Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.34 KB, 105 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ LIÊN




BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hồ Chí Minh học








HÀ NỘI – 2013



ii

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN THỊ LIÊN




BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Trọng Ân








HÀ NỘI – 2013


iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS.GVCC. Lê Trọng Ân. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.


Ngƣời cam đoan


Trần Thị Liên













iv

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy Cô cũng như sự động viên ủng
hộ của bạn bè và gia đình trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Trước hết, tôi xin chân thành bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến
PGS.TS.GVCC. Lê Trọng Ân, người hướng dẫn khoa học đã hết lòng giúp đỡ,
động viên và chỉ dẫn cho tôi hoàn thành luận văn này!
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý Thầy Cô trong khoa
Khoa học chính trị - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện đề tài luận văn!
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Tài nguyên và
Môi trường TP. Hồ Chí Minh cùng tập thể cán bộ, giảng viên Khoa Lý luận
chính trị của Trường đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
công tác!
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Anh/Chị học viên Cao học,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học, khóa QH – 2011 đã nhiệt tình giúp đỡ và luôn
sát cánh bên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu!
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tất cả những người thân yêu
trong gia đình - chỗ dựa vững chắc, luôn động viên, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho tôi trong cuộc sống cũng như trong suốt thời gian học tập, nghiên
cứu thực hiện luận văn này!

TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2013
Tác giả



v

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN 7
1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam và tình hình thế giới cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX với việc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn 7
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX 7
1.1.2. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX 10
1.2. Những tiền đề của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn 12
1.2.1. Chủ nghĩa yêu nước và những giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam – cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn 12
1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại – tiền đề quan trọng của tư tưởng Hồ
Chí Minh về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn 14
1.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tiền đề lý luận cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn 16
1.2.4. Phẩm chất đặc biệt và hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí
Minh – nhân tố quyết định bản chất khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn 18

1.3. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn 21
1.3.1. Khái niệm “lý luận” và vai trò của lý luận đối với thực tiễn trong
tư tưởng Hồ Chí Minh 21
1.3.2. Khái niệm “thực tiễn” và vai trò của thực tiễn đối với lý luận trong
tư tưởng Hồ Chí Minh 29
1.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng
Hồ Chí Minh 38


vi

Chƣơng 2. VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM 50
2.1. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa – bƣớc phát triển lý luận
của Đảng ta về đổi mới tƣ duy kinh tế 50
2.1.1. Nền kinh tế tập trung, bao cấp và vai trò lịch sử của nó 50
2.1.2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về kinh tế 54
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam sau 27 năm đổi mới 59
2.2.1. Những thành tựu về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam sau 27 năm đổi mới và nguyên nhân của nó 59
2.2.2. Những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau 27 năm đổi mới và nguyên nhân
của nó …………………………………………………………………………72
2.3. Mục tiêu, phƣơng hƣớng và giải pháp vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn để phát triển

kinh tế ở Việt Nam 75
2.3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế của Việt Nam đến
năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 75
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về để phát triển kinh tế ở Việt
Nam…………… 77
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”[27, 19].
Nhận thức sâu sắc về giá trị đặc biệt quan trọng của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã trân trọng ghi vào cương lĩnh
của mình là “Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, một lần nữa Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [16, 25].
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Trong hệ thống lý luận của Người, một trong những nội dung cốt lõi nhất,

xuyên suốt nhất, chính là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường, sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam do Đảng tổ chức và lãnh
đạo đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác hết sức vẻ vang: từ 30/4/1975,
Cách mạng giải phóng dân tộc đã hoàn thành, Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, cả
nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, sau hơn 27 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã
hội… Nhờ đó mà vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế để từng bước chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới.


2

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được qua quá trình đổi
mới, chúng ta đã bộc lộ những khó khăn, hạn chế, thậm chí cả những sai lầm
ở một số mặt, một số lĩnh vực. Những hậu quả nặng nề từ việc duy trì quá lâu
nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đã gây cản trở không nhỏ đến sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những biến động to lớn và sâu sắc. Sự
phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, cùng với xu
thế toàn cầu hóa về kinh tế đã tác động sâu rộng đến tất cả mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, vừa tạo ra những thời cơ thuận lợi, đồng thời tiềm ẩn những
nguy cơ khó lường đối với tất cả các quốc gia, nhất là các quốc gia có nền
kinh tế chưa phát triển.
Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trường với những tác động hết sức
phức tạp của nó đã làm suy thoái về tư tưởng, tha hóa về đạo đức, lối sống…
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên và thành phần xã hội, gây tổn
thất đến uy tín lãnh đạo của Đảng, gây bức xúc trong dư luận xã hội và ảnh
hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với chế độ.

Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, theo tác giả, một trong những
nguyên nhân chính yếu nhất là sự xa rời thực tế, nói không đi đôi với làm, hành
động thực tiễn không phù hợp với tư tưởng – lý luận, vì lợi ích cá nhân mà một
bộ phận cán bộ, đảng viên xa rời những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, vi phạm
lợi ích của nhân dân và dân tộc.
Để khắc phục tình trạng trên và đưa đất nước tiến lên, một trong những
nhiệm vụ cơ bản và cấp bách hiện nay là phải tăng cường học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người để góp phần
phát triển lý luận, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta trong quá trình đổi mới, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chính từ những lý do


3

trên, tác giả chọn vấn đề “Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới kinh tế ở Việt Nam” cho đề tài
Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nhận thức sâu sắc giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong những năm qua, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực với những cách tiếp cận cơ bản sau:
- Thứ nhất, tiếp cận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ
lịch sử. Theo hướng nghiên cứu này, có thể kể đến các tác phẩm và các tác giả
tiêu biểu sau: Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương với tác phẩm: “Chủ tịch Hồ
Chí Minh - tiểu sử và sự nghiệp”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1975; Hà Huy
Giáp với tác phẩm: “Bác Hồ - người Việt Nam đẹp nhất”, Nhà xuất bản Thanh

niên, Hà Nội, 1977; Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) với tác phẩm: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh – quá trình hình thành và phát triển”, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội, 1993; GS. Trần Văn Giàu với “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997… Nhìn chung
các tác phẩm đã chỉ rõ nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh,
từ đó tạo cơ sở, tiền đề cho việc nghiên cứu tư tưởng của Người sau này.
- Thứ hai, tiếp cận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ
văn hóa. Có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như: Đồng chí Phạm Văn Đồng
với tác phẩm: “Hồ Chủ tịch – tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời đại của,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1975; Mấy vấn đề về đạo đức cách mạng của tác
giả Vũ Khiêu, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1978; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp đổi mới do Trần Quốc
Long và Trương Minh Dục đồng chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998; Hồ
Chí Minh danh nhân văn hóa thế giới của tác giả Đào Phan, Nhà xuất bản Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2000; Tư tưởng Hồ Chí Minh – Di sản văn hóa dân tộc,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người của Lê Quang Hoan, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002…


4

- Thứ ba, tiếp cận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ triết
học. Theo hướng nghiên cứu này có các tác phẩm tiêu biểu như: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người và chính sách xã hội do Lê Sĩ Thắng chủ biên, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh của Đặng Xuân Kỳ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997; đặc
biệt, phải kể đến tác phẩm Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh của tập thể tác giả
do GS Lê Hữu Nghĩa chủ biên, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2000… Trong
tác phẩm này, các tác giả đã đề cập đến nhiều nội dung cơ bản trong tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh như:

+ Nguồn gốc thế giới quan triết học Hồ Chí Minh của TS Vũ Văn Thuận;
+ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh của TS Trần Văn Phong;
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp và dân tộc của GS,TS
Nguyễn Ngọc Long;
+ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của TS Nguyễn Thế Kết;
+ Tư tưởng triết học về con người của PGS,TS Nguyễn Tĩnh Gia, GS
Mai Trung Hậu;
Ngoài ra còn nhiều bài báo, công trình khác nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Nhìn chung, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và thực
tiễn đã được nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều tác phẩm và đã được công bố.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
có hệ thống mang tính chuyên khảo sâu về vấn đề biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người trong
sự nghiệp đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
lý luận và thực tiễn; trên cơ sở đó vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp
đổi mới kinh tế ở nước ta.


5

Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ hoàn cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và thực tiễn.

