Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.57 KB, 23 trang )





KỸ THUẬT SẢN XUẤT
GIỐNG TÔM CÀNG
XANH

KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG
XANH


1. Xây dựng trại và chuẩn bị trại giống
1.1. Chọn vị trí
Các tiêu chí thường được xem xét khi chọn
lựa vị trí xây dựng trại giống bao gồm khí
hậu, nguồn nước, nguồn tôm mẹ thị trường
tôm giống, điện và giao thông. Thông thường,
các trại được đặt ở gần biển, tuy nhiên, nhiều
trại ở Thái Lan, Việt Nam vẫn đặt sâu trong
nội địa và vẫn hoạt động tốt (Correria và ctv,
2000; New, 2002; Phương và ctv, 2003)
1.2. Thiết kế, xây dựng và trang bị phương
tiện trại giống
Trại giống tôm càng xanh có thể được xây
dựng với qui mô gia đình hay qui mô lớn. Qui
mô gia đình cần diện tích nhỏ, từ 50-500 m2,
có thể tích bể ương ấu trùng tổng cộng
khoảng 10-50 m3 và công suất khoảng 1-2
triệu tôm bột/năm. Nhà trại có thể xây dựng
đơn giản bằng cây, gỗ kết hợp tấm bạt. Công


ty, xí nghiệp có thể xây trại qui mô lớn với
công suất đến 10-20 triệu PL/năm, có diện
tích rộng cho phòng làm việc, phòng thí
nghiệm, ao, bể ương. Tuy nhiên, hầu hết các
trại thành công ở Châu Á đều ở qui mô gia
đình. Các trại được lợp bằng mái che tối xen
với mái che trong suốt để có ánh sáng, đặc
biệt là đối với trại áp dụng mô hình nước
xanh. Xung quanh, nên có nhiều cửa sổ có
rèm để giữ thoáng vào ban ngày đồng thời
giữa ấm vào ban đêm.
Bể chứa: Bể có thể dùng để chứa nước ngọt
hoặc nước lơ. Bể đa số làm bằng xi măng.
Tùy theo vị trí trại giống, qui mô trại giống, qui
trình sản xuất giống, độ mặn nước chứa…
mà bể chứa cần thể tích khác nhau để chủ
động sản xuất quanh năm. Thông thường,
trại cần có 2 bể chứa riêng, mỗi bể có thể
tích bằng tổng thể tích bể ương.
Lọc cơ học: Hệ thống lọc cơ học dùng để loại
bỏ chất thải rắn trong nước. Các loại vật liệu
như cát mịn, cát to, san hô, đá nhỏ, than hoạt
tính được dùng làm giá thể cho bể lọc. Hệ
thống lọc gồm bể lọc có thể tích khoảng 1-2
m3 và các bể chứa nước lọc có thể tích
khoảng 10-20 m3 hay hơn tùy trường hợp.
Ngoài ra, trong trại cần có túi vải lọc có kích
cỡ lỗ 1-5 μm để lọc lại nước trước khi sử
dụng.
Lọc sinh học: Lọc sinh học là hệ thống bể có

chứa nhiều giá thể như san hô, đá, vật liệu
có nhiều lỗ rỗng, hay ngay cả rong tảo và
thực vật thủy sinh lớn để hấp thu và chuyển
hóa đạm trong nước từ dạng độc sang ít độc
để tái sử dụng nước cho ương nuôi tôm hay
các loài thủy sản nói chung. Có nhiều dạng
bể lọc sinh học được sử dụng như lọc ngầm
có nước từ trên xuống, lọc ngầm nước từ
dưới lên, lọc ngầm nước chảy ngang có
nhiều ngăn, lọc ướt có nước phun từ trên
xuống, lọc lồng xoay chứa giá thể, hay lọc có
giá thể dạng dĩa xoay. Tuy nhiên, dạng lọc
ngầm nước chảy ngang và có nhiều ngăn
được áp dụng phổ biến nhất do tiện lợi và
hiệu quả. Bể lọc chứa các giá thể có thể tích
khoảng 4-20% thể tích ương. Trước khi ương
ấu trùng, cần kích thích hệ vi khuẩn
Nitrosomona và Nitrobacter phát triển trong
giá thể bằng cách bón đạm Amôn (dạng
NH4Cl) với nồng độ bằng 10% nồng độ có
thể có trong bể ương. Kiểm tra nồng độ
Amôn, nếu thấy nồng độ giảm xuống thì bón
tiếp với lượng như trên và lặp lại đến khi nào
toàn bộ Amôn được chuyển hóa hoàn toàn
thành Nitrate trong 24 giờ thì bón tiếp với
lượng gấp đôi. Quá trình bón Amon, theo dõi
nồng độ và tăng gấp đôi nồng độ cần lặp lại
đến khi nào bể lọc có thể có đủ lượng vi
khuẩn để chuyển hóa hết lượng đạm có thể
có trong bể ương trong vòng 24 giờ thì có thể

