Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Vài nét chấm phá về Hoa Kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.56 KB, 59 trang )

Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
VÀI NÉT CHẤM PHÁ VỀ HOA KỲ
CHƯƠNG I
Một trong nhiều các kiểu di cư và cơ cấu dân cư thiểu số
Câu chuyện về người Mỹ là câu chuyện về sự di cư và sự đa dạng. Hoa
Kỳ là quốc gia hàng năm đón số lượng người nhập cư nhiều hơn bất cứ một
quốc gia nào khác-tất thảy hơn 50 triệu người và hàng năm vẫn tiếp tục đón
nhận khoảng 70 vạn người. Trước đây nhiều nhà văn đã ám chỉ tới sự hoà
đồng văn hoá-Một hình ảnh gợi ý, nhắc nhở rằng những người nhập cư mới đã
từ bỏ những thói quen, tập tục cũ của họ để chấp nhận lối sống Mỹ. Một ví dụ
điển hình là hầu hết con em của những người nhập cư mới đều học tiếng Anh
thay vì học ngôn ngữ của cha mẹ chúng. Trong những năm gần đây, dường
như người Mỹ đã ý thức được những giá trị ngày càng tăng lên của sự đa dạng
văn hóa. Các cộng đồng thiểu số đã và đang cố gắng khôi phục và lưu truyền
các giá trị vă hoá truyền thống của họ và con em của họ lớn lên với hai ngôn
ngữ.
-NGƯỜI MỸ GỐC:
Những người Mỹ nhập cư đầu tiên đến vùng đất mới khoảng 20.000
năm trước đây. Họ là những người đi lang thang, những người thợ săn cùng
gia đình của mình bám đuổi những đàn thú hoang từ Châu Á tới Châu Mỹ,
vượt qua vùng đất nay là eo biển Bơ-ring. Khi nhà thám hiểm người Tây Ban
Nha Cô-lôm-bô tìm ra “thế giới mới” năm 1492, đã có khoảng 1,5 triệu người
Mỹ gốc đang sống ở vùng đất mà ngày nay gọi là Châu Mỹ. Do nhầm lẫn
vùng đất San-va-đo thuộc Ba-ha-ma và thổ dân vùng này, Cô-lôm-bô gọi
chung tất cả những người ở đây là thổ dân Mỹ bản xứ.
Trong suốt 200 năm tiếp theo, nhiều người thuộc các quốc gia Âu Châu
theo chân Cô-lôm-bô vượt Đại tây dương đến khám phá Châu Mỹ, xây dựng
các cơ sở buôn bán và thiết lập các vùng thuộc địa. Những người Mỹ gốc bị
ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dòng người đến từ Châu Âu. Sự chuyển đổi sở
hữu đất đai từ thổ dân sang người đến từ Châu Âu-Người Mỹ ngày nay luôn
gắn liền với các cuộc chiến, các hiệp định và thậm chí qua các cuộc tranh


giành cướp đoạt. Trong cuộc viễn chinh của mình về phía Tây, người gốc Âu
đã buộc thổ dân liên tục phải từ bỏ quê hương bản quán của mình. Vào thế kỷ
19, chính phủ lúc đó giải quyết ‘Vấn đề thổ dân’ bằng giải pháp bắt buộc các
bộ lạc phải sống trong các khu vực đặc biệt gọi là vùng bảo tồn. Một số bộ lạc
đã đứng lên đấu tranh để gìn giữ mảnh đất cha ông. Trong nhiều trường hợp
những vùng bảo tồn phải đối mặt với đói nghèo và tật bệnh. Cư dân ở những
vùng này phải dựa vào sự trợ giúp của chính phủ. Nghèo đói và tình trạng
không việc làm đối với người Mỹ bản xứ vẫn tồn tại cho tới ngày nay.
1
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Các cuộc chiến tranh lãnh thổ cùng với các loại tật bệnh từ thời thế giới
cũ đã làm cho dân số người Mỹ bản xứ suy giảm nghiêm trọng, Chỉ còn
khoảng 35.0000 người vào năm 1920. Nhiều bộ lạc đồng thời bị xoá sổ, trong
số đó có bộ lạc Mandan của bang nam Đa-cô-ta, bộ lạc vốn trước đó đã giúp
Mê-ri-quet Le-Uych và William Clác khám phá vùng Đông Bắc chưa có
người sinh sống vào năm 1804-1806. Các bộ lạc khác còn lại bị mất ngôn ngữ
và nền văn hoá của chính mình. Tuy nhiên người Mỹ bản xứ cũng chứng tỏ
được sức sống mãnh liệt của mình. Hiện toàn dân số Hoa Kỳ chỉ còn khoản
1/3 dân số sống trong các khu bảo tồn.
Rất nhiều tên địa danh ở Hoa Kỳ ngày nay có gốc từ các từ của thổ dân,
bao gồm các bang Ma-sa-chu-set, Mi-chi-Gân, Mit-si-si-pi, Mit-su-ri và Ai-
da-hô. Người da đỏ dạy người Mỹ đến từ Châu Âu cách canh tác các loại
nông sản thiết yếu trên toàn thế giới như ngô, khoai tây, cà chua và thuốc lá,
thuyền, giày đi tuyết, giày da đóng đinh cũng là do thổ dân sáng tạo ra.
CÁNH CỬA VÀNG :
Người Anh là một trong nhóm người thiểu số thống trị đến đầu tiên của
các vùng đất mà ngày nay là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và lẽ tất nhiên tiếng
Anh là ngôn ngữ thông dụng của người Mỹ. Tuy nhiên những người thuộc các
quốc tịch khác không chịu chấp thuận. Năm 1776 Thoma Pein, một người
phát ngôn của phong trào cách mạng, đồng thời cũng là người gốc Anh đã viết

