Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Du lịch sinh thái Chương 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.98 KB, 30 trang )

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT
TRIỂN DLST TRÊN THẾ GIỚI
1. Cơ sở lí luận về du lịch sinh thái
1.1. Du lịch
Hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ lâu đời và đang phát
triển với tốc độ rất nhanh chóng. Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, thuật
ngữ du lịch trở nên rất thông dụng, nhưng khái niệm “du lịch” lại được hiểu
rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau:
- Theo I.I. Pirôgiônic (1985): “Du lịch là một dạng hoạt động của dân
cư trong thời gian rỗi, liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi chữa bệnh, phát triển thể
chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm
theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”
- Theo Michael Coltman (Mĩ): “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4
nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung
ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”.
- Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO): “Du lịch là tổng hợp các
mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc
hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường
xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú
không phải là nơi làm việc của họ”.
- Theo Luật Du lịch Việt Nam, năm 2005: “Du lịch là hoạt động của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm thỏa mãn nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng… trong khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy, du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt nó
mang ý nghĩa thông thường của việc đi lại của con người với mục đích nghỉ
ngơi, giải trí… Mặt khác, du lịch được nhìn nhận dưới một góc độ khác như
là hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) do chính
nó tạo ra. Bởi vậy, những tác động của du lịch đến lãnh thổ đón khách là khá
phức tạp.
1.2. Du lịch sinh thái


1.2.1. Định nghĩa du lịch sinh thái
DLST là một khái niệm mới mẻ, đang thu hút được sự quan tâm của
nhiều người, thuộc các lĩnh vực khác nhau. DLST được bắt nguồn từ những
cuộc dạo ngoài trời với mục đích thư giãn và mong muốn gần gũi với thiên
nhiên. Nó bao gồm những người đến các khu tự nhiên hoang dã hay các khu
bảo tồn; những người đi leo núi, đi bộ xuyên rừng hay đi thuyền trên suối;
những người đi cắm trại, ngủ nghỉ trong những lều bạt hay trong nhà của
người dân địa phương; những người chụp ảnh tự nhiên hay quan sát chim
thú... có thể được coi là những khách DLST đầu tiên.
DLST là một khái niệm rộng lớn, được hiểu khác nhau từ những cách
nhìn khác nhau của các cá nhân, tổ chức nghiên cứu.
DLST có khi được hiểu chỉ là sự kết hợp ý nghĩa của 2 từ ghép “du
lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc với nhiều người. Cũng có những quan
niệm cho rằng DLST là loại hình du lịch có lợi cho sinh thái, ít có những tác
động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái - nơi diễn ra
các hoạt động du lịch.
- Định nghĩa về DLST lần đầu tiên được Hector Ceballos - Lascurain
đưa ra năm 1987: “DLST là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị
thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức
trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới động thực vật cũng như
những biểu thị văn hóa(cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong khu
vực này.
Trong định nghĩa này, Ceballos - Lascurain mới chỉ dừng lại ở sự “trân
trọng tự nhiên”, những định nghĩa sau này của các nhà nghiên cứu, các tổ
chức du lịch đã có thay đổi sâu sắc hơn.
- Theo Wood, 1991: “DLST là du lịch đến các khu vực còn tương đối
hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hóa
mà không làm thay đổi sự toàn vẹn của các hệ sinh thái. Đồng thời tạo
những cơ hội về kinh tế để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích
về tài chính cho người dân địa phương”.