đưa vào sử dụng.
Bể nuôi tôm mẹ: Trại giống cần có bể ể xi-
măng để nuôi nuôi dưỡng tôm trứng trước
khi cho nở. Các bể có thể tích dao động 5-
50m3. Số lượng bể cũng thay đổi tùy qui mô
của trại. Bể nên có lớp cát phủ mặt đáy dày
0,5-20 cm. Bể nên có nước chảy liên tục và
nên đặt nhiều giá thể cho tôm ẩn nấp.
Bể cho tôm nở:. Trại sản xuất qui mô gia
đình, đơn giản, chỉ cần dùng 5-10 bể kính
hay bể nhựa 50-100 lít để cho tôm nở là đủ.
Mỗi bể có thể chứa 2-3 tôm trứng. Bể có thể
bằng composite hay nhựa, màu tối để dễ
dàng thu ấu trùng.
Bể ương ấu trùng: Bể ương ấu trùng có thể
đa dạng như bể tròn, hình chữa nhật hay
vuông và được làm bằng compostite, nhựa
cao cấp hay ximăng. Bể compostite và nhựa
cao cấp tiện lợi trong quản lý, thao tác và dễ
di chuyển. Bể bêtông chi phí rẻ, ổn định nhiệt
hơn nhưng không cơ động. Bể ương nên có
màu xám sậm hay xanh lá cây. Qui mô gia
đình nên làm bể nhỏ, thể tích 0,5-2 m3, tốt
nhất làm 0,5-1 m3 để dễ quản lý và năng
suất cao.
Bể ương tôm bột: Trại sản xuất giống cũng
cần có bể, giai lưới hay ao để ương tôm bột.
Bể và giai nên có thể tích 10-20 m3/bể. Ao có
diện tích 100-500 m2.
Bể ấp Artemia: Bể ấp Artemia tiện lợi nhất

nên bằng composite, có đáy hình chóp và có
khóa ở đáy, thể tích 20 –100 lít. Bể đặt nơi có
ánh sáng, nhưng tránh ánh nắng trực tiếp
làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nở của trứng. Qui
mô sản xuất gia đình, đơn giản, có thể dùng
5-10 keo thủy tinh 10 lít để ấp Artemia.
Bể nuôi tảo: Các trại áp dụng mô hình nước
xanh cần có bể nuôi tảo để cấp cho bể ương
ấu trùng. Bể nuôi tảo nên có màu trắng, thể
tích các bể khoảng 0.5-1m3, tiện nhất là bằng
composite. Bể được đặt trong nhà dưới mái
che nhựa để vừa có ánh sáng vừa hạn chế
tác động lớn của môi trường ngoài.
Hệ thống thổi khí: Tùy theo vị trí trại có điện
lưới hay không, tùy vào qui mô trại mà có thể
dùng máy nén khí hay máy thổi khí, vận hành
bằng dầu hay điện, công suất lớn hay nhỏ.
Một trại qui mô 10-20 m3 bể ương, đơn giản
chỉ cần dùng 2 máy thổi khí điện, mỗi máy có
công suất khoảng 1 HP. Nên thiết kế sao cho
hai máy có thể vận hành luân phiên nhau,
đảm bảo thổi khí liên tục mà vẫn bảo trì máy
tốt.
Hệ thống điện: Trại tôm giống tốt nhất nên có
nguồn điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, trại
cũng cần trang bị máy phát điện dự phòng.
Hệ thống cấp nước: Tùy vị trí trại, nguồn
nước sử dụng và qui mô trại mà có thể lắp
đặt hệ thống bơm nước đủ công suất.
Các dụng cụ và thiết bị khác: Ngoài các

