Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.86 KB, 14 trang )

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trần Văn Phòng
TC. Khoa học xã hội
Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là tư tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: "Lý luận đi đôi với thực tiễn", "Lý luận kết hợp với thực hành", "Lý luận
và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”, "Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Dù nói
"đi đôi", "gắn liền", "kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.
Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo,
hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn
và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương
tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh
nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn
tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn
tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Nếu không có lý
luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có
không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành
cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6,
tr. 247). Những cán bộ ấy quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên
về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5,
tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn
đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý luận thì không
khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu
hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều.
Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể
hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề
thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.


Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ
với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên
(hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở thuần túy. "Lý luận cốt để áp
dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn,
hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5
tr. 234). Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều.
Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn
đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn luôn hòa quyện, thống
nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết,
bài nói Người luôn luôn đề cập tới nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau nhằm giúp
cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng về việc quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng
Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh
đã thực hiện trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các cụ phụ lão, các
cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học Như vậy,
mỗi năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều này đủ thấy Hồ Chí Minh gắn bó
với quần chúng, sâu sát với cơ sở, thực tế như thế nào.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp
phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải ra sức học
1
tập, nâng cao trình độ lý luận cũng như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có phương pháp học tập đúng đắn, học phải
đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh
giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, "lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do
đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496).
Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người luôn phê
phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa Mác- Lênin, "học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh thần Mác - Lênin"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 9 tr. 292). Đó là học theo kiểu "mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn" (Hồ

Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác
- Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và
phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta" (Hồ Chí Minh, 1995,
tập 8, tr. 497). "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân
mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của
nước ta. Học để mà làm" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên "học tập lý luận
thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này
đưa ra mặc cả với Đảng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin không phải vì chủ
nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải vì học tập thuần túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc
cả với tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên
người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học tập đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin mới có hiệu
quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác - Lênin thì còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý
luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: "Không chú trọng đến đặc điểm
của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để chống cả hai loại giáo điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn
lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận
dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh
giáo điều thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn trong việc quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc điểm dân tộc để phủ nhận
những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin. "Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ
biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại, (Hồ
Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết dùng lý luận đã học được để
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác. "… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta
cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho
cán bộ tiến tới" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 243). Người còn nhấn mạnh " cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp
cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm" (Hồ Chí Minh,
1995, tập 5, tr. 417). Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát

triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được "bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong
thực tiễn sinh động" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý
luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực
tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn
mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. "Làm
như thế theo Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có
kết quả hơn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498).
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ lý
luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm
thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng thời
thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều cũng không còn chỗ đúng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản để ngăn ngừa, khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý nghĩa hết sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho nhiều vấn đề
thực tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ, để tìm lời giải cho những vấn đề đó chúng ta phải tìm ở cả trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
2
tưởng Hồ Chí Minh cũng như ở chính thực tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta. Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổng kết những vấn đề thực tiễn hôm nay một cách có lý luận.
Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Vi Thái Lang 11/05/2007 03:07:15 PM
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan
trọng đó không chỉ ở chỗ: "Quan điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức". Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là:
"Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo
quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của đảng". Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn là cần thiết.
Để giải quyết vấn đề nêu trên, theo chúng tôi trước hết cần phải xác định rõ khái niệm thực tiễn phân biệt nó với khái niệm
hoạt động, sau đó là với khái niệm hoạt động lý luận. Trong các tài liệu khoa học, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thực
tiễn, nhưng có thể nói, chưa có một ý kiến thống nhất về vấn đề này. Tính đến các quan điểm khác nhau, chúng tôi xin trình

bày vắn tắt quan điểm của chúng tôi về khái niệm thực tiễn như sau.
Thứ nhất, thực tiễn là hình thức hoạt động đặc thù người. Khái niệm thực tiễn đặc trưng cho hoạt động sống của xã hội loài
người.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đây là điểm khác biệt của thực tiễn so với hoạt động
nhận thức.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động được chủ thể tiến hành để đạt tới mục đích được đặt ra từ trước.
Thứ tư, thực tiễn mang tính chất lịch sử xã hội. Đó là những đặc điểm chung của thực tiễn mà nhiều tác giả đã nhất trí.
Vậy thực tiễn là gì? Theo chúng tôi, có thể xác định thực tiễn là hoạt động của một chủ thể lịch sử cụ thể, trong quá trình
hoạt động ấy nó tiến hành cải tạo vật chất đối với hiện thực một cách phù họp với các mục đích của bản thân, với mô hình lý
tưởng và với trí thức của nó về hiện thực và nhờ mối liên hệ giữa đối tượng hóa và giải đối tượng hoá trong quá trình này mà
nó tự cải tạo chính bản thân mình. Định nghĩa này có thể hơi dài, song nó cho phép thâu tóm được mọi hình thức đa dạng
của thực tiễn xã hội và phân biệt nó với các hoạt động không phải là hoạt động thực tiễn. Điều cơ bản trong định nghĩa này
là ở chỗ khẳng định rằng bằng hoạt động của mình, chủ thể chuyển cái tinh thần, ý niệm thành cái vật chất và qua đó, thể
hiện ra là lực lượng tích cực của sự cải tạo.
Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào? Phải lưu ý rằng có nhiều tác giả đã đồng nhất hai khái niệm này với
nhau. Theo chúng tôi, hoạt động hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Một số
tác giả đã dựa vào câu nói của C.Mác - "Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn" - để đồng nhất hai khái
niệm "thực tiễn" và "hoạt động". Theo chúng tôi, không có cơ sở để đồng nhất hai khái niệm đó. Câu nói mang tính nguyên
tắc đó của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế
giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoiơbắc. Không phải lý
luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân
quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, không nên
đồng nhất bản chất của quá trình với bản thân quá trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình thức hoạt động nào (lý luận
chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi
bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái ý
niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là quá trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn từ thực tiễn.
Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù "hoạt động", xét về ngoại điên, là rộng hơn phạm trù "thực tiễn". Vậy thì vấn đề quan
hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu
3
như thế nào?

Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ lý luận là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là
mô hình lý luận của đối tượng. Còn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có
mặt ớ nơi có các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng trên chực tế, chứ không phải là trong
suy nghĩ. Do vậy theo chúng tôi, hoạt động lý luận khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa
học chỉ có khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của nó. Vấn đề cũng không thay
đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư
cách là hình thức được đối tượng hoá của khoa học, còn khoa học vân tiếp tục là hình chức hoạt động tinh thần của con
người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.
Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà không có tính chủ quan, tính hướng đích? Theo chúng tôi,
đây là vấn đề quan trọng để phân biệt hoạt động /ý luận với thực tiễn. Đúng là thực tiễn không thể thiếu ý thức. Song luận
điểm đó không chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực tiễn và lý luận. Thứ nhất cần lưu ý rằng
tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã đạt được trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt
động lý luận có một giá trí độc lập, còn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị như là một mô hình của
tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó ( mục đích, mô hình, lý tưởng), trong trường hợp này, không có một giá trị độc lập, nó
không có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội. Thứ hai, đương nhiên là có một cơ chế (cho dù nó
chưa được nghiên cứu đấy đủ) để đưa các kết quả hoạt động lý luận vào thực tiên. Chính cơ chế này đã chế định một khuynh
hướng nghiên cứu mới - nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn.
Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội do quần chúng tiến hành đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương
trình, phải nhận thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó không thể thiếu lý luận, lý luận được tiếp
biến vào các mục đích và các chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm
lượng lý luận nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì thực tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập
của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói
cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử - cụ thể - đó
là khâu nhận thức lý luận (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo chúng tôi, còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan
hệ chủ thề - khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây không đơn giản là con
người có tư duy lý luận, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tồng thể các đặc trưng xã hội của nó, còn
thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực tiễn có thề nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan,
nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thề, phát triển các năng lực của

mình. Như vậy, ngoài thực tiễn, chủ thể không có một phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang
việc thực hiện nó trong thế giới.
Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực, thì thông qua quan hệ chủ thể - khách
thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ ) thành cái vật chất (khách thể
được cải tạo phù hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: Từ cái ý niệm đến
cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất,
và do vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu tuyệt đối hoá sự sự chuyển biến cái ý niệm thành
cái vật chất, thì chúng ta không thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy
tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận không thể là tuyệt đối đối lập với nhau. Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết
được quy định bởi điều là: Quan hệ lý luận của con người với thế giới không bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối biệt lập với
thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã
hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức
và ý chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vòng khâu đặt mục đích của hoạt
4
động thực tiễn.
Song, sự đối lập tuyệt đối đó không có nghĩa là không có sự đối lập tuyệt đối giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên
chế định và phục vụ thực tiễn, song chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi tạo
thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ
khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng
không có khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tướng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý
tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô. hình lý luận. Theo chúng tôi, cần phái nhấn mạnh tính đặc thù,
tính độc lập của lý luận để không rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy luật phát triển của riêng lý
luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối của lý luận là có tính chất tương đối. Thí dụ, lý luận
cách mạng hoàn toàn không phải là thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý
luận cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản thân lý luận bắt
nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn
khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo chúng tôi cần được-vạch rõ cả trên các bình điện bản thể luận lẫn nhận thức

luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất của mối liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật
chất có thể tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là hình thức vả trình độ của ý thức
có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính "thử nhất" và "thứ hai" áp dụng được vào quan hệ giữa vật
chất và ý thức, thì chúng lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo chúng tôi, ở đây chỉ có thể nói
tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách khác, xét về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn
tạo thành một thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự thống nhất này
là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên
nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu ý thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập , thì thực tiễn và lý luận lại không tuyệt đối
đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện
thực và bản thân hiện thực. Trong lý luận nhận thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản thân lý luận. Các nhà
duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ không biết đối chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước
các lý lẽ của chủ nghĩa duy tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng ta cũng sẽ vấp phải
vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn? Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong
nhận thức luận chính là ở chỗ: ông đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt đối đối lập với vật chất,
Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn
xã hội hoàn thành vai trò thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó không đối lập tuyệt đối mà đối lập tương
đối với ý thức về mặt nhận thức luận và do nó luôn là hệ thống những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy,
không nên tuyệt đối hoá cả tính chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện
chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của quá trình đó, theo chúng tôi, là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta
luôn có được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều
máy móc và bệnh lý luận suông.
5
Cần có những đột phá về lý luận, tạo cơ sở vững chắc cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng trong thời
kỳ mới
Nông Đức Mạnh - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Cập nhật: 26/3/2007)
Lời Bộ Biên tập: Sáng ngày 24-3, tại Hà Nội, Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2006-2010 đã khai mạc Kỳ họp
thứ nhất. Các đồng chí: Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương; Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ

Chính trị, Chủ tịch Quốc hội; Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí Thư Trung ương; Phạm
Thế Duyệt, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng nhiều đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương tới dự. Tham dự Kỳ họp có đầy đủ các thành viên Hội đồng Lý luận Trung
ương nhiệm kỳ 2006-2010, đại diện các cơ quan, ban, bộ, ngành Trung ương, các cơ quan thông tấn báo chí ở Trung
ương và Hà Nội.
Tại Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Lý luận Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu
quan trọng đề cập vai trò, trách nhiệm và những định hướng lớn của công tác lý luận trong thời kỳ mới. Tạp chí Cộng
sản xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu quan trọng đó.
Thưa các đồng chí,
Hôm nay, tôi rất vui mừng đến dự Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Lý luận Trung ương, nhiệm kỳ 2006-2010. Tôi nhiệt liệt
hoan nghênh các đồng chí, các giáo sư, các nhà khoa học, đại biểu các cơ quan tham mưu, quản lý, nghiên cứu và giảng dạy
lý luận trong cả nước, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và Hà Nội đã đến dự kỳ họp này.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tôi thân ái gửi tới các đồng chí những lời chúc mừng tốt
đẹp nhất. Chúc Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2006-2010 thành công tốt đẹp, tiếp tục hoạt
động theo tinh thần đổi mới, năng động và sáng tạo, chất lượng và hiệu quả, làm cho Hội đồng Lý luận Trung ương thực
hiện tốt trọng trách của mình là cơ quan tư vấn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý
luận chính trị, phục vụ sự lãnh đạo, phát triển và hoàn thiện đường lối của Đảng.
Thưa các đồng chí,
Bộ Chính trị đánh giá cao những kết quả hoạt động của Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2001-2005. Trong nhiệm kỳ
vừa qua, Hội đồng đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa IX giao
cho, đặc biệt đã góp phần trực tiếp và quan trọng vào việc tổng kết thành công một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm
đổi mới; đã cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, nhất là cho việc chuẩn bị
các văn kiện Đại hội X của Đảng. Hội đồng cũng đã phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức triển khai và nghiệm thu 8
chương trình khoa học cấp nhà nước; đấu tranh, phê phán những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch để bảo vệ chủ nghĩa
Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt
Nam. Ngoài ra, Hội đồng đã tổ chức chu đáo và có kết quả một số hội thảo khoa học quốc tế.
Những đóng góp tích cực, nhiệt tình, tâm huyết của đông đảo các nhà khoa học, của giới lý luận nước ta, từ các viện nghiên
cứu, các nhà trường và học viện, các ban đảng ở Trung ương đến các cơ quan nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở các địa
phương, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Hội đồng Lý luận Trung ương đã làm nên những kết quả đó.
Đại hội X của Đảng đã khẳng định: 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi

mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Những kết quả và thành tựu mà giới lý luận
nước ta đạt được trong 20 năm đổi mới vừa qua là rất đáng khích lệ và đáng trân trọng, cho phép chúng ta tin tưởng vào tiềm
6
năng và triển vọng của đội ngũ trí thức nước nhà. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hy vọng, đồng thời cũng đòi hỏi các nhà
khoa học, các nhà lý luận tiếp tục có nhiều tìm tòi, sáng tạo, có những công trình lớn, đóng góp tài năng, trí tuệ và trách
nhiệm của mình vào việc tạo ra những đột phá lý luận, đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Thưa các đồng chí,
Nhân Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2006-2010, tôi xin nêu một số gợi ý với các đồng chí và
đội ngũ làm công tác lý luận ở nước ta:
1- Vai trò của lý luận và trách nhiệm của giới lý luận nước ta trong thời kỳ mới
Như các đồng chí đều biết, Đại hội X của Đảng đã tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, vạch ra
mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm (2006-2010), hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế
kỷ XXI, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thành tựu của 20 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Giới lý luận nước ta, bằng những kết quả nghiên cứu sáng tạo
của mình đã có những đóng góp xứng đáng làm nên những thành tựu đó. Đồng thời, Đại hội X đã chỉ rõ: công tác tư tưởng
còn thiếu tính thuyết phục, công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Không có lý luận cách mạng thì không
có phong trào cách mạng, không có lý luận tiên phong dẫn đường thì Đảng không thể làm tròn vai trò, sứ mệnh tiên phong
của mình. Ngày nay, hơn lúc nào hết, Đảng ta với tư cách là một đảng cộng sản cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo Nhà
nước và xã hội để thực hiện các mục tiêu của đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng phải làm
chủ lý luận khoa học và cách mạng, phải không ngừng tự mình đổi mới tư duy, đổi mới phương thức lãnh đạo, đổi mới tổ
chức bộ máy và nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên, đổi mới mạnh mẽ bằng hành động thực tế để thúc đẩy đổi mới xã
hội.
Không thể nâng cao được tiềm lực trí tuệ của Đảng nếu không có lý luận, không chú trọng nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và
phát triển lý luận chính trị từ thực tiễn, trong thực tiễn. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng trong điều kiện mới, với sự phát triển
mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân và thực hành dân chủ rộng rãi, mở rộng giao lưu, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc

tế… đặt ra nhiều vấn đề mới, khó khăn, phức tạp, khác rất xa so với các thời kỳ trước đây, đòi hỏi Đảng phải có sự trưởng
thành vượt bậc về lý luận.
Đội ngũ trí thức của Đảng, trước hết là giới lý luận nước ta phải chủ động, tự giác phấn đấu quyết liệt để đáp ứng yêu cầu
ấy, sao cho những kết quả nghiên cứu lý luận đủ sức cung cấp kịp thời những luận cứ khoa học và thực tiễn, làm cơ sở cho
sự hình thành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cách mạng. Lãnh đạo chính trị của Đảng
phải dựa trên cơ sở khoa học hiện đại. Chính trị, nói một cách sâu xa, căn bản nhất chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích
của Đảng, của dân tộc và quyền làm chủ của nhân dân, số phận của hàng triệu, triệu người. Bản lĩnh chính trị là sức mạnh và
là nhân tố bảo đảm cho Đảng giữ vững được phương hướng chính trị ở những thời điểm bước ngoặt. Đây là vấn đề hệ trọng,
sống còn, quyết định sự thành, bại của cách mạng, sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Song, bản lĩnh chính trị ấy, không chỉ
do kinh nghiệm, vốn sống, sự từng trải, sự trong sáng đạo đức của Đảng, của cán bộ, đảng viên bảo đảm là đủ, mà còn đòi
hỏi sự sáng suốt lý luận, trình độ, năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt của các cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt ở cấp cao.
Các Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin và Hồ Chí Minh – những lãnh tụ cách mạng bậc thầy, những nhà tư tưởng kiệt xuất,
trước hết ở chỗ các lãnh tụ đó, với nhãn quan chính trị rộng lớn, tầm nhìn thời đại và tư duy chiến lược, trong khi giải quyết
các nhiệm vụ chính trị thực tiễn luôn phải tìm ra câu trả lời sáng rõ về lý luận, tìm đúng giải pháp lý luận cho mỗi vấn đề của
thực tiễn. Chỉ có như vậy mới tránh xa được chủ nghĩa kinh nghiệm thiển cận. Lẽ dĩ nhiên, đó là lý luận gắn liền với thực
tiễn sinh động, nẩy mầm từ thực tiễn, được tổng kết và khái quát từ thực tiễn, lại phải được chính thực tiễn kiểm nghiệm,
điều chỉnh. Nó rất xa lạ với giáo điều sách vở, thoát ly cuộc sống.
7
Sinh thời, Bác Hồ đã từng dạy chúng ta: Lý luận phải thống nhất với thực tiễn, phải đề phòng căn bệnh chủ quan mà phần
nhiều do kém lý luận, không hiểu lý luận, coi khinh lý luận mà ra. Người lưu ý rằng, lý luận mà không thực hành là lý luận
suông, vô ích; còn thực tiễn mà không có lý luận, là thực tiễn mù quáng. Với cán bộ, đảng viên, công chức, Người đòi hỏi
phải thạo chính trị, giỏi chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, tận tụy phục vụ nhân dân, phải trau dồi lý luận, tu dưỡng đạo
đức, rèn luyện tư tưởng, đổi mới cách nghĩ, cách làm, gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân để phục vụ dân ngày một tốt hơn.
Phải chống giáo điều sách vở, phải thường xuyên đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế và từ thực tiễn mà đúc kết lý
luận.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu và trên quy mô rộng lớn, khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một vấn đề lý luận rất
mới, chưa có tiền lệ. Xây dựng chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giao lưu, hội
nhập, hợp tác song phương và đa phương đi liền với cạnh tranh, thời cơ đan xen thách thức. Chúng ta phải làm gì và làm