Ở đây, Wood đã đề cập đến giáo dục môi trường, phương cách bảo tồn
tự nhiên và sự phát triển của cộng đồng trong DLST.
- Định nghĩa của Hiệp hội DLST Ôxtrâylia: “DLST là du lịch dựa vào
thiên nhiên, trong đó bao gồm các nhân tố giáo dục và được quản lí bền
vững về mặt sinh thái”. Ở định nghĩa này, quản lí bền vững và được giáo
dục là 2 nhân tố chủ yếu được nhấn mạnh trong DLST.
- Định nghĩa ngắn gọn và đầy đủ ý nghĩa của hiệp hội DLST quốc tế là:
“DLST là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn
được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương” .
- Ở Việt Nam, định nghĩa về DLST được đưa ra trong Luật Du lịch Việt
Nam là: “DLST là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn
hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng hướng tới phát triển bền
vững” . Định nghĩa này đã nêu lên khái quát về đặc tính và mục tiêu của
DLST.
Còn rất nhiều các tên gọi và khái niệm đã được đưa ra thể hiện loại
hình du lịch gắn với thiên nhiên, có liên quan và gần gũi về ý nghĩa với
DLST. Valentine (1992) đã khái quát các tên gọi đó như sau:
- Du lịch dựa vào tự nhiên. - Du lịch lựa chọn.
- Du lịch tham quan tự nhiên. - Du lịch có trách nhiệm.
- Du lịch định hướng tự nhiên. - Du lịch đạo đức.
- Du lịch thân thiện với môi trường. - Du lịch bền vững.
- Du lịch thiên nhiên hoang dã. - Du lịch dựa vào cộng
đồng.
- Du lịch xanh. - Du lịch môi trường...
Thực tế, đã có rất nhiều các định nghĩa khác về DLST, trong đó
Buckley (1994) đã tổng quát như sau: “Chỉ có du lịch dựa vào thiên nhiên,
được quản lí bền vững, hỗ trợ bảo tồn và có giáo dục môi trường mới được
xem là DLST”. Trong đó yếu tố quản lí bền vững bao hàm cả nội dung phát
triển cộng đồng.
Như vậy, từ định nghĩa ban đầu được đưa ra từ năm 1987 cho đến nay,

nội dung về DLST đã có sự thay đổi. Từ chỗ đơn thuần coi hoạt động DLST
là loại hình du lịch ít tác động đến môi trường tự nhiên sang cách nhìn tích
cực hơn. Theo đó, DLST là loại hình du lịch có trách nhiệm với môi trường,
thể hiện ở tính giáo dục và diễn giải về tự nhiên, có đóng góp cho hoạt động
bảo tồn và đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.










DU LỊCH

DU LỊCH
SINH THÁI
DU LỊCH
THIÊN NHIÊN
DU LỊCH HỖ TRỢ
BẢO TỒN VÀ PHÁT
TRIỂN CỘNG ĐỒNG
DU LỊCH
CÓ GIÁO DỤC
MÔI TRƢỜNG
DU LỊCH
ĐƢỢC QUẢN LÍ
BỀN VỮNG


DU LỊCH

DU LỊCH

DU LỊCH

DU LỊCH

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc du lịch sinh thái [62]
Sơ đồ : Khái niệm về du lịch sinh thái



Tóm lại, mặc dù cũng lấy các hệ sinh thái làm đối tượng, nhưng DLST
hoàn toàn không đồng nghĩa với du lịch thiên nhiên hay du lịch xanh. Nói
đến du lịch thiên nhiên hay du lịch xanh mới chỉ là nói đến đối tượng du
lịch, cũng tương tự như ta nói về du lịch văn hóa, du lịch lễ hội hay du lịch
biển… Các loại du lịch đó có thể được tiến hành theo phương thức phát triển
bền vững, hoặc theo phương thức thương mại, không bền vững.
Những loại du lịch thiên nhiên hay du lịch xanh, tiến hành trong các
vùng sinh thái còn khá nguyên vẹn, theo phương thức của du lịch bền vững,
là dạng cơ bản của DLST. Nó là dạng cơ bản vì “các hệ sinh thái còn khá
nguyên vẹn” còn có thể được mở rộng, nghĩa là đặc trưng cho một vùng sinh
thái - nhân văn. Khi đó, một bộ phận của du lịch làng bản, du lịch đồng
quê… nếu hoạt động theo phương thức du lịch bền vững cũng sẽ là một bộ
phận mở rộng của DLST. Tuy nhiên, phần lớn các nhà du lịch học mới chỉ
nói đến DLST theo nghĩa ban đầu của nó, lấy đối tượng là thiên nhiên.
1.2.2. Các đặc trưng của du lịch sinh thái và khách du lịch sinh thái
a. Đặc trưng của du lịch sinh thái