phương tiện trên, trại tôm cần được trang bị
các dụng cụ như dụng cụ kiểm tra nước như
máy đo độ mặn, pH kế, nhiệt kế, máy đo oxy,
bộ hóa chất thử đạm, chlorine và các dụng cụ
chế biến thức ăn cho tôm như sàn, khay, nồi,
bếp, máy xay sinh tố, tủ lạnh, cân
1.3. Vệ sinh bể, dụng cụ và xử lý nước
ương nuôi
Vệ sinh bể và dụng cụ: Các bể cần phải được
vệ sinh kỹ trước khi vận hành. Đối với bể
ximăng mới xây cần phải được xử lý kỹ bằng
cách cho nước ngọt vào ngâm một ngày, sau
đó xả ra và lập lại vài lần. Tiếp đến, cho nước
vào đầy bể và dùng phèn chua xử lý với
lượng 250 g/m3. Ngâm bể khoảng một tuần
sau đó xả nước và xử lý tiếp như các bể
thông thường. Trước và sau mỗi đợt sản
xuất, cần phải vệ sinh trại, các dụng cụ và bể
ương nuôi thật cẩn thận. Các hoá chất
thường dùng để rửa bể và dụng cụ như xà
phòng, hay dung dịch Chlorine 100-200 mg/l.
Sau khi rửa, nếu có thể, nên phơi dưới ánh
nắng trực tiếp một ngày. Giữa các đợt sản
xuất nên tạm nghỉ 10-15 ngày để đảm bảo
khâu vệ sinh được hoàn chỉnh.
Pha nước và xử lý nước ương nuôi : Hai
nguồn nước được sử dụng trong trại sản xuất
giống tôm là nguồn nước mặn và nước ngọt.
Nguồn ngước mặn có thể là nước biển hay
nước mặn từ ruộng muối có độ mặn 60-140

%o. Nước mặn sau khi để lắng, có thể cho
qua lọc cơ học để có được nước trong sạch
hơn. Sau đó xử lý nước bằng Chlorine với
nồng độ 20g/m3 (tính trên cơ sở Chlorine
nguyên chất). Sau khi hòa chlorine vào nước,
để yên một đêm, sau đó sục khí thật mạnh ít
nhất 4 ngày để loại bỏ chlorine trước khi sử
dụng. Trước khi sử dụng, có thể kiểm tra
nồng độ chlorine còn lại trong nước. Nếu
nước còn chlorine, nên dùng thiosulphate
natri để trung hòa. Bổ sung thiosulphate natri
bằng nồng độ chlorine còn dư trong nước.
Sau đó, kiểm tra lại chlorine và xử lý như trên
vài lần đến khi không còn chlorine. Đối với
nước ngọt, đơn giản nhất là dùng nước máy
sinh hoạt đã qua xử lý mà không cần phải xử
lý thêm. Nếu dùng nước sông hay nước ao,
nên xử lý nước bằng chlorine trước khi sử
dụng. Nước giếng ngầm cần chú ý độ cứng.
Độ cứng nước tốt nhất là 50-150 mg/l. Hai
nguồn nước mặn và nước ngọt này được
dùng để pha thành nước có độ mặn 12‰ cho
ương ấu trùng.
2. Tôm bố mẹ
Các trại sản xuất nhỏ thông thường không
phải nuôi tôm bố mẹ mà chủ yếu thu tôm từ
tự nhiên hoặc thu mùa từ các trại nuôi tôm
thịt để đơn giản và tiện lợi cũng như giảm chi
phí trong sản xuất. Tuy nhiên, các trại lớn đôi
khi phải chủ động nuôi để có được nguồn

tôm cho sản xuất quanh năm và có chất
lượng cao. Daniels và ctv (2000); Reddy
(2000), New (2002) và Phương và ctv (2003)
thảo luận chi tiết về các kỹ thuật thu, vận
chuyển, và nuôi tôm bố mẹ.
3. Ương nuôi ấu trùng
3.1. Cho tôm nở
Tôm trứng chọn cho nở phải khỏe mạnh,
không bị thương tích, không có dấu hiệu
bệnh (đốm đen, đốm nâu, đóng rong, ), có
trọng lượng tốt nhất là 50-80 g và trứng có
màu xám đen. Nên chọn đủ số lượng tôm
trứng có màu sắc tương tự nhau để cho nở
đồng loạt. Có thể xử lý tôm mẹ trước khi cho
nở bằng formaline 20-25 mg/l (tính cho formol
nguyên chất) trong 30 phút, sau đó thay
nước. Tôm sau khi xử lý xong được cho vào
bể nở. Bể nhỏ 50 lít có thể thả 2-3 con tôm
trứng. Bể lớn thì thả nhiều hơn. Cần sục khí
liên tục cho bể nở. Tốt nhất, nước bể nở nên
có độ mặn khoảng 5-7 ‰ để tránh gây sốc
cho tôm mẹ, trứng tôm cũng như ấu trùng ít
bị sốc khi chuyển vào bể ương với độ mặn
cao 12 ‰. Nếu chọn tôm tốt, trứng sẽ nở
ngay đêm đó. Trường hợp tôm chưa nở sáng
sớm để chuyển vào bể ương.
3.2. Thu và bố trí ấu trùng vào bể ương
Sau khi ấu trùng nở, thu ấu trùng vào buổi
sáng. Ngừng sục khí bể, che tối bể, chừa một
góc để có ánh sáng hoặc dùng đèn để tập