rằng “Chính Châu Âu, chứ không phải nước Anh, là quê cha đất tổ của nước
Mỹ” Những lời trên ám chỉ những người định cư không chỉ đến từ nước Anh
mà còn đến từ các quốc gia Châu Âu khác như: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Pháp, Hà Lan, Đức và Thuỵ Điển. Tuy nhiên tính đến 1870, 3/4 người Mỹ có
nguồn gốc từ Anh hoặc Ai-xơ-len.
Từ 1840 đến 1860, Hoa Kỳ tiếp nhận đợt di cư lớn đầu tiên. Trên toàn
vùng lãnh thổ Châu Âu nạn đói, tình trạng mùa màng thất bát, dân số các quốc
gia đều tăng, tình trạng náo động liên miên đã buộc khoảng 5 triệu người phải
rời bỏ quê quán hàng năm. Ở Ai-xơ-len, bệnh rệp vừng đã tàn phá vụ khoai
tây, hơn 750.000 người chết đói. Nhiều người sống sót phải ra đi. Chỉ trong
một năm 1847, số người Ai-xơ-len di cư tới Hoa Kỳ tăng lên tới 118.120.
Hiện nay có khoảng 39 triệu người Mỹ gốc Ai-xơ-len.
Sự thất bại của cuộc cách mạng Đức (năm 1848-1849) đã buộc nhiều
người Đức phải di cư. Trong suốt cuộc nội chiến (1861-1865) chính phủ Liên
Bang đã huy động người nhập cư nhất là từ Đức gia nhập quân đội. Để trả
công những người phục vụ quân đội được thưởng đất. Tính đến 1865, khoảng
1/5 binh lính là những người di cư thời chiến tranh. Ngày nay khoảng 22%
dân số Mỹ có tổ tiên gốc Đức.
Người gốc Do Thái đến Hoa Kỳ với số lượng lớn vào năm 1880, một
thập kỷ họ phải chịu cảnh tàn sát đẫm máu ở các quốc gia Tây Âu. Hơn 45
2
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
năm sau, hai triệu người Do thái chuyển đến sống ở Hoa Kỳ. Số dân Mỹ gốc
Do thái hiện nay khoảng hơn 5 triệu người.
Cuối thế kỷ 19 số người đổ xô vào nước Mỹ đông tới mức chính phủ
thiết lập một cảng đặc biệt ở Ily Ai-len nằm trong cảng của thành phố New
York. Cảng này được mở giữa năm 1892 và dừng hoạt động vào năm 1954.
Cảng đặc biệt này là cửa vào đất Mỹ của 12 triệu người. Ngày nay nó được
bảo tồn như là một phần của tượng đài tự do dân tộc.
Bức tượng Thần Tự Do là quà tặng của nước Pháp cho người dân Mỹ

vào năm 1886, đứng trên một hòn đảo nằm trong cảng New York gần đảo
Ellit. Bức tượng này là quang cảnh đầu tiên của tổ quốc mới đối với nhiều
người nhập cư. Những từ đầy khích lệ của nhà thơ Em-ma-la-za-zơ-đô được
khắc vào tấm biển bằng đồng gắn vào bệ tượng “Hỡi các người, hãy nói với ta
những nỗi nhọc nhằn, những khát vọng tự do, hãy gửi cho ta những kẻ khốn
cùng cầu bơ cầu bất. Ta nâng cao ngọn đuốc, soi cửa vàng sẵn lòng đón các
người đến với thế giới tự do”.
-NHỮNG NGƯỜI DI CƯ BẤT ĐẮC DĨ;
Trong dòng người di cư đến Bắc Mỹ có một nhóm buộc phải ly hương.
Đây là những người gốc Phi trong đó 500.000 người bị mua đến Hoa Kỳ với
thân phận của những kẻ nô lệ trong thời gian từ năm 1619 đến năm 1808, khi
việc nhập khẩu nô lệ vào Hoa Kỳ bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên chế độ sở
hữu nô lệ vẫn tiếp diễn cho đến đời con cháu của họ đặc biệt ở vùng đất rộng
lớn miền Nam nơi nhu cầu lao động làm việc ở các trang trại là rất lớn.
Quá trình kết thúc chế độ nô lệ bắt đầu vào tháng 4-1861 với cuộc nội
chiến giữa các bang tự do miền Bắc với các bang còn chế độ nô lệ miền Nam
nổ ra. Theo đó 11 bang tách khỏi liên bang. Ngày 1-1-1863, vào giai đoạn
giữa của cuộc chiến, tổng thống Abram Lincon ra tuyên cáo giải phóng nô lệ,
theo đó chế độ nô lệ bị bãi bỏ ở những bang đã ly khai nhà nước liên bang
trước đó. Chế độ nô lệ bị bãi bỏ trên toàn lãnh thổ liên bang với viêc thông
qua tu chính án hiến pháp năm 1865.
Sau khi kết thúc chế độ nô lệ, người Mỹ da đen vẫn bị cản trở trong
việc hoà nhập và hưởng các cơ hội giáo dục. Để tìm kiếm cơ hội, người Mỹ
gốc Phi làm nên làn sóng di cư trong lãnh thổ liên bang, di chuyển từ miền
nông thôn miền Nam tới vùng đô thị phía Bắc. Tuy nhiên nhiều người da đen
ở vùng đô thị vẫn không có khả năng tìm kiếm nổi việc làm. Theo các đạo luật
và qui định thời đó họ không được phép sống cùng người da trắng mà phải
sống các khu vực biệt lập gọi là vùng cách li.
Vào cuối thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60, những người Mỹ gốc Phi mà
tiêu biểu là mục sư Mác-tin Lu-thơ-Kinh đã kêu gọi sử dụng các biện pháp