như thế nào để phát triển bền vững, bình đẳng với thế giới trong hội nhập kinh tế quốc tế, mà vẫn giữ được độc lập chủ
quyền, vẫn bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vẫn giữ vững được định
hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước, đấu tranh chống lại những luận điệu thù địch, sai trái có hiệu quả.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải như thế nào để Đảng thật sự là lực lượng lãnh đạo ở tầm chiến lược, bao quát
toàn diện nhưng không rơi vào bao biện, làm thay Nhà nước, phải làm cho Nhà nước mạnh lên, quản lý có hiệu lực, hiệu
quả, đồng thời Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Đây thật sự
là điều cốt yếu của lý luận chính trị, của đổi mới hệ thống chính trị. Mặt khác, phải cụ thể hóa đường lối, chủ trương thành
các chính sách và giải pháp để quan điểm về phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội đi vào cuộc sống.
Xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như thế nào để tránh được tập trung quan liêu và tự do vô
chính phủ, khắc phục dân chủ hình thức, để có dân chủ thực chất, nhất là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện như thế nào vấn đề dân
chủ trong Đảng, dân chủ trong xã hội và sự phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, nhất
là trong một nước có nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo, trong một chế độ chính trị với một đảng cộng sản cầm quyền như ở nước
ta, v.v Đây là những vấn đề có ảnh hưởng sâu xa ở tầm chiến lược và cũng là vấn đề thời sự ở nước ta hiện nay.
Nếu không có những kiến giải sâu sắc và đúng đắn về lý luận thì khó lòng có những bước tiến thực sự về mặt thực tiễn. Điều
ấy càng cho thấy lý luận có vai trò quan trọng như thế nào và giới lý luận của nước nhà có trọng trách, có vinh dự to lớn
nhường nào.
Tôi lưu ý các đồng chí một nhận định quan trọng có tính tự phê bình rất nghiêm túc của Đảng tại Đại hội X: Tư duy của
Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt
được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo, điều hành… Lý luận chưa giải
đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các
mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế…
Tôi mong rằng, các đồng chí sẽ suy nghĩ sâu sắc, nghiên cứu nghiêm túc nhận định này. Từ đây có thể gợi mở nhiều điều để
các đồng chí xác định các chương trình, các đề tài nghiên cứu sắp tới nhằm đóng góp có hiệu quả hơn nữa, tìm ra những câu
trả lời lý luận sáng rõ cho thực tiễn lãnh đạo chính trị của Đảng. Chính điều ấy là trách nhiệm rất to lớn của công tác lý luận,
của giới lý luận mà Hội đồng Lý luận Trung ương phải đóng vai trò nòng cốt trong việc tổ chức thực hiện.
2- Những định hướng lớn trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng và sớm chuẩn bị tích cực về mặt tư tưởng – lý luận cho việc bổ sung,
phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hướng tới Đại hội XI, đội ngũ các nhà
khoa học và giới lý luận nước ta ngay từ bây giờ cần tổ chức tốt các hoạt động nghiên cứu, trong đó chú trọng đúng mức
8
nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và tổng kết thực tiễn, đồng thời quan tâm tốt hơn nữa, có hiệu quả xác thực hơn nữa những
nghiên cứu dự báo.
Từ thực tiễn và kinh nghiệm của đổi mới đã tích lũy được, từ yêu cầu mới đặt ra hiện nay và từ xu thế quốc tế, triển vọng
phát triển của đất nước, giới lý luận nước ta cần tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận then chốt nhất dưới đây:
Thứ nhất, vận dụng sáng tạo và phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
trong thời đại ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cần nhận thức cho đúng về bản chất chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ những giá trị bền vững, đồng
thời phải chỉ rõ những vấn đề cần bổ sung, điều chỉnh, những vấn đề phải phát triển mới cho phù hợp với thực tiễn đất nước,
con người, dân tộc ở nước ta và thời đại ngày nay.
Chúng ta cần có những đột phá trong nghiên cứu để có nhận thức mới và phát triển hơn nữa lý luận về chủ nghĩa xã hội, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đó là bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội, là mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chú trọng vào các yếu tố thị trường và các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh, sự năng động của doanh nghiệp
trong kinh tế thị trường, hoàn thiện các loại hình thị trường, xây dựng thể chế kinh tế thị trường sao cho phù hợp với yêu
cầu chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Điều sâu xa trong nghiên cứu lý luận đổi mới kinh tế là giải phóng và phát triển mạnh mẽ sức sản xuất làm cơ sở cho sự
hình thành một quan hệ sản xuất mới thích hợp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức.
Thứ ba, nghiên cứu các vấn đề lý luận chính trị - xã hội, chính sách xã hội và quản lý xã hội mà trọng điểm là xây dựng
đảng cộng sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do
dân và vì dân, thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mối quan hệ giữa dân chủ, đoàn kết và đồng thuận
xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nghiên cứu làm rõ lý luận về đảng cầm quyền, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, về phân công quyền lực và giám
sát quyền lực trong Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, về xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước hết
là phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng. Phải chú trọng nghiên cứu những biến đổi về cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, phân
hóa giàu nghèo ở nước ta, trong đó đặc biệt chú trọng nghiên cứu để có chính sách quốc gia và chiến lược phát triển giai cấp