Thứ hai, phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về lý luận và thực tiễn trên cơ sở phân tích các khái niệm “lý luận”, “thực
tiễn” và mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng của Người.
Thứ ba, phân tích và làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới kinh tế; đồng thời đề ra mục tiêu, phương hướng và
giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển kinh tế ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc, đề
cập đến nhiều lĩnh vực rộng lớn, nhiều nội dung hết sức phong phú. Trong
phạm vi luận văn Thạc sĩ của mình, tác giả chỉ đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về lý luận và thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về lý luận, thực tiễn và sự vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp
đổi mới kinh tế ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về lý luận, thực tiễn và những vấn đề, những nội dung liên quan đến
đề tài của luận văn.


6

Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận chung nêu trên, luận văn kết hợp
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp lịch sử và

lôgic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, đối chiếu, lý luận
gắn liền với thực tiễn… trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn:
Luận văn góp phần làm rõ những nội dung cơ bản và khẳng định giá trị
khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự vận dụng
tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới tư duy kinh
tế nói riêng ở Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
các trường Đại học và Cao đẳng trong việc nghiên cứu và học tập môn Hồ Chí
Minh học hoặc làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu
chuyên sâu chuyên đề “nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi
mới tư duy, phát triển kinh tế ở Việt Nam”.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết.


7

Chƣơng 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BIỆN CHỨNG GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1 . Hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam và tình hình thế giới cuối
thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX với việc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX là một xã hội phong kiến nông nghiệp
lạc hậu, trì trệ. Ở thời kỳ này, chế độ phong kiến Việt Nam do triều đình nhà
Nguyễn đại diện đang lún sâu vào giai đoạn khủng hoảng và suy yếu nghiêm
trọng. Với tính chất bảo thủ, độc đoán, nhà Nguyễn không thay đổi quan hệ sản
xuất lỗi thời mà duy trì nó bằng mọi biện pháp. Chính sách quản lý lạc hậu của
nhà Nguyễn đã làm cho nền kinh tế nước ta suy yếu trầm trọng về mọi mặt:
nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp đều không phát triển.
Để duy trì chế độ xã hội phong kiến đã suy tàn nhằm bảo vệ đặc quyền,
đặc lợi của mình, phong kiến nhà Nguyễn đã ra sức củng cố trật tự bằng mọi
cách. Về chính sách đối nội thì ra sức bóc lột, tăng cường đàn áp nhân dân. Về
đối ngoại, nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, ngăn cản giao
lưu kinh tế với các nước bên ngoài, nhất là các nước có nền kinh tế phát triển,
làm cho kinh tế nước ta vốn đã yếu càng trở nên suy yếu. Chế độ phong kiến
nhà Nguyễn với hệ thống pháp luật hà khắc, cùng hệ tư tưởng lạc hậu, bảo thủ
đã kìm hãm nhân dân trong trật tự của nền chuyên chế cực đoan làm cho đời
sống của nhân dân càng trở nên khổ cực, nạn đói tràn lan, dân tình phẫn nộ.
Kinh tế đất nước đã lạc hậu lại bị kìm hãm nên không phát triển, nhà
Nguyễn trở nên suy tàn. Chế độ phong kiến chuyên chế độc quyền của nhà
Nguyễn không còn đủ khả năng huy động được tiềm lực của nhân dân, mà trái


8

lại nó còn dẫn đến mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với nông dân
ngày càng gay gắt. Đỉnh cao là các cuộc đấu tranh của nông dân nổ ra liên tiếp
ở khắp nơi. Phong trào nông dân bị các vua Nguyễn thẳng tay đàn áp, dìm trong
biển máu.