như tẩy chay, xuống đường và các hình thức phản kháng phi bạo lực khác để
3
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
đòi quyền được đối xử công bằng theo pháp luật và chấm dứt kỳ thị chủng
tộc.
Cao điểm của phong trào đấu tranh đòi quyền công dân diễn ra vào
ngày 28-8-1963, khi hơn 200.000 người thuộc mọi chủng tộc tụ tập trước đài
tưởng niệm Lin Côn ở thủ đô Oa-sinh-tơn để nghe Lu-thơ-kinh diễn thuyết
“Tôi luôn ấp ủ một ước mơ cháy bỏng rằng một ngày nào đó trên những quả
đồi rải thảm đỏ của bang Gioóc- gia những đứa con của những người nô lệ cũ
và những đứa con của các chủ nô cũ có thể ngồi chung với nhau xung quanh
một chiếc bàn đầy tình bằng hữu…Tôi luôn ấp ủ một ước mơ rằng bốn đứa
con nhỏ bé của tôi vào một ngày nào đó sẽ được sống trong một quốc gia mà
ở đó chúng không bị đánh giá qua màu da mà đánh giá qua nhân cách”.
Không lâu sau đó, quốc hội thông qua đạo luật chống phân biệt chủng tộc
trong tuyển cử, giáo dục, việc làm, nhà ở cá nhân và nhà công.
Ngày nay cộng đồng người Mỹ gốc Phi chiếm 12,7% trong tổng dân số
Hoa Kỳ. Trong những thập kỷ gần đây người da đen đã tạo ra những bước
nhảy vọt, giai cấp da đen trung lưu luôn phát triển ổn định. Vào năm 1996,
tổng số 44% công nhân da đen có việc làm và đã nắm những vị trí vốn trước
đây của người da trắng-Gồm các vị trí quản lí, nghề nghiệp và hành chính chứ
không chỉ đơn thuần làm những công việc chân tay hoặc dịch vụ. Cùng năm
đó 23% tổng số nhân công da đen độ tuổi từ 18 đến 24 đã được tuyển chọn
vào các trường cao đẳng và đại học, trong khi năm 1983 chỉ có 15%. Thu
nhập trung bình của người da đen so với người da trắng thì thấp hơn nhiều.
Tuy vậy tỷ lệ thất nghiệp ở người da đen-Đặc biệt là trong giới trẻ-hãy còn
cao hơn so với người da trắng. Và còn rất nhiều ngươì Mỹ da đen vẫn còn
luẩn quẩn trong cảnh đói nghèo, đầy rẫy cảnh nghiện ngập và tội ác.
Trong những năm gần đây mấu chốt trọng tâm của cuộc tranh cãi về
quyền dân sự đã và đang thay đổi. Khi các đạo luật chống phân biệt chủng tộc

có hiệu lực, người Mỹ da đen đã nhanh chóng bước vào tầng lớp trung lưu,
vấn đề đặt ra là với hệ quả của nạn phân biệt chủng tộc trong quá khứ liệu
chính phủ có cần phải thực hiện những bước bổ sung nữa hay không được gọi
là: “Hành động tái khẳng định”, những bước này có thể bao gồm việc thuê
một số lượng người Mỹ da đen nào đó (Hay một số cộng đồng thiểu số khác)
ở nơi làm việc, chấp nhận một số lượng sinh viên thuộc cộng đồng thiểu số
nào đó tại các trường học, hoặc đưa ra các gianh giới của các khu vực bầu cử
để có thể chọn đại diên của các cộng đồng thiểu số được dễ dàng hơn. Các
cuộc tranh luận công khai đã vượt quá mức cần thiết, tính hiệu quả, tính công
bằng của các chương trình như thế này trở nên bức bách hơn vào thập kỷ 90.
Có lẽ sự thay đổi lớn nhất trong suốt mấy thập kỷ qua chính là sự thay
đổi về thái độ của các công dân Mỹ da trắng. Hơn một thế hệ đã ra đời kể từ
ngày mục sư Kinh phát biểu: “Tôi luôn ấp ủ…”. Thanh niên Mỹ ngày nay
luôn bày tỏ sự tôn trọng mới đối với tất cả các chủng tộc. Và người Mỹ da
4
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
trắng ngày càng có xu hướng chấp nhận vai trò của người Mỹ da đen trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống cũng như các tình huống xã hội.

-NGÔN NGỮ VÀ QUỐC TỊCH:
Ngày nay khi đi dạo phố và nghe thấy ai đó nói tiếng Tây Ban Nha thì
cũng không có gì là lạ. Vào năm 1950, có gần 4 triệu công dân Mỹ đến từ các
quốc gia nói tiêng Tây Ban Nha. Hiện nay con số này lên tới gần 27 triệu
người. Khoảng 50% số người nói tiếng Tây Ban Nha ở Hoa Kỳ có nguồn gốc
từ Mê-hi-cô. Số 50% còn lại đến từ nhiều quốc gia khác bao gồm El-san-va-
đo, Cộng hoà Đô-mê-níc và Cô-lôm-bi-a, 36% người nói tiếng Tây Ban Nha ở
Hoa Kỳ sống ở bang Ca-li-foóc-ni-a. Một số bang khác cũng có đông đảo
cộng đồng dân cư nói tiếng Tây Ban Nha như Tếc-dát, New york, I-li-Noi và
Fro-ri-đa nơi hàng trăm nghìn người Cu Ba bất mãn chế độ hiện tại đến định
cư.