công nhân, nghiên cứu chương trình phát triển toàn diện, đồng bộ nông thôn – nông nghiệp – nông dân, chính sách tạo động
lực phát triển đội ngũ trí thức, trọng dụng hiền tài, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc và có đường lối, chính sách tôn giáo,
tín ngưỡng đúng đắn. Nghiên cứu các vấn đề về gia đình, thực hiện bình đẳng giới cho phụ nữ.
Thứ tư, nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam, sao cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, phát triển con
người là mục tiêu và động lực của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt chú trọng nghiên cứu làm rõ tư tưởng về chấn
hưng giáo dục, xây dựng đạo đức, nhân cách, lối sống cho con người Việt Nam, nhất là giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức
chính trị, đạo đức và lối sống cho thế hệ trẻ. Trong xây dựng và phát triển văn hóa cần chú trọng văn hóa trong Đảng; Đảng
phải là đạo đức, là văn minh.
Thứ năm, nghiên cứu các vấn đề về bảo vệ Tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng, chiến lược an ninh quốc gia, đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, bảo vệ môi trường là những đề tài nghiên cứu rất quan trọng.
Cần có những đột phá về lý luận, khắc phục những hạn chế mà lý luận trong thời gian qua chưa vượt qua được, tạo cơ sở
vững chắc cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới.
3- Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Lý luận Trung ương
9
Để làm tốt chức năng tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị
phục vụ sự lãnh đạo, phát triển và hoàn thiện đường lối của Đảng, Hội đồng Lý luận Trung ương cần phải đổi mới mạnh mẽ
tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động để thực sự làm hạt nhân tập hợp và quy tụ tốt nhất những năng lực nghiên cứu,
sáng tạo của các chuyên gia, các nhà khoa học tiêu biểu của đất nước, từ các viện nghiên cứu, các trường đại học, các học
viện đến các cơ quan nghiên cứu; chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở Trung ương và địa phương để nghiên cứu và tổng kết những
vấn đề lớn, liên quan trực tiếp đến việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; đóng góp kịp thời những
luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hình thành các quyết sách của Đảng trong thời kỳ mới.
Một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng mà Hội đồng và các đồng chí cần dành nhiều thời gian, công sức, huy động
khả năng nghiên cứu từ nhiều cơ quan khoa học trong cả nước, nhất là của các chuyên gia cho việc tổng kết thực hiện
Cương lĩnh năm 1991, nghiên cứu bổ sung và đề xuất những vấn đề mới để phát triển và hoàn thiện Cương lĩnh, vào việc
soạn thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020. Các đồng chí cần chủ động tư vấn cho cơ quan lãnh đạo
cấp cao của Đảng những vấn đề lý luận ở tầm chiến lược để phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội
X, đồng thời sớm chuẩn bị những luận cứ khoa học cho việc xây dựng văn kiện Đại hội XI của Đảng.
Hoạt động của Hội đồng Lý luận Trung ương phải tạo ra môi trường dân chủ và động lực khuyến khích những tìm tòi, sáng
tạo của các nhà khoa học, của giới lý luận nước ta, tập hợp và phát huy được trí tuệ của từng cá nhân và của từng tập thể
khoa học, cộng đồng trách nhiệm để có những đóng góp lý luận kịp thời, hữu ích cho Đảng.

Trong sinh hoạt học thuật và tư tưởng, Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ này cần coi trọng hơn nữa phát huy dân chủ,
trân trọng mọi tìm tòi, sáng tạo, tôn trọng các ý kiến khác biệt, cùng nhau thảo luận, tranh luận theo đúng chuẩn mực khoa
học và dân chủ để tìm ra chân lý. Trước những vấn đề mới mẻ, phức tạp, ý kiến khác nhau là chuyện bình thường, điều quan
trọng là động cơ phải trong sáng, tâm huyết và trách nhiệm cao nhất của mỗi người trước Đảng, nhân dân và dân tộc, giữ
vững nguyên tắc, đề cao ý thức chính trị và đạo đức trong khoa học. Bác Hồ đã để lại cho chúng ta những chỉ dẫn thật sâu
sắc về vấn đề dân chủ trong khoa học, trong quan hệ con người, rất thiết thực cho đội ngũ trí thức. Người nhấn mạnh rằng,
trong một xã hội dân chủ, ai ai cũng có quyền tự do thảo luận, tranh luận để cùng nhau tìm tòi chân lý, khi chân lý đã tìm
thấy rồi thì quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Mong các đồng chí suy nghĩ sâu sắc về điều đó và
thể hiện trong hoạt động nghiên cứu, trong quan hệ công việc và con người, để Hội đồng Lý luận Trung ương hoạt động
trong môi trường dân chủ nhất, đúng nguyên tắc, quy chế, có những sản phẩm cụ thể, thiết thực đóng góp vào việc hoạch
định, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước, tạo sự phát triển đột phá về lý luận, tư vấn
cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Nhân kỳ họp quan trọng này, một lần nữa, tôi thân ái gửi tới các đồng chí có mặt ở đây và gửi tới tất cả đội ngũ trí thức, giới
lý luận nước ta lời chúc sức khỏe, thành đạt và hạnh phúc. Chúc Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2006-2010 hoàn
thành xuất sắc những nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và của nhân dân.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí.
Học tập Bác Hồ về lý luận và thực tiễn, nói và làm
Hồ Chủ tịch là người Việt Nam đầu tiên đã lấy Chủ nghĩa Mác- Lê nin làm lý luận soi đường cho thực tiễn cách mạng nước
ta. Năm 1920, Người được đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin. Sau khi nghiên cứu, Người đã sung
sướng nói lên rằng: " Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta". Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng
vô sản", chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ".
Trong quá trình lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hồ Chủ tịch đã để lại cho chúng ta những bài nói chuyện, những chỉ thị, những
lời kêu gọi, khuyên răn vô cùng quý báu về đường lối, chủ trương, đạo đức, tác phong theo quan điểm Chủ nghĩa Mác- Lê
nin. Chính Người đã thực hiện lời của Mác: "Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập được vào quần
chúng". Người đã mở các lớp huấn luyện lý luận cho cán bộ, đảng viên ngay từ những năm 1927, trong hoàn cảnh hoạt động
bí mật. Những tài liệu lý luận này được người diễn đạt dưới một hình thức giản dị. Nhờ đó đã góp phần trực tiếp đào tạo
10
những cán bộ hoạt động thực tiễn thích hợp với hoàn cảnh khó khăn của cách mạng lúc bấy giờ. Sau này khi Đảng nắm