Trước tình hình đó, nhiều tư tưởng cải cách, canh tân mang tính tích cực
như tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng
Huy Trứ… với những phương án cách tân đầy tâm huyết nhằm giải quyết khó
khăn cho đất nước. Tuy nhiên, những tư tưởng canh tân phục hưng đất nước và
đề nghị những giải pháp cải cách đó đã không được triều Nguyễn chấp nhận,
hoặc chấp nhận một cách tùy tiện, ngẫu hứng. Vì vậy, nhiều tư tưởng được
đánh giá là tiến bộ song cũng không được thực hiện trong thực tế.
Hậu quả của việc không thực hiện cải cách là ngày càng có nhiều mâu
thuẫn nảy sinh và không thể giải quyết được. Đó chính là cơ hội cho các nước
đế quốc muốn thôn tính Việt Nam.
Lợi dụng điều này, thực dân Pháp đã nổ sung xâm lược Việt Nam vào
tháng 8 năm 1858. Từ đây, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam diễn ra
bước chuyển mạnh mẽ về mọi mặt. Ngay sau khi đã cơ bản kết thúc giai đoạn
vũ trang xâm lược, thực dân Pháp thi hành chính sách khai thác thuộc địa, độc
quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, biến Việt Nam vốn là nước phong
kiến thành nước thuộc địa nửa phong kiến, dẫn đến những biến đổi to lớn
trong đời sống kinh tế - xã hội. Về kinh tế, thực dân Pháp độc quyền và đưa ra
chế độ thuế khóa nặng nề. Toàn bộ chính sách kinh tế Việt Nam đều phụ
thuộc vào thực dân Pháp nên không phát triển được, nhân dân Việt Nam bị
bần cùng hóa. Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, đưa
văn hóa ngoại lai thay thế văn hóa truyền thống Việt Nam. Chúng khuyến
khích truyền bá văn chương ủy mị của văn hóa phương Tây vào và thủ tiêu
Nho học nhằm mục đích toàn quyền thống trị. Xã hội Việt Nam lúc này trở
nên suy tàn và lạc hậu hơn trong vòng kìm hãm bởi những chính sách của
thực dân Pháp xâm lược.


9

Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam giai đoạn này không chỉ là mâu

thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nông dân Việt Nam mà còn xuất hiện mâu
thuẫn mới, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc.
Dưới tác động của chính sách cai trị về chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục
thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa giai cấp sâu sắc. Tuy
nhiên, ý thức về quyền tự do dân tộc cùng với truyền thống yêu nước và ý chí
của dân tộc Việt Nam không hề bị khuất phục, không chịu sự áp bức, nô dịch
và lệ thuộc vào nước xâm lược. Giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc và tự do là
yêu cầu bức thiết của nhân dân.
Trong khi triều đình nhà Nguyễn hèn hạ, từng bước đầu hàng thực dân
Pháp thì các phong trào yêu nước chống xâm lược của nhân dân liên tiếp nổi
lên. Tiêu biểu và nổi bật nhất trong các phong trào yêu nước lúc bấy giờ phải kể
đến: Phong trào Cần Vương (1885 – 1887) do Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết
khởi xướng cùng một số sĩ phu yêu nước như Phan Đình Phùng, Cao Thắng…
Song song với phong trào Cần Vương là phong trào nông dân Yên Thế (1884 –
1913) dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám, Lương Văn Nắm. Tuy nhiên, các
cuộc khởi nghĩa thời kỳ này đều lần lượt thất bại do chưa có đường lối chính trị
đúng đắn, không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Các phong trào này
đều mang ý thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân, chưa tin vào lực
lượng nhân dân nên đã thất bại trước sức mạnh của kẻ xâm lược. Điều đó cho
thấy hệ tư tưởng phong kiến mà Nho giáo là nòng cốt đã bất lực, không thể
thực hiện nhiệm vụ lịch sử của dân tộc là chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Mặc dù áp dụng phương thức bóc lột theo
kiểu tư bản chủ nghĩa nhưng thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột
phong kiến. Bởi vậy, cùng một lúc nhân dân Việt Nam bị “một cổ hai tròng”,
chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của cả Pháp lẫn triều Nguyễn.
Thời kỳ này, tình hình thế giới và các trào lưu tư tưởng tư sản ở các nước
đã có ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam. Nhật Bản sau cuộc Duy Tân 1868 đã
đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và phát triển với tốc độ nhanh chóng. Tư