Việc sử dụng rộng rãi tiếng Tây Ban Nha ở các thành phố Mỹ đã gây ra
các cuộc tranh luận về vấn đề sử dụng ngôn ngữ. Một số người nói tiếng Anh
so sánh với Canađa nơi có hai ngôn ngữ song hành tồn tại (tiếng Anh và tiếng
Pháp) luôn xuất hiện xu hướng ly khai. Để ngăn chặn xu hướng phát triển có
thể có này, một số người kêu gọi ban hành một đạo luật tuyên bố tiếng Anh là
ngôn ngữ chính thức của người Mỹ.
Nhiều người khác lại cho rằng việc xem xét ban hành một đạo luật như
vậy là không cần thiết bởi đôi khi lợi bất cập hại. Họ chỉ ra những sự khác biệt
giữa Hoa kỳ và Canađa (Ở Canađa, hầu hết những người nói tiếng Pháp sống
cụm lại tại một vùng-Tỉnh Quê-Bếc, trong khi đó những người nói tiến Tây
Ban Nha sống phân tán ở hầu hết các bang của Hoa Kỳ). Họ còn lấy Thuỵ Sĩ
như một minh chứng nơi tồn tại cùng một lúc nhiều ngôn ngữ song khối đại
đoàn kết dân tộc không hề bị tổn hại. Công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ chính
thức-như họ nói-cũng chính là sự bêu xấu những người nói ngôn ngữ khác và
làm cho họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống thường nhật.
-NHỮNG GIỚI HẠN ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI NHẬP CƯ MỚI:
Tượng Nữ Thần Tự Do bắt đầu soi đường cho những người nhập cư
mới vào đúng lúc những người Mỹ bản xứ cảm thấy lo lắng rằng đất nước họ
cho phép dòng người nhập cư đổ vào đông qúa mức cần thiết. Nhiều người e
sợ nền văn hoá của họ bị đe doạ, công ăn việc làm bị cạnh tranh do những
người nhập cư chấp nhận công việc với mức lương thấp. Năm 1924, Quốc hội
thông qua đạo luật nhập cư Giôn-Sơn Rít, theo đó lần đầu tiên Hoa Kỳ đưa ra
những hạn chế đối với số lượng người cho mỗi quốc gia. Số lượng người được
phép nhập cư từ một nước nào đó được tính trên số lượng người hiện đang
sống ở Hoa Kỳ. Do đó các mô hình di cư trong hơn 40 năm tiếp theo phản ánh
5
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
cộng đồng nhập cư hiện hữu chủ yếu là người nhập cư từ Châu Âu và Bắc
Mỹ.
Trước năm 1924, luật pháp Hoa Kỳ nghiêm cấm người nhập cư đến từ

Châu Á. Người dân ở các vùng phía Tây e rằng người Trung Quốc và những
người gốc Châu Á khác sẽ cướp hết việc làm do vậy đã dấy lên sự kỳ thị
chủng tộc chống lại người Châu Á. Đạo luật cấm người nhập cư Trung Quốc
bị bãi bỏ năm 1943 và một đạo luật khác thông qua năm 1952 cho phép người
thuộc mọi chủng tộc đều có thể trở thành công dân Hoa Kỳ.
Ngày nay người Mỹ gốc Á Châu là cộng đồng cư dân tăng nhanh nhất
về số lượng. Hiện có khoảng 10 triệu người gốc Á Châu thuộc các thế hệ khác
nhau. Mặc dù hầu hết những người gốc Á vừa mới đến trong những năm gần
đây, họ dường như là cộng đồng thành công nhất trong các cộng đồng nhập
cư. Họ có nguồn thu nhập cao hơn nhiều so với các cộng đồng thiểu số khác,
hầu hết con em của họ đều học và tốt nghiệp các trường đại học danh giá nhất
Hoa Kỳ.
-HỆ THỐNG MỚI:

Năm 1965 đánh dấu bước chuyển lớn trong mô hình nhập cư. Hoa Kỳ
thực hiện qui chế cấp chiếu kháng cho những người xin trước. Giới hạn tính
theo quốc gia bị bãi bỏ, đặt chế độ ưu tiên cho họ hàng của các công dân Mỹ,
những người nhập cư có kỹ năng nghề nghiệp mà Hoa Kỳ đang có nhu cầu.
Năm 1978, Quốc hội bãi bỏ đạo luật này và đưa ra các điều kiện rộng rãi hơn.
Năm 1990 chẳng hạn, 10 quốc gia có người nhập cư nhiều nhất vào Hoa kỳ là
Mê-xi-cô (57.000), The Philippines (55.000), Việt nam (49.000), Cộng hoà
Đô-mi-nic (32.000), TriêuTiên (30.000), Trung quốc (29.000), Ấn độ
(28.000), Liên bang Xô viết (25.000), Gia-mai-ca (19.000), I-ran (18.000)
…….
Hoa Kỳ tiếp tục nhận người nhập cư nhiều hơn bất cứ quốc gia nào
khác. Năm 1990 trong tổng dân số của Hoa Kỳ có tới 20 triệu người không
sinh ra ở Hoa Kỳ. Việc áp dụng trở lại luật nhập cư năm 1990 đã tạo giới hạn
tương đối khoảng 675.000 nhập cư một năm. Luật nhập cư này cố gắng thu
hút những người lao động có tay nghề cao, những chuyên gia, cũng như
những người từ các nước có số người nhập cư vào Hoa Kỳ tương đối ít trong

những năm gần đây. Năm 1990 khoảng 9.000 người từ các nước như Băng-la-
đét, Pa-kít-xtan, Pê-ru, Ai cập và Tri-ni-đat và Tô- ba-gô đã nhập cư vào Hoa
Kỳ với các loại hình chiếu kháng khác nhau.
-NHỮNG NGƯỜI NHẬP CƯ BẤT HỢP PHÁP:

Cơ quan đặc trách Hoa Kỳ về Di cư và Nhập quốc tịch ước lượng rằng
hiện có khoảng 5.000.000 người đang sống bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, con số
6
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
này hiện tiếp tục tăng mỗi năm khoảng 275.000 người . Những người Mỹ sinh
ra tại Mỹ và những người nhập cư hợp pháp rất lo lắng về tình trạng nhập cư
bất hợp pháp. Rất nhiều người tin rằng những người di cư bất hợp pháp (hay
còn gọi là “Những vị khách không mời” chiếm mất công việc của họ, đặc biệt
là những công việc của giới trẻ và công việc của cộng đồng thiểu số. Còn xa
hơn thế, những vị khách không mời còn đặt ra một gánh nặng lên các dịch vụ
xã hội do thuế người dân chi trả.
Năm 1986 Quốc Hội đã khôi phục lại luật di trú để đối phó với những
người nhập cư bất hợp pháp, rất nhiều trong số người đến đây từ trước năm
1982 được coi là hợp pháp để đứng đơn xin cư trú hợp pháp hoặc dần dần
được phép ở lại lâu dài. Năm 1990, gần 900.000 người tận dụng đạo luật này
để giành được vị trí hợp pháp . Luật này cũng đua ra những biện pháp nghiêm
khắc để đáu tranh với vấn đề nhập cư bất hợp pháp ngày càng gia tăng, đồng
thời đưa ra các hình phạt đối với các cơ sở kinh doanh cố tình thuê những vị
khách bất hợp pháp này.
-NHỮNG HỆ QUẢ DI SẢN:
Dòng người ồ ạt kéo đến nước Mỹ bằng tàu bè đã và đang tạo ra những
hệ luỵ sâu sắc đối với tính cách người Mỹ. Họ quả rất can trường và mưu mẹo
để rời quê hương đến vùng đất hoàn toàn xa lạ. Người Mỹ vốn đựơc coi là
những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro và luôn muốn khám phá những điều
mới lạ vì độc lập và một tương lai sáng láng. Những người Mỹ có gia đình

sống lâu năm ở đây cho mình được hưởng thụ vật chất và tự do chính trị như
một điều tất yếu. Sự hiện diện của những người nhập cư làm cho họ thấy được
vị trí, danh dự và uy tín có tầm quan trọng như thế nào.
Những người nhập cư cũng làm giàu cho bản sắc của các cộng đồng
người Mỹ bằng các hoạt động của đời sống văn hoá bản xứ mà họ mang theo.
Ngày nay người Mỹ gốc Phi vẫn tổ chức cả hai ngày lễ Giáng sinh và Goan-
đa, một lễ hội có nguồn gốc những quy ước của người châu Phi. Cộng đồng
người Mỹ nói tiếng Tây-ban-nha tổ chức lễ hội truyền thống của mình trên
phố và nhưng lễ hội khác vào ngày 5/5. Các cửa hàng ăn của các cộng đồng
khác nhau xuất hiện ở các đô thị Mỹ. Bản thân Tổng thống Giôn-ken-nơ-đi
cũng là con cháu của những người nhập cư Ái-nhĩ-lan đã tổng kết những giá
trị của các thế hệ trước đây và sau này khi ông gọi nước Mỹ là “Một xã hội
của những ngừoi nhập cư, mà ở đó mỗi người đều bắt đầu một cuộc sống mới
trên nền tảng của sự bình đẳng”. Đây chính là điều bí ẩn của nước Mỹ: Một
dân tộc mà người dân lúc nào cũng nhớ và gĩư nguyên những truyền thống cũ,
dám khám phá những chân trời mới.
7
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
CHƯƠNG II:
Những đặc điểm về địa lý và vùng

Nhà khảo cổ học người pháp Clo-đờ-Strau viết về cái cảm giác ‘bất
thường’ khi ông tới Hoa Kỳ: Sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp của cảnh quan
thiên nhiên và cái mênh mông của trời đất. Với 48 bang chưa kể bang Ala-ska
và Ha-oai, Hoa Kỳ nằm trải dài tới 4.500 cây số với 4 múi giờ khác nhau. Nếu
đi bằng xe ô tô bạn sẽ mất ít nhất 5 ngày để đi từ bờ biển này tới bờ biển bên
kia với điều kiện bạn không được dừng ở bất cứ điểm nào để ngắm cảnh.
Nhiệt độ chênh lệch nhau giữa vùng nóng nhất và lạnh nhất lên tới 40 độ.
Hoa Kỳ có nhiều bản sắc văn hoá và giàu tài nguyên đồng thời có may
mắn sở hữu những vùng đất mênh mông để ở và trồng trọt. Vậy mà đất nước