được chính quyền, có điều kiện thuận lợi hơn, Hồ Chủ tịch đã quan tâm đến giáo dục lý luận Mác - Lê nin có hệ thống và
sâu rộng hơn ở các Trường Đảng.
Hồ Chủ tịch nói: " Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế, không có lý
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận". Người còn nói:
"thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mac- Lê nin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". Lê nin cho rằng lý luận cách
mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy
tính sáng tạo, lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tế sinh động , do vậy phải cụ thể
hóa Chủ nghĩa Mác- Lê nin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Hồ Chí Minh kiên quyết chống bệnh
chủ quan và cho đó là chứng bệnh nguy hiểm bậc nhất, tác hại to lớn đến cách mạng. Người nói: "Không biết nhận rõ điều
kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại" và nêu nguyên nhân của bệnh chủ
quan là do "kém lý luận hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông". Người phê bình những biểu hiện của bệnh chủ quan, chủ
nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Người chỉ rõ tác hại to lớn của bệnh kinh nghiệm trong cán bộ ta. Trong quá trình
công tác, mỗi cán bộ đều có một số kinh nghiệm, những kinh nghiệm đó rất đáng quý, nhưng nếu dừng lại ở đó thì không
đủ. Hồ Chủ tịch nói: "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng chẳng qua cũng từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà
thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ. Những anh em đó cần nghiên cứu thêm về
lý luận mới thành người cán bộ hoàn toàn". Hồ Chủ tịch còn phê phán bệnh giáo điều: "Có những người xem được sách,
xem nhiều sách. Siêng xem sách và xem nhiều sách là một việc đáng quý. Nhưng thế không phải đã là biết lý luận".
Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng
nghìn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều sách để
mà lòe, để làm ra đây, thế không phải là biết lý luận. Những anh em đó, cần phải ra sức thực hành mới thành người biết lý
luận.
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta phải ra sức học tập kinh nghiệm của các nước,
nhưng phải chống bệnh giáo điều, rập khuôn máy móc. Nước ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Có như vậy nền kinh tế của nước nhà mới phát triển bền vững.
Trong công tác tuyên truyền, Hồ Chủ tịch nói: "Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: viết cho ai xem? nói cho ai
nghe? nếu không vậy thì cũng như có ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem". Người còn luôn
nhắc nhở phải cải tiến tiếng nói của ta. Người phê phán những đồng chí nói dài dòng, rổng tuếch, báo cáo bông lông, không
nêu được đúng tình hình địa phương hay ngành mình, thậm chí còn báo cáo sai sự thật, che dấu khuyết điểm, đề cao thành
tích để được khen.

Hồ Chủ tịch đòi hỏi cán bộ phải làm nhiều hơn nói và rất coi trọng thực tiễn. Người yêu cầu "phải đào tạo một số cán bộ có
gan phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc". Người cán bộ phải biết cách làm đúng, phải biết tổ chức công việc của mình
cho khoa học, phải điều tra nghiên cứu tìm hiểu đúng tình hình để đề ra những chủ trương sát hợp. Khi đã có chủ trương thì
phải tổ chức thực hiện cho đúng. Sau đó phải tiến hành kiểm tra rút kinh nghiệm. Đó là phương pháp làm việc khoa học đem
lại hiệu quả thiết thực. Người dạy người lãnh đạo, chỉ đạo phải có trọng tâm trọng điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo nơi khác.
Phải biết cách nắm khâu chính trong công tác. Việc chính, việc gấp thì phải làm trước.
Người cán bộ phải biết lắng nghe quần chúng, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để đề ra những chủ trương,
chính sách nhằm phục vụ lợi ích của quần chúng. Người nghiêm khắc phê phán bệnh quan liêu, cửa quyền, ức hiếp quần
chúng, lên mặt "quan cách mạng". Người cũng chỉ rõ, muốn biến chủ trương, chính sách thành hành động cách mạng thực
tiễn thì phải có biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Chúng ta nói chủ trương một thì biện pháp phải mười, hai mươi
Hồ Chủ tịch đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa học và hành. Người nói: "Học để hành, học với hành phải đi đôi. Học
mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy". Người thường căn dặn: "huấn luyện phải nhắm
đúng yêu cầu", nội dung huấn luyện phải phục vụ nhiệm vụ chính trị từng giai đoạn một, phải phù hợp với yêu cầu đào tạo
của những ngành công tác khác nhau.
Hồ Chủ tịch khuyên cán bộ, Đảng viên không chỉ học tập ở trường lớp mà phải gắn việc học trong trường với cuộc sống
11
ngoài xã hội, phải tổ chức học kinh nghiệm của nhau.
Phương pháp giáo dục cán bộ của Bác rất phù hợp đối với từng cán bộ cụ thể, tinh tế, sâu sắc. Có một lần Bác viết thư cho
thiếu tuớng Nguyễn Sơn, ngoài để tặng Sơn đệ (gửi chú Sơn), bên trong có một danh thiếp xinh xắn, giản dị, mặt trước in rõ
3 chữ Hồ Chí Minh, mặt sau có 4 dòng viết nắn nót, ngay ngắn:
Đảm dục đại
Tâm dục tế
Trí dục viên
Hành dục phương
Chỉ vỏn vẹn 12 chữ, đã làm thiếu tướng Nguyễn Sơn tỉnh ra nhiều và có nhiều điều suy nghĩ khác trước. Đảm dục đại là gan
phải cho to, bao quát nhiều đức dũng cảm lớn, không chỉ đòi hỏi chiến đấu gan dạ mà còn phải biết táo bạo, dám nghĩ, dám
làm những việc lớn. Tâm dục tế là tấm lòng, tâm hồn phải trong sáng, tinh tế, kín đáo, thanh nhã, không thô, lổ mãng. Trí
dục viên là suy nghĩ phải trọn vẹn, toàn diện, đầy đủ, chu đáo. Hành dục phương là hành động phải ngay thẳng, đúng đắn,
chân tình, phân minh, đàng hoàng, không méo mó, cong queo.
Hiện nay Đảng ta mở rộng dân chủ nhằm xây dựng Đảng và Nhà nước ta trong sạch vững mạnh. Từng người cán bộ và nhân