10

tưởng dân chủ tư sản của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là cuộc cách mạng Tân Hợi
năm 1911 ở Trung Quốc thắng lợi đã ảnh hưởng nhất định đến phong trào Duy
Tân nước ta.
Với sự chuyển biến của cách mạng trong nước và ảnh hưởng của các trào
lưu tư tưởng tiến bộ trên thế giới, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các
phong trào như: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang
Phục Hội… Các phong trào yêu nước ngày càng phát triển rộng khắp nhưng
cuối cùng lần lượt bị dập tắt, một phần vì chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân
dân, phần khác vì các phong trào đó chủ yếu vẫn do các sĩ phu phong kiến
truyền bá và dẫn dắt nên không tránh khỏi những hạn chế và thất bại. Yêu cầu
cấp bách đặt ra cho cách mạng Việt Nam là phải có một hệ thống lý luận khoa
học soi đường. Đó chính là tiền đề cho việc tìm đường cứu nước sau này của
Nguyễn Ái Quốc. Sự thống nhất biện chứng giữa thực tiễn cách mạng thế giới
và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trở thành cơ sở vững chắc cho những lý
luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
1.1.2. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương
Tây bước sang một giai đoạn mới, từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền, tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc trong thì
tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì đẩy mạnh quá trình xâm
lược và áp bức nhân dân các nước thuộc địa, biến các quốc gia này thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa, nơi cung cấp nguyên vật liệu, khai thác sức lao động
và xuất khẩu tư bản. Sự thống trị tàn bạo của các nước tư bản đế quốc làm cho
đời sống nhân dân lao động, đặc biệt ở các nước thuộc địa vô cùng khổ cực.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và nhân dân các nước thuộc địa ngày càng
cao độ. Vì vậy, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh
chống xâm lược, giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới diễn ra ngày càng

mạnh mẽ. Thực tiễn này trở thành nhu cầu đấu tranh giải phóng dân tộc không


11

chỉ đối với các nước thuộc địa chống lại sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc mà
nó còn gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại chủ nghĩa đế
quốc trên phạm vi toàn thế giới.
Trong khi các nước tư bản phương Tây đã nhanh chóng phát triển sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì các nước phương Đông và những quốc gia phong
kiến có lịch sử lâu đời, vốn có nền văn hóa phát triển sớm vẫn chìm sâu dưới sức
nặng của quan hệ sản xuất phong kiến bảo thủ. Do đó, lực lượng sản xuất phát
triển chậm, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân lao động vô cùng cực khổ, mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ
phong kiến với nhân dân lao động, mà tuyệt đại đa số là nông dân ngày càng sâu
sắc. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho các nước này trở thành
miền đất hứa và trở thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Riêng Nhật Bản cũng nằm trong khu vực châu Á, là một nước phong kiến
nhưng sau cuộc cải cách của Thiên hoàng Minh trị, Nhật Bản đã đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa và trở thành nước phát triển. Các nước còn lại đều lần
lượt bị xâm lược và trở thành thuộc địa của các nước đế quốc. Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước này diễn ra rất sôi nổi, tuy nhiên nó được chỉ
đạo bởi hệ tư tưởng phong kiến, tư sản, tiểu tư sản nên đều lần lượt thất bại.
Ở châu Phi, các dân tộc cũng lần lượt bị đế quốc Anh, Pháp xâm lược.
Nhiều phong trào giải phóng thuộc địa đã diễn ra nhưng cuối cùng vẫn chìm đắm
dưới ách nô lệ của chủ nghĩa đế quốc,thực dân. Các dân tộc châu Phi ngày càng
suy yếu về mọi mặt, đời sống của nhân dân càng trở nên nghèo khó, cực khổ và
mất tự do.
Cùng số phận với các nước bị xâm lược bởi chủ nghĩa đế quốc, khu vực
Mỹ Latinh cũng không thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Tây Ban Nha, Bồ

Đào Nha. Nơi đây cũng đã xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh chống lại sự
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhưng cuối cùng cũng đều thất bại.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các phong trào đấu
tranh cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới là do các nước chưa tìm ra con
đường đấu tranh đúng đắn, chưa tìm ra lý luận cách mạng đúng đắn soi đường.