trung ấu trùng lại một góc để hút ra bằng ống
hút. Ấu trùng khỏe sẽ có tính hướng quang
mạnh và tập trung nơi chiếu sáng, ấu trùng
kích cỡ lớn, màu trong sáng, và hoạt động
tích cực. Ấu trùng thu được nên xử lý với
Formol 200 ppm trong 30 giây, sau đó, bố trí
vào bể ương đã được chuẩn bị sẵn. Bể ương
ấu trùng có mức nước tùy vào qui trình ương
với khoảng 0,8-1m đối với hệ thống nước
trong hở và nước trong kín; và khoảng 0,6-
0,7 m đối với hệ thống nước xanh cải tiến để
tảo phát triển. Nước ương có độ mặn 10-12
%o. Sục khí liên tục và vừa phải cho bể ương
với số lượng 3-4 đá bọt/m2 mặt bể. Đối với
mô hình nước xanh cải tiến, cần bổ sung tảo
(tảo Chlorella thuần hoặc nước xanh từ bể
nuôi cá rô phi) trước khi bố trí ấu trùng với
mật độ khoảng 0.5-1 triệu tế bào/ml để nước
có màu xanh nhạt. Mật độ ấu trùng bố trí nên
trong khoảng 50-60 con/lít đối với mô hình
nước trong kín và nước xanh cải tiến; và 100-
150 con/lít đối với mô hình nước trong hở.
Qui trình nước trong hở cũng có thể bố trí với
mật độ cao 300-500 ấu trùng/Lít để ương
trong 10-15 ngày đầu (đạt giai đoạn V-VII) thì
sang thưa ương với mật độ 60-100 ấu
trùng/L (Ang, 1987&1995; Reddy, 2000b;
Correia và ctv, 2000; New, 2002; Phương và
ctv, 2003).
3.3. Chăm sóc, cho ăn

Trong ương ấu trùng tôm càng xanh, có thể
cho ấu trùng ăn bằng các loại Artemia,
Moina, thịt cá, thịt mực, Artemia tiền trưởng
thành, trùng chỉ (giun đỏ), thức ăn chế biến,
thức ăn nhân tạo Tuy nhiên, thức ăn
thường được sử dụng nhất là ấu trùng
Artemia và thức ăn chế biến.
Cho ấu trùng ăn Artemia
Ngày đầu tiên không cần cho ấu trùng ăn. Từ
ngày thứ 2 đến ngày thứ 5, ấu trùng được
cho ăn bằng Artermia mới nở, ít nhất 2 lần
mỗi ngày vào lúc sáng và chiều. Mật độ cho
ăn trung bình mỗi lần là 1-2 Artemia/ml nước.
Từ ngày thứ 5, mỗi ngày cho ấu trùng ăn
Artemia 1 lần vào chiều tối, ban ngày cho ăn
tức ăn chế biến 4 lần/ngày. Lượng Artemia
cho ăn tăng dần lên 2-4 con/ml về giai đoạn
cuối. Tuy nhiên, tùy qui trình ương, nếu mật
độ ương cao thì lượng Artemia cho ăn có thể
tăng lên đến 5-10 con/ml ở giai đoạn ấu trùng
IX-XI. Đối với qui trình nước xanh cải tiến,
Artemia sau khi cho nở nên thu cả ấu trùng
và vỏ trứng đem xử lý với formol 100 mg/l
trong vài phút, sau đó cho vào các bể ương.
Vỏ Artemia có vai trò quan trọng như giá thể
trong bể.
Cho ấu trùng ăn thức ăn chế biến
Tùy từng trại mà có thể chế biến thức ăn với
các thành phần khác nhau như trứng, sữa,
thịt tôm, mực, sò huyết, gan và các hỗn hợp