dân phải thấm nhuần lời dạy của Bác, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng đi đến thắng lợi huy hoàng./.
KỸ NĂNG QUAN HỆ - GIỮ MỐI QUAN HỆ KHÉO LÉO
Con người luôn đi tìm niềm vui hạnh phúc nhưng lắm khi họ quên rằng có những việc rất tầm thường khiến họ không tìm ra
những mối quan hệ những giao lưu tình cảm dù là chuyện đơn giản với người này sao lại khó khăn với ta đến thế? Hãy xem
người hạnh phúc, họ đã làm việc đó như thế nào nha!
Những mối quan hệ tốt nhất là những mối quan hệ phát triển theo thời gian với người mà bạn thực sự quan tâm đến. Hãy
hiểu rõ một người trước khi bạn đi đến quyết định quan trọng nào liên quan tới sự cam kết của bạn trong quan hệ với người
đó. Sau đây là một số ý tưởng phổ biến về các mối quan hệ và một số hướng dẫn giúp bạn bắt đầu có những mối quan hệ
“khéo léo”.
Ý tưởng
1. Bạn sẽ có khả năng thay đổi cách cư sử của người khác nếu bạn đủ kiên nhẫn.
2. Nếu một người có sự thân mật gần gũi với bạn có nghĩa là người đó đã thực sự quan tâm tới bạn.
3. Đối với bạn sẽ không có ai tốt hơn người đó nếu các bạn chia tay.
Hướng dẫn
1. Hãy để cho mối quan hệ phát triển theo thời gian.
2. Đừng cảm thấy bị sức ép, hãy để mối quan hệ tiến triển cho tới khi bạn cảm thấy sẵn sàng.
12
3. Đừng cho phép bản thân bạn bị dụ dỗ tới những hành vi mà làm bạn cảm thấy không được thoải mái.
4. Hãy dành thời gian với người kia trước tiên là trong cùng nhóm đã.
5. Phải biết được bạn mong chờ điều gì trong mối quan hệ đó và thành thật nói chuyện với nhau về những điều bạn mong
muốn trước khi đi xa hơn nữa.
Có những cách thành công và thất bại để giữ các mối quan hệ và tình yêu của bạn. Điều quan trọng là bạn phải
xác định được những lựa chọn quan hệ tốt, “khéo léo” để bạn có thể có những mối quan hệ hạnh phúc, lành mạnh
cho cuộc sống của bạn! Hãy xem bảy nguyên tắc của mối quan hệ “khéo léo” dưới đây:
Bảy Nguyên tắc của Mối quan hệ Khéo léo
Nguyên tắc 1: Tìm người hợp với mình. Hãy tìm những sở thích chung.
Những người có mối quan hệ hạnh phúc nhất thường có rất nhiều điểm chung. Họ thường là những người có độ thông
minh như nhau và có chung sở thích. Nếu bạn có mối quan hệ “khéo léo” bạn sẽ phát hiện ra các bạn có điểm gì chung. Khi
có những mối quan hệ tốt, người ta thường thích cùng nhau làm các việc và cùng nhau chuyện trò. Người này thấy người
kia rất thú vị và dễ chịu. Nhớ là: Sở thích chung là điều bắt buộc phải có!