12

Do đó, các dân tộc thuộc địa và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa vẫn bị
bao trùm bởi bóng đen của chủ nghĩa đế quốc.
Đến năm 1917, một sự kiện lịch sử lớn lao mang tính bước ngoặt đã xảy
ra. Đó là cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại do
V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Bônsêvích lãnh đạo đã giành được thắng lợi vẻ
vang. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại, sự ra đời của nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới –
nhà nước đầu tiên do giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ - và sự
ra đời của Quốc tế Cộng sản III là nguồn động viên, cổ vũ vô cùng to lớn đối
với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên khắp thế giới.
Có thể nói, kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời
của Quốc tế III, phong trào công nhân quốc tế và phong trào đấu tranh của các
nước thuộc địa theo khuynh hướng cách mạng vô sản chống chủ nghĩa thực
dân, chủ nghĩa đế quốc là những cơ sở hiện thực trực tiếp quan trọng nhất, có ý
nghĩa quyết định đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng của Người về sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn nói riêng, nhất là mối quan hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách
mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo. Qua đó, Người khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô

sản”[42, 314].
1.2. Những tiền đề của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn
1.2.1. Chủ nghĩa yêu nƣớc và những giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam – cội nguồn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữa nước, dân tộc Việt
Nam đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, đặc sắc, phong phú, bền vững


13

và ngày càng phát triển lên tầm cao mới, trong đó chủ nghĩa yêu nước và những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc là những giá trị tiêu biểu nhất.
Chủ nghĩa yêu nước là triết lý nhân sinh của dân tộc Việt Nam. Nó đã
được thể hiện rất sâu đậm trong tâm tư, tình cảm và ý chí kiên cường của các
thế hệ người Việt Nam trong quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước; là dòng chủ lưu xuyên suốt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Do đó, chủ
nghĩa yêu nước đã trở thành cơ sở xuất phát và là động lực thôi thúc Hồ Chí
Minh tiếp thu và phát triển lên một tầm cao mới trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, có vị thế địa
lý rất quan trọng cả về địa - kinh tế, địa – chính trị, địa – chiến lược không chỉ
đối với nước ta mà còn là vùng đất hứa đầy tham vọng xâm lược của nhiều
nước lớn trên thế giới. Vì vậy, trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước,
để tồn tại và khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình, dân tộc Việt
Nam đã phải đương đầu với nhiều kẻ thù lớn, đế quốc to để giành thắng lợi.
Chủ nghĩa yêu nước là lẽ sống và là truyền thống của các thế hệ người Việt
Nam kế tiếp nhau, là di sản tinh thần thiêng liêng cao quý, là động lực nội sinh
tiềm tàng sức mạnh chứa đựng ngay trong chính mỗi con người Việt Nam.

Trong các giá trị văn hóa truyền thống tinh túy nhất của dân tộc ta, chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam luôn được đặt lên vị trí hàng đầu.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam gắn kết mật thiết với truyền thống đại
đoàn kết toàn dân tộc đã tạo thành dòng chủ lưu trong lịch sử dân tộc, được
trao truyền và ngày càng phát huy sức mạnh từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đối
với người Việt Nam, yêu nước phải thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Và, sức
mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ có thể phát huy ở mức cao nhất trên cơ
sở của chủ nghĩa yêu nước chân chính. Vì vậy, ông cha ta thường khuyên dạy
các thế hệ con cháu rằng: “Chia rẽ thì chết, đoàn kết thì sống”; “một cây làm
chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”…


14

Đến thời đại Hồ Chí Minh, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đặc
biệt là từ thực tiễn của lịch sử dân tộc Việt Nam, sức mạnh của đại đoàn kết đã
được Người khái quát bằng một luận điểm mang tính nhân sinh hết sức sâu sắc
là:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam còn rất nhiều giá trị truyền thống độc đáo
khác. Đó là truyền thống cần cù, dũng cảm, tự lực tự cường trong lao động sản
xuất, cải tạo tự nhiên; kiên cường trong chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược để bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ và độc lập quốc gia; đó là
truyền thống văn hiến, hiếu học, ham học hỏi tiếp thu cái mới, không ngừng mở
rộng và kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại để bổ sung,
phát triển và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt
Nam; là truyền thống nhân nghĩa, hòa hiếu, thương người như thể thương thân,
biết chia sẻ ngọt bùi với chóm xóm, bè bạn gần xa lúc khó khăn cũng như khi

thuận lợi; luôn lạc quan, yêu đời, luôn đấu tranh để bảo vệ nền độc lập, tự do,
hạnh phúc của dân tộc mình, đồng thời luôn tôn trọng nền độc lập, tự do, hạnh
phúc của các dân tộc khác; sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, vì hòa bình và tiến bộ xã hội…
Tất cả những giá trị truyền thống cao quý ấy của dân tộc Việt Nam đều
được kết tinh trong con người Hồ Chí Minh; là hành trang và là cội nguồn của
toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và sự thống nhất biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng của Người nói riêng.
1.2.2.Tinh hoa văn hóa nhân loại – tiền đề quan trọng của tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam với văn hóa
phương Đông và các thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây – đó chính là
nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.