Vitamine, khoáng. Các công thức thức ăn
chế biền được trình bày ở Bảng 1. Công thức
ở Bảng 1 đã được xây dựng bởi Khoa Thủy
sản - Đại học Cần Thơ dựa trên nền công
thức của Ang (1995) và hiện được áp dụng
phổ biến ở các trại giống ở Đồng bằng Sông
Cửu Long. Các nguyên liệu này được trộn
đều và hấp cách thủy, sau đó, ép thức ăn
qua sàn với kích cỡ mắt lưới khác nhau là
300 μm, 500 μm và 700 μm để tạo hạt thức
ăn có cỡ thích hợp cho từng giai đoạn của
tôm (Bảng 2).
Cho ấu trùng ăn tức ăn chế biến vào ban
ngày, 3-4 lần/ngày. Khi cho ăn, nên ngưng
sục khí để ấu trùng tập trung lên mặt nước rồi
rãi thức ăn từ từ xung quanh bể nơi ấu trùng
tập trung để ấu trùng bắt mồi hiệu quả và
tránh dơ nước. Lượng cho ăn tùy vào khả
năng bắt mồi của ấu trùng. Sau khi ấu trùng
ăn hết thức ăn thì mới sục khí trở lại. Thời
gian cho ăn mỗi lần mất khoảng 15-30 phút.
Tùy vào qui trình ương nuôi và cách cho ăn
mà lượng thức ăn chế biến và lượng Artemia
sử dụng để sản xuất 1 triệu tôm bột sẽ khác
nhau (AQUACOP, 1983; New và Shingholka,
1985; Thắng, 1995; Correia và ctv, 2000;
Valenti và Daniels, 2000). Trong mô hình
nước xanh cải tiến, lượng thức ăn cần để sản
xuất 1 triệu tôm bột có thể chỉ cần khoảng 20
kg thức ăn chế biến dạng ẩm và 2-4 kg trứng

Artemia (Hải và ctv, 2002).
Bảng 1: Công thức thức ăn chế biến cho ấu
trùng tôm (Phương và ctv, 2003)
Thành phần Lượng
Trứng gà 1 trứng
Sữa bột 10 g
Dầu mực 3 %
Lecithin 1.5 %
Vitamin C 100 – 500 mg/kg

Bảng 2: Kích cỡ thức ăn cho các giai đoạn ấu
trùng (Ang, 1995)

Giai đoạn ấu trùng
Kích cỡ thức ăn (μm)
Giai đoạn 4-5 300-400
Giai đoạn 6-8 500-600
Giai đoạn 9-11 700-1.000

3.4. Quản lý môi trường nước ương ấu
trùng
Tùy từng qui trình ương nuôi ấu trùng khác
nhau mà các phương pháp quản lý nước
cũng rất khác nhau (AQUACOP, 1983; New
và Shingholka, 1985; Ang, 1995; Thắng,
1995; Correia và ctv, 2000; Valenti và
Daniels, 2000; New, 2002; Phương và ctv,
2003).
Thay nước và hút cặn
Đối với mô hình nước trong-hở, cần thay

nước bể ương hằng ngày 30-50% tùy giai
đoạn bằng nước trong sạch. Hằng ngày, cần
hút cặn đáy bể sau khi cho tôm ăn và trước
khi thay nước. Cần chú ý nhiệt độ, độ mặn
giữa nước cấp và nước bể ương, tránh
chênh lệch lớn vì sẽ ảnh hưởng đến ấu trùng.
Đối với hệ thống nước trong - tuần hoàn, từ
ngày thứ 4 sau khi ương ấu trùng, nên cho
nước luân chuyển giữa bể ương và bể lọc
sinh học. Tỷ lệ nước luân chuyển khoảng
100-400 % thể tích bể ương/ngày. Hệ thống
bể ương cần được hút cặn 2 lần mỗi ngày.
Trong qui trình nước xanh, phải thay nước
mới thường xuyên, nhất là khi nước dơ hay
khi tảo tàn. Sau đó, bổ sung tảo mới. Trong
quá trình nuôi cũng thường xuyên hút cặn để
loại bỏ tảo chết và lắng ở đáy bể.
Đối với qui trình nước xanh cải tiến, cơ bản,
không phải thay nước, thêm tảo hay hút cặn
trong suốt thời gian ương. Điều này sẽ không
làm xáo động đáy bể, để tảo đáy phát triển sẽ
có vai trò như lọc sinh học.
Mức nước bể ương nên duy trì 0,8-1m đối
với hệ thống nước trong hở và nước trong
tuần hoàn; và 0,6-0,7m đối với hệ thống
nước xanh và nước xanh cải tiến.
Quản lý các yếu môi trường nước
Nhiệt độ nước là yếu tố quan trọng cần được
quản lý tốt trong phạm vi 26-31oC. Vào ban
đêm, mùa lạnh hay mùa mưa nhiều, trại nên