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa những dấu hiệu đặc trưng cơ
bản của DLST như sau:
- Dựa trên sự hấp dẫn về tự nhiên. Đối tượng của DLST là những khu
vực hấp dẫn với các đặc điểm phong phú về tự nhiên, đa dạng về sinh học và
những nét văn hóa bản địa đặc sắc. Đặc biệt những khu tự nhiên còn tương
đối hoang sơ, ít bị tác động bởi các hoạt động của con người. Chính vì vậy,
hoạt động DLST thường được diễn ra và thích hợp với các VQG và các khu
bảo tồn thiên nhiên.
- Hỗ trợ bảo tồn và quản lí bền vững về sinh thái. Đây là một đặc trưng
khác biệt nổi bật của DLST so với các loại hình du lịch khác. Trong DLST,
hình thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải được
quản lí cho sự bền vững của cả hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch. Đó là
lí do tại sao các nhà quản lí VQG nên đặt ưu tiên cao nhất vào việc quản lí
các hoạt động du lịch trong VQG của họ.
- Có giáo dục và diễn giải về môi trường. Đặc điểm giáo dục môi
trường trong DLST là một yếu tố cơ bản thứ hai, phân biệt nó với loại du
lịch tự nhiên khác. Diễn giải và giáo dục môi trường là những công cụ quan
trọng trong việc tăng thêm những kinh nghiệm du lịch cho du khách. Khách
DLST đích thực là những khách có thể biết và mong muốn được gần gũi,
tiếp xúc với môi trường nhằm nâng cao kiến thức và sự trân trọng môi
trường.
GDMT trong DLST có tác dụng trong việc làm thay đổi thái độ của du
khách, cộng đồng và chính ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn, và sẽ góp
phần tạo nên sự phát triển bền vững của hoạt động DLST trong những khu
tự nhiên. Giáo dục môi trường trong DLST có thể được coi là một công cụ
quản lí hữu hiệu cho các khu tự nhiên.
- Hỗ trợ phát triển cộng đồng địa phương. DLST phải đảm bảo cải
thiện đời sống, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương và môi trường
của khu vực. Cộng đồng địa phương có thể tham gia vào những công việc
vận hành DLST trên phương diện cung cấp kiến thức, kinh nghiệm thực tế,

các dịch vụ, và các sản phẩm phục vụ khách. Những lợi ích này nhất thiết
phải lớn hơn sự trả giá về môi trường và văn hóa - xã hội, nảy sinh từ hoạt
động du lịch, mà cộng đồng địa phương phải gánh chịu.
- Thỏa mãn nhu cầu về kinh nghiệm du lịch cho du khách. Khách
DLST thường có mong muốn trải nghiệm trong thiên nhiên và mức độ đáp
ứng nhu cầu này sẽ thể hiện chất lượng của hoạt động DLST. Vì vậy, các
dịch vụ du lịch làm hài lòng du khách, về mặt trải nghiệm thiên nhiên, chỉ
nên đứng sau công tác bảo tồn.

b. Các kiểu khách du lịch tự nhiên và đặc trưng của khách du lịch sinh
thái
Trong quy hoạch và quản lí du lịch cần chú ý đến các yếu tố: Đặc điểm
khu tự nhiên, quy mô nhóm du lịch, mức độ tiếp xúc trực tiếp của du khách với
môi trường, yêu cầu về các điều kiện dịch vụ du lịch, nhu cầu về kinh nghiệm
du lịch… Kết hợp các yếu tố này tạo nên các kiểu du lịch tự nhiên. Các kiểu
này thể hiện trong bảng tóm tắt dưới đây:
Bảng: Các kiểu khách du lịch tự nhiên
Kiểu
khách
Yêu cầu về
khu tự nhiên
Quy mô
nhóm
Phƣơng tiện,
cơ sở dịch vụ
Nhu cầu kinh
nghiệm du lịch
1.
Du lịch
tiên phong.

Các khu vực
tự nhiên xa xôi
còn ít được sử
Các cá nhân
hoặc nhóm
nhỏ (dưới 10
Dùng vận tải
thô sơ (đi bộ,
thuyền bè), ít
Là kinh nghiệm "bất
thường đầu tiên", yêu
cầu mức độ thách thức
dụng. người). nhu cầu về dịch
vụ và cơ sở hạ
tầng.
cao về sự hiểu biết và
các kĩ năng hoạt động
ngoài trời.
2.
Du lịch
nhóm nhỏ.
Khu vực đặc
biệt và thường
là ở những nơi
biệt lập
Cá nhân,
nhóm tương
đối nhỏ (dưới
15 người).
Có sử dụng vận

tải cơ giới đặc
biệt (xe đi xuyên
rừng, thuyền
máy nhỏ).
Yêu cầu sự thách thức
và tính tự lập ở mức
trung bình, phù hợp
cho nhiều nhóm tuổi.
Kĩ năng hoạt động
ngoài trời ở mức vừa
phải.
3.
Du lịch
phổ biến
(đại trà).
Là các khu
vực hấp dẫn
về tự nhiên
phổ biến hay
nổi tiếng.
Nhóm khách
với số lượng
lớn.
Dùng vận tải cơ
giới lớn, phổ
biến. Yêu cầu
đáng kể về cơ sở
hạ tầng và các
dịch vụ.
Yêu cầu về tính tự lập

và thách thức nói
chung là thấp. Đáp
ứng cho mọi đối tượng
du khách bất kể tuổi
tác hoặc khả năng về
sức khoẻ.