15

Đối với văn hóa phương Đông, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan
tâm đến Triết học Trung Hoa cổ đại và Triết học Phật giáo. Với vốn hiểu biết
cùng với vốn hiểu biết uyên bác về Hán học, Hồ Chí Minh biết chắt lọc những
gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…
nhất là những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục,
hòa đồng, là triết lý nhân sinh; tu thân dưỡng tính; đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra
truyền thống hiếu học. Người đẫn lời của V.I.Lênin: “Chỉ có những người cách
mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước
để lại”[39, 46].
Về triết học Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc
các tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương
thân…; là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là

tinh thần bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao
động, chống lười biếng; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó
với dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ
thù dân tộc… Đến khi trở thành người mácxít, Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu
chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, vì Người thấy trong đó “những điều
thích hợp với điều kiện của nước ta”.
Cùng với những tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn
nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương
Tây. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp, tìm hiểu các cuộc cách mạng ở
Pháp và ở Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng
qua các tác phẩm của các nhà khai sáng như: Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ.
Người tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776 nhưng Người không đi theo
con đường cách mạng tư sản vì cách mạng tư sản là cách mạng không đến nơi,
không triệt để, không đem lại hạnh phúc, tự do cho tất cả mọi người, nhất là
người lao động.


16

Nói tóm lại, trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu
trí tuệ của mình bằng vốn văn hóa của dân tộc kết hợp với trí tuệ của thời đại.
Người vừa tiếp thu, vừa gạn lọc, bổ sung và phát triển lên tầm cao mới, từ đó
mà suy ngẫm, lựa chọn, kế thừa và vận dụng vào thực tiễn của cách mạng Việt
Nam.
1.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tiền đề lý luận cơ bản của tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa
học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền
tảng của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn
chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu
tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng
tạo ở Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Quá trình đó cũng diễn ra một cách chân thành và hết sức tự nhiên. Điều
này đã được Hồ Chí Minh cắt nghĩa trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa
Lênin: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự
nhiên… tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng
đồng bào mình… Tôi tham gia Đảng xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà”
ấy – (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) – đã tỏ đồng tình với tôi, với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì,
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”[43, 126].
Quá trình tưởng chừng như đơn giản và tự nhiên đó, thực ra “là chặng
đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được
những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”[43, 127].
Thực tiễn trong gần mười năm bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu
nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân


17

tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin (1920), Nguyễn Ái Quốc đã “cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng… vui mừng đến phát khóc…” vì đã tìm thấy con
đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính luận cương của V.I.Lênin đã nâng
cao nhận thức lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng
dân tộc. Nó phù hợp với mục đích, lý tưởng và đáp ứng những tình cảm, suy
nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu ở Người, nay đã trở thành hiện thực. Người

viết: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[43, 128].
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến
dần tới những nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc
hơn, để rồi tiếp thu học thuyết của các ông một cách chọn lọc, không rập khuôn
máy móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo
phương pháp mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập
trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải
quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm
những kết luận có sẵn trong sách vở.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin là tiền đề lý luận cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong đó thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin là cốt
lõi, giữ vai trò chủ đạo đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm
thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Người viết: “Trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần
tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”[43, 128];
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[35, 268]; “Chính là do cố
gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo,
phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành
được thắng lợi to lớn”[45, 476].