được giữ kín. Bố trí các dụng cụ nâng nhiệt
bằng điện hay nước nóng cho bể ương. Ban
ngày, hay mùa nóng, cần giữ trại thoáng và
mái nhà không được làm hoàn toàn bằng tole
trong suốt. Cần theo dõi nhiệt độ hàng ngày
lúc sáng và chiều.
Độ mặn nước ương nên được duy trì trong
phạm vi 12±2 %o. Trong quá trình thay nước,
nhất là đối với qui trình nước trong hở thì cần
phải trận trọng, tránh nước mới có độ mặn
chênh lệch lớn với nước ương làm sốc ấu
trùng. Đối với mô hình nước xanh cải tiến và
mô hình nước trong tuần hoàn do không thay
nước, vì thế độ mặn có thể tăng cao dần và
vượt 14 %o về cuối chu kỳ ương, nhất là vào
những tháng nóng. Trường hợp này cần phải
cấp thêm nước ngọt để điều chỉnh độ mặn
xuống 10-12 %o.
Nước bể ương ấu trùng nên có pH trong
khoảng 7-8,5. pH không nên vượt quá 9.
Trong qui trình nước xanh và nước xanh cải
tiến, khi mật độ tảo quá cao có thẻ ảnh
hưởng đến biến dộng lớn pH trong ngày. Cần
sục khi 1 mạnh hay thay bớt nước khi nước
quá xanh.
Ánh sáng cần thiết cho sự phát triển của ấu
trùng tôm càng xanh. Tuy nhiên, không nên
ương ấu trùng dưới ánh nắng trực tiếp. Đối
với hệ thống nước trong, chỉ cần ánh sáng
yếu, nhưng đối với mô hình nước xanh và

nước xanh cải tiến cần ánh sánh mạnh hơn
cho tảo phát triển. Cường độ ánh sáng thích
hợp là 6.000-18.000 lux, chu kỳ chiếu sáng
hàng ngày 10-12 giờ. Mái che có các tấm tole
sáng và tối xen kẽ nhau sẽ thích hợp cho
ương ấu trùng.
Oxy nên được duy trì trên 5 mg/l, tốt nhất là
gần đạt mức bảo hòa. Trung bình, mỗi 1 m3
bể ương cần khoảng 4 viên đá bọt với tốc độ
thổi khí vừa phải vừa đảm bảo Oxy, vừa giải
phóng khí độc, vừa giúp phân bố ấu trùng và
Artemia đều trong bể.
Thường xuyên theo dõi các yếu tố đạm hàng
ngày và đảm bảo nitrite dưới 0,1 mg/l, nitrate
dưới 20 mg/l, đạm a-môn (N-NH4 +) dưới 1.5
mg/l, N-NH3 dưới 0,1 mg/l. Đối với mô hình
nước trong-hở, thay nước mỗi ngày là biện
pháp giữ nước ương sạch. Đối với mô hình
nước trong - tuần hoàn, bể lọc sinh học hoạt
động tốt sẽ ổn định được hàm lượng đạm
trong phạm vi thích hợp. Trong mô hình nước
xanh cải tiến, tảo và các vi khuẩn phát triển
trong nước, trên vỏ Artemia và trên thành bể
sẽ là yếu tố quan trọng trong việc hấp thu và
tự ổn định nồng độ đạm.
Trong qui trình nước xanh cải tiến, sau khi bổ
sung tảo vào bể ương với mật độ khoảng
0,5-1 triệu tế bào/ml, cơ bản không phải bổ
sung thêm tảo trong suốt thời gian ương. Tảo
phát triển tự nhiên trong bể trong thời gian

ương nuôi và có thể đạt đến 5-10 triệu tế
bào/ml và duy trì màu xanh đến cuối chu kỳ
ương. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tảo
Chlorella sẽ suy tàn, đồng thời tảo khuê sẽ
phát triển, vì thế màu nước xanh sẽ dần
chuyển thành màu vàng nâu. Cũng có trường
hợp, sau khi tảo Chlorella suy tàn thì hệ tảo
đáy sẽ phát triển. Tuy nhiên, dù tảo Chlorella,
tảo khuê hay tảo đáy phát triển, chúng cũng
có vai trò quan trọng như hệ thống lọc sinh
học.
3.5. Chăm sóc bể ương trong giai đoạn
chuyển sang tôm bột
Ấu trùng sẽ bắt đầu chuyển sang hậu ấu
trùng (Postlarvae) sau 17-23 ngày ương và
hầu hết ấu trùng chuyển sang hậu ấu trùng
sau khoảng 25-35 ngày tùy theo điều kiện
ơng. Trong giai đoạn này, cần phải đặt thêm
các vật bám như các tấm lưới hay chùm
nylon vào bể cho tôm bột bám nhằm hạn chế
ăn lẫn nhau. Khi hầu hết ấu trùng đã chuyển
sang tôm bột, cần phải hạ dần độ mặn trong
khoảng 3-4 ngày để chuyển tôm sang nước
ngọt hoàn toàn. Trong thời gian này, ngoài
cho ấu trùng và tôm postlarvae ăn như giai
đoạn ấu trùng giai đoạn 9-11, cần cho tôm ăn
bổ sung các loại như trùng chỉ, moina hay
thức ăn công nghiệp. Sau 30-35 ngày có thể
thu hoạch tôm hoàn toàn để chuyển sang
ương tôm giống hoặc nuôi trực tiếp lên tôm

thịt.


