợp đồng giao sau cà phê chính thức được đi vào hoạt động trên Sàn
giao sau cà phê và sau đó là Đường và Cocoa cũng được giao dịch trên sàn này. Đến năm
1977 Sàn giao dịch Cà phê và Đường đổi tên thành sàn giao sau Cà phê, Đường và Cocoa
CSCE (Coffee Sugar and Cocoa Exchange, Inc)
Từ năm 1982 đến 1986 các sản phẩm quyền chọn các mặt hàng trên lần lượt được
đưa vào giao dịch.
Năm 1998 hai sàn CSCE và NYCE gộp thành sàn giao sau New York.
Năm 2004 CSCE và NYCE chính thức hợp nhất thành sàn giao sau New
York (NYBOT).
Đến nay NYBOT vẫn duy trì phương thức giao dịch truyền thống thông qua các tín
hiệu và cử chỉ của các nhà môi giới trên sàn. Giao dịch sẽ được các bên tham gia xác nhận
bằng văn bản hoặc thông qua hệ thống đặt lệnh điện tử.
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
23
Sản phẩm cà phê giao dịch trên NYBOT là cà phê Arabica. Dự trữ khoảng trên 3,5
triệu bao khoảng 21 triệu tấn.
Có hai loại Hợp đồng giao sau được giao dịch : hợp đồng C và hợp đồng mini C mỗi
hợp đồng C được kí tự bởi kí hiệu “KC” tượng trưng cho 37.500 lbs (khoảng 250bao)

được chứng nhận cho sản phẩm cà phê Arabica cho một số nước trong vùng trung tâm
Nam Mỹ châu Á và Các nước Châu Phi. Hợp đồng có giới hạn biến động giá tối thiểu là
0.05 cent/lb ước lượng giá trị lá 18,75 USD/hợp đồng. Tại mức giá 70 cent/lb một hợp
đồng sẽ có mức giá cao nhất là: 26,25 USD.
Hợp đồng mini C có khối lượng bằng 1/3 hợp đồng C. Hợp đồng mini C được thiết
kế để các nhà sản xuất, bán lẻ và các nhà đầu tư có quy mô nhỏ dễ dàng tham gia thị
trường. Hợp đồng mini C có nhiều đặc điểm giống hợp đồng C. Chỉ khác biệt về kích
thước và hình thức thanh toán. Một hợp đồng Mini C cho cà phê Arabica khoảng 12.500
lb giá trị khoảng 18,75 USD một hợp đồng.
Tháng giao hàng của hợp đồng mini C được liên kết với tháng giao hàng của hợp
đồng C cho mục đích thanh toán cuối cùng. Mini C tháng 2 C tháng 3, Mini C tháng 4 C
tháng 5, Mini C tháng 6 C tháng 7,….đến tháng giao hàng nếu không đóng trạng thái sẽ
xảy ra giao hàng thật đối với hợp đồng C, nhưng với hợp đồng mini C kết thúc hợp đồng
sẽ chỉ thanh toán khoản chênh lệch bằng tiền mặt.
Đơn vị giao
dịch.
C: 37.500 lbs (250
bao)
MiniC : 12.500
lbs
Giá
US
cent/lb
Giới hạn biến động giá tối
thiểu
0,05
cent/lb
Tháng giao
dịch HĐGS


hiệu
C: 3, 5, 7, 9,
12
H K N U
Z
Mini C : 2, 4, 6, 8,
11
Giờ giao
dịch
9.45am - 2.30
pm.
Ngày thông báo đầu
tiên
7 ngày (trừ ngày nghỉ) trước tháng giao
dịch
gần
nhất.
Thời gian giao dịch cuối
cùng
1 ngày trước ngày thông báo cuối
cùng.
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
24
3. Giao dịch phái sinh cà phê ở Việt Nam:
Hiện nay các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc hạn chế rủi ro do
biến động giá. Các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay chủ yếu xuất hàng theo hình thức
trực tiếp straightline. Nghĩa là các giao dịch này được dựa theo giá cafe trên bảng giá
thanh toán của sàn Liffe nhưng giá mà công ty xuất khẩu ấn định chào bán sẽ được fixed
khi nó đáp ứng được kỳ vọng lợi nhuận của nhà kinh doanh. Với cách làm này các doanh

nghiệp sẽ có được khoản lợi nhuận khá chắc chắn, không mạo hiểm.
Giá cà phê giao sau có 6 tháng đáo hạn là tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 9
và tháng 11. Các doanh nghiệp ký hợp đồng xuất hàng cũng dựa trên giá cà phê thế giới
để ấn định giá xuất bán. Trong tháng đáo hạn thì doanh nghiệp có thể ấn định giá xuất
hàng vào bất cứ ngày nào trong tháng. Giả sử công ty ký hợp đồng 500 tấn cà phê tháng 5
thì công ty có quyền ấn định giá từ ngày 1/5 cho tới ngày 31/5. Tuy nhiên lựa chọn ngày
nào lại là tuỳ thuộc vào công ty. Nếu với mức giá mà công ty đã bù trừ được các khoản
chi phí và tạo ra một khoản lợi nhuận đạt với giá trị kỳ vọng và sự phân tích hợp lý của
doanh nghiệp thì khi đó họ sẽ chốt giá đấy.
Ngược lại, trong trường hợp giá cà phê giao ngay có những biết động bất lợi như
đang trong đà lên nhẹ rồi bất ngờ giảm mạnh trong thời gian dài, để cắt lỗ các doanh
nghiệp chốt giá ở mức thấp nhằm hạn chế khoản lỗ. Trong trường hợp này nếu công ty có
bán giao sau cho lô hàng này thì khoản lỗ sẽ được bù đắp bằng khoản lợi qua hợp đồng
mua giao sau bù trừ vị thế bán ban đầu.
Với việc tham gia hợp đồng giao sau, về lý thuyết thì khoản lãi trên hợp đồng giao
sau (hàng giấy) sẽ bù cho khoản lỗ trên hợp đồng giao ngay (hàng thật) và ngược lại.
Đem lại sự phòng ngừa rủi ro trước sự biến động giá cũng như an toàn trong kinh doanh
cho doanh nghiệp.
Nhưng thực tế, thì giá cả biến động rất thất thường. Nguyên nhân chủ yếu là do các
quỹ đầu cơ trên thế giới có những tác động làm giá cả cà phê lúc tăng, lúc giảm với biên
độ lớn. Sự biến động này đánh bật các doanh nghiệp có quy mô nhỏ ra ngoài thị trường.
Do vậy ở Việt Nam, vai trò bảo vệ của hợp đồng giao sau gần như mất tác dụng vì không
dự báo được tình hình để ra quyết định đúng lúc và không có năng lực tài chính mạnh để
có thể chịu lỗ khi tình hình bất lợi và thu lại lợi nhuận khi giá cà phê theo chiều hướng có
lợi.
NHÓM 10 – LỚP ĐÊM 2 NGÂN HÀNG 2
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁI SINH VIỆT NAM
25

×