Từ việc nhận diện những đặc điểm du lịch tự nhiên, chúng ta có thể hình
dung ra đặc điểm của khách DLST. Bởi lẽ, giữa chúng có những sự tương đồng
về yếu tố hấp dẫn là các đối tượng tự nhiên, nhưng chúng có sự khác nhau bởi
hình thức tổ chức quản lí.
Khách DLST đích thực thường mang những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Không đòi hỏi nhiều các nhu cầu về tiện nghi, nhưng lại yêu cầu cao về
thông tin, kinh nghiệm du lịch.
- Sử dụng đồ ăn, vật dụng của địa phương và họ sẵn sàng chi trả cho
chuyến du lịch để có được kinh nghiệm du lịch, cho bảo tồn và phát triển cộng
đồng.
- Thích tìm kiếm những thử thách về sức lực và tinh thần - ưa khám phá
và mạo hiểm.
- Mong muốn được giao tiếp với dân cư địa phương và tìm hiểu văn hóa
bản địa.
1.2.3. Các nguyên tắc của du lịch sinh thái
DLST được phát triển trên cơ sở những nguyên tắc hướng tới sự phát
triển bền vững. Các nguyên tắc được đảm bảo trong DLST là các nguyên tắc
không chỉ cho các nhà quy hoạch, quản lí, điều hành mà còn cả những hướng
dẫn viên DLST. Cochranne đã tổng kết các nguyên tắc của DLST như sau:
- Sử dụng thận trọng những nguồn tài nguyên môi trường, kích thích sự
bảo tồn và giảm thiểu các nguồn tiêu dùng gây rác rưởi.
- Phát triển ở mức độ nhỏ và hợp nhất tới các ngành kinh tế khác hoặc
với các chiến lược sử dụng lãnh thổ.

- Tạo nên những lợi ích kinh tế lâu dài cho cộng đồng địa phương,
những người nên được quyền làm chủ trong sự phát triển và hoạch định.
- Các chiến lược thị trường cần tôn trọng môi trường du lịch, không
nên làm xói mòn nền văn hoá và xã hội địa phương.
- Có khả năng hấp dẫn số lượng khách du lịch ngày càng tăng và
thường xuyên đáp ứng cho du khách những kinh nghiệm du lịch lí thú.
- Khách du lịch cần được cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về
khu vực đến thăm, đảm bảo tính giáo dục cao.
Đối chiếu với các nguyên tắc của du lịch bền vững, các nguyên tắc của
DLST cũng nhằm vào các mục tiêu hướng tới du lịch bền vững. Để đạt được
mục tiêu này, việc hiểu và đánh giá mối quan hệ của DLST với bảo tồn
trong các địa bàn tiêu biểu như các VQG, các khu bảo tồn thiên nhiên, các
lợi ích và những nguy cơ nảy sinh tiêu cực đến môi trường và cộng đồng
trong các khu vực này là hết sức cần thiết.
1.2.4. Các yêu cầu của du lịch sinh thái
Để thực hiện các nguyên tắc trên DLST cần có những yêu cầu cơ bản.
Các nhà khoa học nghiên cứu về DLST đã đưa ra 4 yêu cầu cơ bản mà
DLST cần đảm bảo là: Dựa trên các hệ sinh thái điển hình; đảm bảo tính
giáo dục; sử dụng lãnh thổ du lịch phù hợp với bảo tồn và khuyến khích sự
tham gia của cộng đồng địa phương.
a. Yêu cầu 1: Dựa trên cơ sở các hệ sinh thái điển hình
Yêu cầu đầu tiên để DLST được hình thành và phát triển là sự tồn tại
của các hệ sinh thái điển hình và có đa dạng sinh học cao, trong đó không
loại trừ các yếu tố văn hóa - nhân văn bản địa. Vì vậy, DLST thường phát
triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các VQG, nơi còn tồn tại
những khu rừng nguyên sinh với tính đa dạng sinh học cao.
b. Yêu cầu 2: Đảm bảo tính giáo dục
Việc chủ động gắn liền giáo dục với bảo tồn có vai trò to lớn, tạo nên sự
bền vững cho DLST. Theo Pigram: “Một trong những con đường có hứa hẹn
nhất để đạt được những mối quan hệ hoà hợp giữa du lịch với môi trường tự