Kinh nghiệm chọn con giống tôm càng
xanh chất lượng cao
Chất lượng tôm giống là yếu tố quan trọng,
có ý nghĩa quyết định đến tỷ lệ hao hụt, năng
suất và hiệu quả kinh tế của các mô hình
nuôi tôm càng xanh. Nếu con giống tôm càng
xanh kém chất lượng như: Kích cỡ không
đều, bơi lội yếu, bị xây sát hoặc gãy chân do
đánh bắt, thân có màu trắng đục hoặc có
nhiều mầm bệnh, vỏ mềm do mới lột xác sẽ
dẫn đến tỷ lệ hao hụt rất cao ngay từ khi vận
chuyển đến địa điểm thả nuôi và sẽ cho năng
suất khi thu hoạch kém, mặc dù các yếu tố
khác như: Môi trường nước, thức ăn, phòng
bệnh đều thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật trong
suốt quá trình nuôi.
Các phương pháp chọn tôm giống như sau:
1. Chọn tôm đều cỡ:
Tôm giống phải có chiều dài tương đối đều
nhau, tiêu chuẩn tôm giống phải có chiều dài
3 – 5cm (trong trường hợp chọn từ tôm Post
thì tôm Post phải được nuôi dưỡng trong môi
trường nước ngọt hoàn toàn, không có tôm
bơi ngửa và chiều dài từ 1 –2cm).
Trong trường hợp trong đàn tôm giống chọn
nuôi có một ít tôm lớn hơn hoặc nhỏ hơn so
với chiều dài bình quân của số lượng đàn

tôm dự tính chọn nuôi thì số lượng tôm có
kích thước lớn hơn hoặc nhỏ hơn không quá
10%.
2. Chọn tôm khỏe
Bắt một ít tôm giống (khoảng 80 – 100 con)
cho vào một cái chậu có nước cao 7 – 10cm,
dùng tay quay tròn nước trong chậu. Tôm
khỏe sẽ bơi ngược dòng nước, đuôi xòe ra
hoặc bám vào thành và đáy thau. Tôm yếu sẽ
bị trôi theo chiều nước hoặc tập trung ở lại
giữa chậu. Đàn tôm dự tính được nuôi được
coi là tôm khỏe khi số lượng tôm bị trôi theo
chiều nước hoặc tập trung ở giữa chậu chiếm
ít hơn 5% trên số lượng tôm kiểm tra.
Hoặc bà con có thể bắt một ít tôm như trên
thả vào dung dịch có pha Formol với nồng độ
100ppm (pha 1ml Formol trong 10 lít nước
sạch) sau 2 giờ số lượng tôm chết ít hơn 5%
trên tổng số tôm kiểm tra thì chứng tỏ đàn
tôm nuôi là khỏe mạnh.
Mặt khác cần chú ý một số yếu tố để chọn
tôm khỏe như:
– Tôm khỏe phải không bị dị hình, còn đủ
chân, càng, râu.
– Tôm khỏe lúc nào đôi râu cũng xếp song
song nhau, tôm yếu đôi râu mở hình chữ V.
– Tôm khỏe thì dạ dày (nằm phía trên đầu) có
chứa thức ăn và đường ruột vẫn còn thức ăn
(được biểu hiện là đường chỉ có màu nâu,
liền nhau không bị đứt đoạn chạy dọc theo

thân).
– Tôm khỏe thì bơi lội nhanh nhẹn và khi tắt
sục khí tôm sẽ búng mình lên khỏi mặt nước.
v3. Chọn tôm không bị bệnh
Tôm khỏe thân thường có màu xanh trong,
phần vỏ và phần chân tôm không có những
đốm nâu đen hoặc vàng xám, trên thân vỏ và
phần đuôi không có chỗ bị ăn mòn hoặc
khuyết sâu.
Tôm bệnh thường có màu trắng đục, mang
có đốm đen, phần vỏ và chân có nhiều chấm
nhỏ màu nâu đen hoặc xám vàng và bị đóng
rong.
Vậy khi mua tôm giống nên chọn mua con
giống từ những trại tôm hoặc cơ sở có uy tín
và cung cấp con giống có chất lượng .
Theo NNVN - WAG, 7/7/2005