này ở mỗi vùng lại có những nét riêng biệt và cách duy nhất người Mỹ phải
đối mặt với tình trạng đất nước rộng lớn là phải luôn gắn mình với một vùng
địa lý nào đó với với nét đặc trưng nào đó ví dụ: Tính tự chủ cao của người
vùng Niu-ing-lần, lòng mến khách của người phương Nam, tính hiền lành
chân thật của người miền Trung tây. tính nhẹ nhàng thanh lịch của người miền
Tây…Phần sau đây sẽ đề cập đến một số vấn đề liên quan đến vị trí địa lý,
lịch sử, những tập tục của 6 vùng chủ yếu của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ:
Vùng Niu-ing-lần: Gồm các bang Mên, Niu-hăm-sphia, Vơ-mần, Ma-
cha-chu-sét, Con-nếc-ti-cớt và Rốt-ai-lần.
Vùng Trung Đại tây dương: gồm Niu-joóc, Niu-jơ-sy, Pen-si-vơ-nia,
Di-la- gue và Ma-ry-len.
Vùng phía Nam: Vùng đất trải dài từ nam Vơ-gi-nia đến bang Phờ-lo-
ri-đa, từ miền Tây chạy tới miền trung Tếc-dát. Vùng này còn bao gồm: Tây-
vơ-gi-nia, Ken-tớc-ki, Ten-net-si, Bắc Ca-ro-li-na, Nam Ca-ro-lai-na,Gióoc-
8
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
gia, A-la-ba-ma, Mít-si-si-pi, Ac-can-sát, Lu-si-a-na và một số vùng của bang
Mit-su-ri và A-la-hô-ma.
Vùng Trung tây: Gồm một lọat các bang chạy về hướng Tây tính từ
bang Ô- hai-Ô tới bang Nê-bra-sca. Các bang này gồm: Mi-chi-gân, In-đi-a-
na, Guy-côn-sin, I-li-noi, Min-ne-sô-ta, I-ô-gua, một số vùng của bang Mit-su-
ri, Bắc Đa-cô-ta, bang Can-dát và Đông Clô-ra-đô.
Vùng Tây nam: Bao gồm vùng tây Tếc-dát, Ô-la-hô-ma, Niu-Mê-xi-cô,
A-ri- rô-na, Nê-va-Đa, và vùng trong phía Nam của bang Ca-li-phoóc-nia.
Vùng phía Tây: Gồm các bang Cô-lô-ra-đô, Guy-ô-ming, Mon-ta-na,
U-ta, Ca-li-pho-nia, Nê-va-Đa. I-da-ho, O-ri-gân, Oa-sinh-tơn, A-lát-ca và
quần đảo Ha- oai.
(Cần ghi nhớ rằng sự phân chia này không phải là duy nhất, đơn giản
giúp bạn đọc làm quen với Hoa Kỳ mà thôi).
-SỰ ĐA DẠNG VÙNG:

Trong thực tế tất cả người Mỹ đều có thể xem chung một chương trình
truyền hình, đều có thể cùng đến các quán bán đồ ăn nhanh để dùng bữa tối,
thì nói về các vùng có ý nghĩa gì? Câu trả lời duy nhất: Mục đích đơn giản là
đưa ra một vài ví dụ cho sự khác biệt còn rơi rớt lại mà thôi.
Hãy xem đồ ăn người Mỹ thường dùng. Hầu hết đều đạt chất luợng tiêu
chuẩn dù ở bất cứ nơi nào bạn đến. Bất cứ ai cũng có thể mua những gói đậu
đông lạnh có cùng thương hiệu dù đó là ở I-da-hô, Mít-xu-ri hay Vơ-gi-nia,
hoặc những bao ngũ cốc, những thanh kẹo cùng nhiều thứ khác với cùng
thương hiệu dẫu cho bạn ở A-lát- ca hay Phờ-ro-ri-đa. Nhìn chung chất lượng
rau quả cũng không có sự khác biệt quá lớn giữa các bang…
Tiếng Anh Mỹ nhìn chung là chuẩn mực tuy nhiên lối nói giữa các
vùng có khác nhau: Người phương Nam có xu hướng nói chậm mà như người
ta hay trêu chọc: nói ‘lè nhè’ như người miền Nam. Người miền Trung tây
hay nhịu từ ‘Flat’ với từ ‘bad’ hay ‘cat’, tiếng địa phương ở thành phố Niu-
Gióoc mang đặc tính của một số từ trong tiếng Đức cổ do cộng đồng dân cư
do thái giáo sử dụng.
Sự khác biệt về vùng trong một số lĩnh vực cũng không ró ràng ví dụ
trong thái độ hành xử và quan niệm về thế giới nói chung. Chẳng hạn, đối với
những biến cố ngoài đất nước, ở phương Đông người ta hay chú tâm đến các
nước bên kia bờ Đại tây dương, báo chí thường hay quan tâm đến các sự kiện
đang xảy ra ở Âu châu, Trung đông, Phi châu và Tây á còn ở vùng bờ biển
phía Tây người ta đặc biệt là báo chí hay chú tâm đến các sự kiện ở Châu Úc
và Đông nam Châu Á.
Để hiểu hơn sự khác biệt chúng ta hãy xem xét kỹ tổng vùng:
-VÙNG NIU- ING- LẦN:
9
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Niu-ing-lần là vùng đất nhỏ nhất, không có đất đai màu mỡ và khí hậu
không thật ôn hoà. Tuy nhiên, Niu-ing-lần đóng vai trò chủ đạo trong việc
phát triển đất nước. Từ thế kỷ thứ 17 cho tới đầu thế kỷ thứ 19 Niu-ing-lần trở