Nguyên tắc 2: Chú ý tới giá trị
Các mối quan hệ thường có những rắc rối lớn nếu những giá trị cơ bản không được chia sẻ cùng nhau. Bước quan trọng
đầu tiên là bạn phải xác định được giá trị riêng của bản thân bạn. Hãy dành một chút thời gian nghĩ về những niềm tin và
giá trị sâu sắc nhất của bạn về cuộc sống – về việc đối xử với bạn bè như thế nào, về việc bạn muốn được đối xử như thế
nào, về những mối quan hệ gia đình của bạn, về sự chân thật, về những gì bạn cho là đúng, là sai, về rượu, về tình dục.
Sau khi xác định rõ những giá trị đó rồi bạn cần biết xem người bạn của bạn có cùng chung những giá trị đó với bạn không
và có tôn trọng những giá trị của bạn không. Nhớ là: Những giá trị là rất quan trọng!
Nguyên tắc 3: Đừng cố thay đổi người kia
Đôi khi người ta yêu với ý tưởng là muốn người yêu sẽ như thế nào chứ không phải họ thực sự là người thế nào. Có lúc
một người tin là họ có thể “sửa” hoặc "cảm hoá” được người kia. Bạn đừng ngốc nghếch tin vào điều này! Sự thực của mối
quan hệ là thế này: Những gì bạn thấy sẽ là những gì bạn có được! Một mối quan hệ hay một tình bạn mà một người cố
thay đổi người kia thành người khác thì kết thúc sẽ bị thất bại. Nhớ là: Những gì bạn thấy sẽ là những gì bạn có được!
Nguyên tắc 4: Đừng cố thay đổi bản thân mình
Bạn không nên cố trở thành mẫu người mà người bạn của bạn muốn. Điều quan trọng hãy là chính bản thân bạn. Đừng giả
vờ làm những điều bạn thích, không thích, những giá trị của bạn, niềm tin của bạn là những gì đó khác với thực tế. Hãy là
“chính bạn” và tìm những người thích bạn với những gì bạn có là điều quan trọng cho mối quan hệ tốt. Nếu bạn thấy bạn
phải thay đổi cho phù hợp với người kia thì bạn đã phát hiện ra dấu hiệu nguy hiểm rồi. Nhớ là, không có ai hoàn hảo. Tất
cả chúng ta đều có những thiếu sót. Điều này không có nghĩa là bạn không muốn có thay đổi hay tiến bộ mà bạn mong
muốn cho bản thân mình. Nhớ là: Hãy trung thực với bản thân bạn!
Nguyên tắc 5: Hãy trông đợi việc giao tiếp tốt và đừng chạy trốn xung đột
Hãy nói về những sự khác biệt và xung đột trong quan hệ yêu đương. Đừng né tránh. Đừng giữ yên lặng và cho rằng như
vậy sẽ tốt hơn. Làm thế nào để giao tiếp với nhau và giải quyết các xung đột sẽ đưa đến thành công rất lớn trong tương lai
và sự thoải mái mà bạn muốn có trong quan hệ với người nào đó. Nhớ là: xung đột là không thể tránh khỏi trong trong bất
cứ mối quan hệ thân thiết nào. Hay có một cách khác là - mọi người đều đấu tranh. Nhưng sự khác nhau giữa mối quan hệ
hạnh phúc và không hạnh phúc là bạn đấu tranh như thế nào. Đấu tranh chính đáng là cái gì đó mọi người có thể học hỏi.
Nhiều người ngồi yên lặng khi họ bực tức và sau đó thì “bùng nổ” với tất cả sự bức xúc của họ. Giải quyết sự khác biệt và
xung đột khi mới xuất hiện sẽ tốt hơn. Hãy tự hỏi bản thân bạn: bạn xử lý sự tức giận như thế nào? Bạn của bạn xử lý sự
tức giận như thế nào? Nhớ là: Đừng né tránh xung đột!
13
Nguyên tắc 6: Đừng trêu đùa, ép buộc hay lôi kéo người khác

Như người ta nói – đừng trêu đùa hay lôi kéo người khác. Nếu bạn tìm kiếm một tình bạn thực sự hay một người bạn trai,
bạn gái thực sự thì mối quan hệ của các bạn phải dựa trên sự chân thật, tính chính trực và thật thà. Đừng lôi kéo người
khác làm những gì bạn muốn (ví dụ bằng việc làm cho họ ghen tức). Một mối quan hệ có giá trị là mối quan hệ thực sự
không dựa trên sự lừa dối, trò đùa hay sự lôi kéo. Nhớ là: Hãy chân thật!
Nguyên tắc 7: Quyết định xem bạn muốn được đối xử như thế nào
Hãy tạo ra một chuẩn mực mà bạn muốn được đối xử và chuyện trò như thế nào. Nếu một người nói chuyện với thái độ
không tôn trọng bạn thì họ cũng sẽ không đối xử với bạn theo cách tôn trọng. Đừng bao giờ kiếm lý do hay bỏ qua cho các
hành vi xấu xa. Bạn cũng nên trông chờ sự tôn trọng của người bạn của bạn đối với bạn về vấn đề ngôn ngữ, rượu và tình
dục. Nhớ là: Hãy mong muốn sự tôn trọng!

TẠO DỰNG VÀ DUY TRÌ MỐI QUAN HỆ - BÍ QUYẾT ĐỂ THÀNH CÔNG
Nhiều người cho rằng kỹ năng quan trọng bậc nhất ngày nay để có thể thành công trong sự nghiệp chính là: kỹ năng tạo
dựng và duy trì các mối quan hệ. Kỹ năng này đặc biệt quan trọng khi bạn cần phải trải qua một vài công việc mới có thể
đạt được mục tiêu nghề nghiệp của mình. Một vài mối quan hệ mà bạn cần duy trì tại công sở có thể kể đến như:
Quan hệ với cấp trên: Bạn thành công hay thất bại, bạn thăng tiến hay ở nguyên vị trí điều đó phụ thuộc rất nhiều vào cấp
trên của bạn. Một người sếp có thể đào tạo, hướng dẫn, động viên, tư vấn cho bạn những điều bổ ích, cần thiết cho công việc
hiện tại và cả sự nghiệp sau này. Bạn nên khéo léo “tranh thủ” sự ủng hộ, giúp đỡ của sếp. Hãy tạo mối quan hệ thật tốt với
sếp và hãy chứng tỏ với sếp năng lực làm việc của bạn. Không cần phải nói, quan hệ với cấp trên là một trong những mối quan
hệ quan trọng nhất mà bạn nên tạo dựng và phát triển.
Quan hệ với đồng nghiệp: Những người đồng nghiệp sẽ giúp đỡ bạn rất nhiều. Để có thể có được mối quan hệ tốt đẹp với họ,
hãy ủng hộ, động viên, giúp đỡ họ vào những lúc cần thiết. Xây dựng và giữ mối quan hệ tốt đẹp với đồng nghiệp sẽ giúp cho
cả bạn và đồng nghiệp cùng tiến bộ trong công việc. Đồng nghiệp cũ cũng có thể trở thành đầu mối liên lạc cho bạn trong công
việc sau này.
Quan hệ với khách hàng: Một người khách hàng có thể nói tốt về bạn trước sếp của bạn. Điều đó sẽ giúp bạn dễ dàng có cơ
hội thăng tiến trong công việc. Hãy duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ. Biết đâu, một ngày kia, khi cần tuyển nhân viên, họ sẽ
nghĩ ngay đến bạn.
Tạo dựng và duy trì mối quan hệ tại công sở không những giúp bạn thăng tiến trong nghề nghiệp, mà còn góp phần tạo một
môi trường làm việc tích cực cho bạn hàng ngày.
14

×