nhiên và xã hội là tăng cường giáo dục và thông tin”. Quá trình giáo dục,
chương trình đào tạo cần có mặt của tất cả các thành phần tham gia DLST,
như các nhà quản lí, điều hành, hướng dẫn viên và cả bản thân du khách, từ
trước và trong quá trình hành trình du lich, nhằm làm giàu kinh nghiệm cho
du khách và khuyến khích những hoạt động thực tiễn có ích đối với môi
trường.
- Yêu cầu giáo dục trong DLST được đáp ứng trước tiên thông qua một
hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác cho du khách, từ trước chuyến đi cho
đến khi kết thúc hành trình du lịch:
+ Đảm bảo thông tin trước chuyến đi: là yêu cầu rất quan trọng nhằm
cung cấp cho du khách những thông tin khái quát nhất và giúp họ định hình
về “điểm đến” du lịch của mình xem có phù hợp với sở thích đặc thù và nhu
cầu nâng cao nhận thức của họ hay không.
Đảm bảo thông tin cần thiết về điểm du lịch cho du khách trước khi
hành trình du lịch, thông qua các hình thức như: truyền thông đại chúng
(tivi, radio, mạng internet…), các sách báo, tài liệu, các ấn phẩm về VQG.
Phổ biến thông tin trong các khu du lịch, các trường học… thông qua sự giới
thiệu về VQG, phổ biến quy định từ các hướng dẫn viên và các sơ đồ chỉ dẫn
tham quan điểm, khu du lịch.
Trong DLST, trung tâm đón khách rất quan trọng, nó thường gắn liền
với trung tâm giáo dục môi trường, nhằm nâng cao nhận thức cho du khách,
chỉ dẫn cho du khách các tuyến đi hợp lí mà vẫn hấp dẫn, thú vị.
+ Đảm bảo thông tin trong quá trình diễn ra hoạt động du lịch thông
qua: các hướng dẫn viên, hệ thống các biển báo, biển chỉ dẫn và các tờ rơi,
tờ gấp. Trong các hình thức đảm bảo thông tin đó, việc tạo các đường mòn
tự hướng dẫn có vai trò đặc biệt quan trọng.
Những thông tin này nhất thiết phải được truyền đạt đến từng du khách
thông qua vai trò của trung tâm đón khách, các phương tiện tiện truyền tải
thông tin trên chuyến thăm quan và các đường mòn tự hướng dẫn.
- Hoạt động DLST đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên

tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi
nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lí các khu tự
nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những
giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những giá trị này thay đổi hoặc vĩnh
viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành DLST phải có được sự cộng tác
với các nhà quản lí các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương
nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự
nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung
giữa người dân địa phương với khách du lịch.
Như vậy, các nhà điều hành DLST cần phải tuân theo những nguyên
tắc nhất định và phải đạt được những tiêu chuẩn khác hẳn với những nhà
điều hành du lịch thông thường là sự cam kết có trách nhiệm với môi trường
và cộng đồng địa phương.
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao hiểu biết cho khách DLST, người
hướng dẫn viên ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các
đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất
quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của DLST. Với
những loại hình du lịch tự nhiên khác, du khách có thể tự mình tìm hiểu
hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên. Trong
DLST, hướng dẫn viên có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tính
giáo dục và thuyết minh môi trường cũng như làm tăng tính hấp dẫn cho
điểm du lịch. Bởi vậy, hướng dẫn viên không những cần có trình độ nghiệp
vụ du lịch cao mà cần có khả năng diễn giải môi trường và kiến thức về môi
trường đủ rộng để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, nâng cao nhận thức cho du
khách.
c. Yêu cầu 3: Sử dụng lãnh thổ du lịch phù hợp với bảo tồn
Sức hút thông thường của một khu hấp dẫn du lịch là việc thu hút ngày
càng đông và nhiều loại khách, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của
khách tham quan. Thách thức đối với DLST là đảm bảo chất lượng du lịch
mà lại hạn chế được những tác động có hại cho môi trường điểm du lịch.

Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ rõ rằng, để đạt được mức độ sử dụng tự
nhiên hợp lí, DLST chỉ được tổ chức hoạt động trong những khu vực cho
phép của môi trường và phải được quy hoạch thận trọng trên cơ sở khoanh

×