18

1.2.4. Phẩm chất đặc biệt và hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ
Chí Minh – nhân tố quyết định bản chất khoa học và cách mạng của tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Hồ Chí Minh là một con người sống có hoài bão lớn, có lý tưởng yêu

nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, nhất là những người cùng khổ bị áp bức
bóc lột; có bản lĩnh kiên định, ý chí kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục
tiêu, lý tưởng mà Người đã lựa chọn. Đặc biệt, Người còn là một con người
thông minh, sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi, có tư duy độc lập,
sáng tạo; có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng. Nhờ những phẩm chất ấy,
ngay từ khi còn ở trong nước, người đã sáng suốt nhận ra những hạn chế của
các phong trào đấu tranh do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo. Tính độc lập tư duy
và trí tuệ uyên bác vốn có đã giúp cho Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu
đặt chân lên đất Pháp, Người đã phát hiện ra hai nước Pháp: một nước Pháp
giàu có của bọn tư bản và một nước Pháp bần cùng, nghèo khổ của người lao
động. Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Người thực sự có bước phát triển nhảy
vọt khi Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin với phương pháp làm việc biện
chứng. Và ngay cả khi theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cũng
không rập khuôn máy móc mà vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận
mácxít bằng những dữ liệu dân tộc học phương Đông và thực tiễn Việt Nam.
Sức hấp dẫn của Hồ Chí Minh, vì thế được thể hiện trước hết ở sự tỏa
sáng của trí tuệ. Một trong những công cụ giúp cho Người dễ dàng bước vào
thế giới văn minh của nhân loại chính là ngoại ngữ. Chúng ta biết rằng, Người
có thể đọc trực tiếp Shakespeare, Dickens bằng tiếng Anh, V. Hugo, E. Zola
bằng tiếng Pháp, Lỗ Tấn bằng tiếng Hoa, L. Tolstoy bằng tiếng Nga, … đồng
thời có thể giao tiếp thông thường bằng nhiều ngoại ngữ khác. Với vốn ngoại
ngữ phong phú, Người đã kiên trì học tập, tích lũy và làm giàu thêm vốn tri
thức văn hóa Đông – Tây hết sức sâu sắc.
Có vốn kiến thức sâu rộng, trí tuệ xuất chúng, nhà lý luận đồng thời là
nhà văn hóa Hồ Chí Minh còn có một vốn sống thực tiễn cực kỳ phong phú.


19

Cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh là những ngày dài học tập, chiến đấu không

mệt mỏi. Đó là cuộc đời của những trải nghiệm từ tuổi thơ phải chịu cảnh nước
mất nhà tan, đắm mình trong phong trào đấu tranh cách mạng kiên cường, bất
khuất của cha anh. Từ địa vị một người dân mất nước, Người sang phương Tây
với mong muốn đem lại một làn gió mới cho dân tộc. Bước lên chuyến tàu
buôn của Pháp bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm những giá trị văn hóa mới,
không phải là Nguyễn Tất Thành – thân sĩ, trí thức mà là một người phụ bếp
Văn Ba. Với tư cách người lao động, Hồ Chí Minh đã sống với những người
cùng khổ trong xã hội tư bản để có thể hiểu được thực chất cái gì sau lá cờ “tự
do, bình đẳng, bác ái”. Có thể khẳng định rằng, rất ít nhà cách mạng có được
quá trình hoạt động thực tiễn phong phú như chủ tịch Hồ Chí Minh. Ba mươi
năm (1911 – 1941) liên tục hoạt động ở nước ngoài và hoạt động chủ yếu ở
những trung tâm văn minh, văn hóa phương Tây, Người có điều kiện tiếp thu
nhiều nền văn hóa khác nhau, thu nhận ở mỗi nước một thực tiễn sinh động.
Chính những khảo nghiệm thực tế đó khiến cho Hồ Chí Minh hiểu rằng chỉ có
hai loại văn hóa, văn hóa nô dịch, phản động của bọn thực dân và văn hóa tiến
bộ của giai cấp vô sản, cái gọi là “khai hóa văn minh” chỉ là khẩu hiệu lừa bịp,
thực chất đó là công cụ áp bức, bóc lột các dân tộc thuộc địa.
Sự kết hợp và thúc đẩy lẫn nhau giữa lý luận và thực tiễn đã khiến cho
Hồ Chí Minh trở thành một con người vô cùng uyên bác, vươn tới đỉnh cao của
tri thức nhân loại, hình thành những quan điểm lý luận hết sức toàn diện và sâu
sắc về sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại
và sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt
động có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại. Có được điều đó là nhờ vào nhân
cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh.
Phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết ở tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong
việc nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh.

×