Kinh nghiệm ương giống tôm của trung
tâm giống An Giang
Theo kế hoạch năm 2005, tỉnh AG sẽ thả
nuôi 870 ha tôm càng xanh. Ðến nay các địa
phương như huyện Châu Phú, Châu Thành,
huyện Thoại Sơn và thành phố Long Xuyên
đã thả nuôi trên diện tích gần 200 ha, đạt trên
20% so với kế hoạch tập trung chủ yếu là mô
hình nuôi tôm chân ruộng. Về con giống tỉnh
An Giang có Trung tâm giống Thuỷ sản tỉnh,
trại giống Mỹ Châu, trại giống huyện Thoại

Sơn và khoảng 20 trại ương giống khác của
các trang trại tư nhân sẽ cung ứng gần 50
triệu con tôm giống.
Để nâng cao chất lượng giống phục vụ cho
người chăn nuôi, Trung tâm nghiên cứu sản
xuất giống thuỷ sản tỉnh đã không ngừng ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để nguồn tôm
giống cung ứng cho ngư dân đạt yêu cầu.
Một vấn đề được Ngành nông nghiệp tỉnh đặt
ra là tăng cường công tác kiểm tra giám sát
những cơ sở sản xuất giống tôm càng xanh
nhằm nâng cao chất lượng giống phục vụ
cho người chăn nuôi.
Tiếp xúc với chị Đoàn Thanh Dung, Phó
trưởng trại giống Mỹ Thạnh trực thuộc Trung
tâm tâm nghiên cứu sản xuất giống thuỷ sản
tỉnh chi cho biết. Từ tháng 4/2003 Trại giống
Mỹ Thạnh tiếp nhận qui trình sản xuất giống
tôm theo mô hình nước xanh cải tiến. Sau khi
đưa qui trình vào ứng dụng, Trung tâm đã
ương trên 1 triệu con tôm post giống, tuy
nhiên khi đưa đến các hộ chăn nuôi thì tỷ lệ
sống chỉ đạt 25%. Trung tâm nghiên cứu sản
xuất giống thuỷ sản tỉnh đã phối hợp với cán
bộ kỹ thuật chuyên ngành thuỷ sản để tìm
hiểu nguyên nhân trên, qua đó đã rút ra một
số kinh nghiệm là đa số ngư dân nuôi tôm ít
quan tâm đến việc quản lý môi trường, mật
độ thả dầy, trong ao ương dưỡng bà con ngư
dân không xử lý tảo triệt để nên gây shook

làm cho tôm chết. Về phía Trung tâm nghiên
cứu sản xuất giống thuỷ sản thì qui trình sản
xuất giống tôm theo mô hình nước xanh cải
tiến tuy có chi phí thấp, giá thành con giống
giảm nhưng con giống lại mẩm cảm với môi
trường nên tỷ lệ hao hụt cao làm cho bà con
ngư dân bị thiệt hại nhiều. Để khắc phục tình
hình trên, Trung tâm đã triển khai đồng thời
các ao dưỡng nuôi tôm giống bằng cách
nhận giống tôm từ các nơi về nuôi dưỡng để
đạt post 15 giao lại cho ngư dân. Trong niên
vụ năm 2003 Trung tâm đã giao trên 4,6 triệu
con tôm post cho bà con ngư dân trong tỉnh,
hầu hết đều đạt tỉ lệ sống cao.
Để tiếp tục khắc phục tồn tại trong việc sản
xuất tôm giống, tháng 3/2004 Trại giống Mỹ
Thạnh đã tiếp nhận chuyển giao công nghệ
của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II về
qui trình sản xuất tôm giống theo qui trình
nước trong hở. Sau khi tiếp nhận công nghệ
mới kết hợp với kinh nghiệm qua nhiều năm
sản xuất tôm giống trước đây nên Trại đã
ương mẻ giống đầu tiên với trên 3.500.000
con tôm post với tỷ lệ sống đạt từ 40 đến
50% trở lên, đạt yêu cầu của Ngành thuỷ sản
hiện nay.
Trong niên vụ năm nay, Trung tâm nghiên
cứu sản xuất giống thuỷ sản tỉnh dự kiến sẽ
sản xuất 10 triệu con tôm giống để cung ứng
cho nhu cầu nuôi trồng thuỷ sản trong tỉnh.

Một trong những vấn đề Trung tâm đang tiếp
tục nghiên cứu hiện nay là thực hiện đề án
ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để
ương giống tôm càng xanh toàn đực. Nếu dự
án trên thành công sẽ mở ra triển vọng mới
cho phong trào nuôi tôm trong tỉnh hiện nay.


×