thành trung tâm kinh tế và văn hoá của cả nước.
Những người đến lập nghiệp đầu tiên của vùng Niu-ing-lần là những
người theo đạo Tin lành. Họ đến định cư cùng với niềm tin của họ. Nhiều
người đến vùng đất mới hy vọng tìm kiếm tự do tôn giáo. Họ đem đến vùng
đất mới một mô hình chính trị đặc biệt-tuần hành trên phố-một việc làm của
những thế hệ trước, ở đó các công dân tụ tập nhau lại, thảo luận các vấn đề
bức xúc, chỉ những người giàu có mới có quyền bỏ phiếu. Các cuộc tụ tập
xuống đường đem lại cho cư dân mới của vùng đất nay khả năng tham gia
quản lý với trình độ cao khác thường. Các cuộc xuống đường như thế này vẫn
còn tiếp diễn trong một số cộng đồng dân cư cho tới ngày nay.
Tương tự như ở phía Nam, những cư dân mới của vùng Niu-ing-lần khó
có điều kiện canh tác trên các ô thửa lớn. Vào năm 1750, những cư dân mới
chuyển hướng làm ăn. Chỗ dựa chính của vùng này dựa chủ yếu vào ngành
đóng tàu, thuyền, đánh cá và kinh doanh. Trong mọi hoạt động, người dân xứ
này nổi tiếng là những người cần cù, thông minh, tiết kiệm và lanh lợi.
Những tính cách này đi cùng với cuộc cách mạng công nghiệp đến Hoa
Kỳ vào nửa đầu thế kỷ thứ 19. Ở Ma-sa-chu-set, Con-nec-ti-cớt, và Rốt-ai-lần
các nhà máy mới xây dựng thúc đẩy nhanh sự phát triển sản xuất hàng hoá:
Như đồ may mặc, súng và đồng hồ. Điều đó giúp các cơ sở kinh doanh ở Niu-
ing-lần thu hút được nhiều tiền của bang Bốt-stơn, một bang được coi là trung
tâm tài chính của cả nước.
Cư dân Niu-ing-lần luôn bảo tồn đời sống văn hoá sống động của mình.
Nhà phê bình Van ích Bơ-rúc gọi sự sáng tạo nền văn học Mỹ khác biệt này
vào cuối thế kỷ 19 là ‘Sự nở hoa của người vùng Niu-ing-lần’. Giáo dục cũng
được coi là di sản có sức sống mạnh mẽ nhất với hệ thống đào tạo trải đều từ
hệ đại học tới cao đẳng bao gồm các trường đại học Ha-vớt, Yale, Bờ-rao, Da-
smao, Que-slây, Smít, Ho-ly-ióoc, Guy-li-am, Am-hớt và Guet-lây-ơ, biến
Niu-ing-lần thành vùng có hệ thống giáo dục đào tạo phát triển không bang
nào trên toàn lãnh thổ có thể so bì được.
Cư dân gốc của vùng Niu-ing-lần có xu hướng sống trải dần về hướng

Tây, điều này cũng sảy ra tương tự đối với những người nhập cư từ Ca-na-đa,
Ai-sơ-len, Italia và Đông Âu. Mặc dù có sự thay đổi liên tục về dân số, những
giá trị tinh thần gốc của vùng Niu-ing-lần vẫn được bảo tồn. Những giá trị này
thể hiện trong phong cách, giáng vóc của những ngôi nhà đơn giản, khung làm
bằng gỗ, những tháp chuông nhà thờ màu trắng, tất cả giúp hình thành đặc
tính của nhiều thành phố nhỏ. Đặc tính riêng biệt này còn thể hiện trong
10
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
những ngôi nhà tràn đầy ánh sáng điểm xuyến trên vùng duyên hải Đại tây
dương.
Vào thế kỷ 20, hầu hết các ngành công nghiệp truyền thống của Niu-
ing-lần được bố trí lại theo hướng chuyển sang các bang khác hoặc chuyển ra
nước ngoài nơi hàng hoá sản xuất ra với chi phí thấp hơn. Ở một số ít các
thành phố có nhiều nhà máy, công nhân lành nghề bị mất việc làm. Tình trạng
này được giải quyết một phần do sự phát triển của nghành công nghiệp vi điện
tử và máy tính sau này. Nếu coi Niu-ing-lần là vùng cung cấp nguồn lực trí
tuệ và vốn trong thời kỳ mở rộng nước Mỹ thì các bang miền trung Đại tây
dương là vùng cung cấp nguồn lao động phổ thông. Các bang lớn nhất của
vùng như Niu-Jóoc và Pen-si-va-nia trở thành trung tâm của các nghành công
nghiệp nặng (sản xuất thép, kính và sắt).
-VÙNG TRUNG ĐẠI TÂY DƯƠNG:
Ở vùng trung Đại tây dương, người nhập cư đa dạng hơn so với vùng
Niu-ing-lần. Người Hà lan sinh sống chủ yếu dọc vùng thung lũng sông Hu-
sơn nay thuộc bang Niu-Yoóc, người Thuỵ Điển tập trung chủ yếu ở vùng Đi-
la-gue, Người thanh giáo Anh ở vùng Ma-ri-len, một bộ phận người Anh tin
lành, nhóm người Quây-cơ định cư ở Pen-sy-va-ni. Tất cả các cộng đồng đều
chịu sự kiểm soát của người Anh tuy vậy vùng này vẫn là vùng hấp dẫn đối
với người dân thuộc mọi quốc tịch.
Những người nhập cư đầu tiên hầu hết là nông dân và thương gia vì vậy
vùng nay được coi là cầu nối hai vùng Nam-Bắc. Phi-la-đen-phi-a của bang

Pen-sy-va-ni-a nằm giữa vùng thuộc địa Nam-Bắc là quê hương của Đại Hội
Các Vùng Thuộc Địa, của sự thống nhất các đoàn đại biểu của các vùng thuộc
địa tổ chức cuộc cách mạng Mỹ sau này. Thành phố này còn là quê hương của
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 và hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787.
Do ngành công nghiệp nặng nằm dàn trải trong vùng nên các sông như
Di-la-gue và Hu-sơn trở thành đường vận tải có tầm quan trọng sống còn. Các
thành phố trên trục đường thuỷ- Niu-Gioóc bên sông Hu-sơn, Phi-la-đen-phi-a
bên sông Đi-la-gue và Ban-ti-mo bên vịnh Chi-sơ-píc phát triển rất nhanh
chóng. Niu-Gioóc là thành phố lớn nhất của cả nước, là trung tâm tài chính và
văn hoá của toàn liên bang.
Giống như vùng Niu-ing-lần, vùng trung Đại tây dương cũng là nơi các
ngành công nghiệp nặng được tái bố trí lại. Các ngành công nghiệp khác như
ngành công nghiệp dược phẩm, thông tin liên lạc cũng xuất hiện với các nhà
máy mọc rải rác khắp mọi nơi.
-MIỀN NAM:
11
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Các bang miền Nam có lẽ là các bang có nhiều bản sắc rực rỡ và khác
biệt nhất Hoa Kỳ. Cuộc nội chiến (1861- 1865) đã tàn phá miền Nam cả về cơ
cấu xã hội và cơ cấu kinh tế, tuy vậy nó vẫn giữ được những đặc tính không
thể nhầm lẫn được.
Giống như vùng Niu-ing-lần, các cư dân đầu tiên đều là người Anh tin
lành. Nhưng trong khi những người định cư ở Niu-ing-lần cố gắng gìn giữ
những khác biệt truyền thống của quê hương mình thì những người định cư ở
miền Nam có xu hướng cạnh tranh với chính người Anh. Dẫu sao người miền
Nam vẫn đóng vai trò chủ chốt trong giới lãnh đạo của cuộc cách mạng Mỹ.
Bốn trong tổng số 5 vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ đều là người bang Vơ-
gi-nia. Tuy nhiên, kể từ năm 1800 sự phân hoá giữa miền Bắc và miền Nam
xảy ra do bất đồng về lợi ích nhằm phát triển công nghiệp ở miền Bắc và các
vấn đề ruộng đất ở miền Nam bắt đầu trở nên phức tạp.

Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi các cư dân miền Nam, đặc biệt các
vùng ven biển trở nên giàu có hơn nhờ trồng và bán bông và thuốc lá. Cách
thức hiệu quả nhất để trồng các loại nồng sản này là ở các trang trại, nơi đòi
hỏi một lực lượng lao động lớn. Để thoả mãn nhu cầu lực lượng lao động, các
chủ đồn điền chủ yếu dựa vào người nô lệ mua từ châu Phi và như vậy chế độ
nô lệ lan tràn khắp các vùng phía Nam.
Tình trạng nô lệ là vấn đề nhức nhối chia cắt miền Bắc và miền Nam.
Đối với người miền Bắc tình trạng nô lệ là vô đạo đức trong khi đó người
miền Nam cho rằng tình trạng nô lệ đơn giản chỉ là sự hoà nhập về lối sống.
Năm 1860, 11 bang miền Nam quyết định ly khai khối liên hiệp nhằm thiết
lập một quốc gia riêng rẽ: Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Thái độ quá khích này
dẫn đến nội chiến, dẫn đến thất bại của nhà nước liên Bang và chấm dứt chế
độ nô lệ.
Dẫu sao đất nước này cũng phải mất nhiều thập kỷ để hàn gắn vết thương
chiến tranh. Việc bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ chưa đem đến cho người Mỹ
gốc Phi vị thế kinh tế và chính trị tương xứng: Các thành phố và thị xã miền
Nam đã hợp pháp hoá và áp dụng chế độ nô lệ với hình thức trau chuốt hơn.
Người Mỹ gốc Phi phải mất một thời gian dài với sự đồng thuận cao để
chấm dứt chế độ nô lệ. Chính vào thời điểm này và kéo dài cho tới thế kỷ 20 ở
miền Nam đã sản sinh ra các nhà văn lớn trong đó có William Foóc-nơ,
Thomát Gôl, Rô-Bớt Pen-Guô-Rơn, Kathơ rin An-Pót-Tơ, Tenesi William,
Gui-Đô-Ra Goét-Ty và Flanơ- Co-No.
Khi người miền Nam, cả da trắng và da đen, loại bỏ ảnh hưởng của chế
độ nô lệ và sự phân hoá về chủng tộc thì sự tự hào mang sắc thái vùng đã tự
nhiên hình thành dưới khẩu hiệu “Miền Nam mới” và được thể hiện rõ trong
các sự kiện diễn như đại hội âm nhạc Spo-le-tô hàng năm ở nam Ca-rô-li-na
và đại hội Ô-lim-píc mùa hè 1996 ở Át-lan-ta bang Gioóc-Gia. Ngày nay,
miền Nam đã phát triển thành vùng công nghiệp, những toà nhà chọc trời
nhan nhản trong ở các thành phố At-lan-ta và Lit-rock. Do có thời tiết ôn hoà
12

Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
miền Nam trở thành thánh địa cho người nghỉ hưu từ các vùng khác nhau của
Hoa Kỳ và Canađa.
-MIỀN TRUNG TÂY:
Miền trung Tây là điểm giao văn hoá. Câu chuyện bắt đầu từ những
năm của thế kỷ thứ 18 những người miền Đông di cư đến miền trung Tây để
tìm kiếm những vùng đất màu mỡ hơn, không lâu sau đó, những người Âu
Châu vượt qua bờ biển phía Đông để đi cư sâu vào vùng nội địa: Người Đức ở
vùng phía Đông bang Mit-su- ri, người Thuỵ Điển và Na Uy ở bang Guy-cô-
sin và Mi-ni-sô-ta. Đất đai màu mỡ của vùng này tạo điều kiện thuận lợi cho
nông dân sản xuất những vụ ngũ cốc bội thu như lúa mì, ngô và yến mạch.
Vùng đất này nhanh chóng nổi tiếng là “vựa lúa mì của cả nước”.
Hầu hết đất đai miền trung Tây đều bằng phẳng. Sông Mít-si-si-pi được
coi như là nguồn cung cấp nguồn sống cho cả vùng, tạo điều kiện cho người
định cư có được những ngôi nhà mới và nguồn thực phẩm phong phú cung
cấp cho thị trường. Chính dòng sông này là chủ đề cho hai tác phẩm cổ điển
trong văn học Mỹ, do nhà văn người Mit-su-ri, Samuel Clê-men với bút danh
Mak-Tuên: Cuộc sống trên dòng sông Mit-si-si-pi và Cuộc phiêu lưu của
Hắc-li- bơ-ry Phin.
Người dân miền Trung tây được coi là những người cởi mở, thân thiện
và thẳng tính. Xu hướng chính trị của họ luôn có tính thận trọng. Tuy nhiên,
sự cẩn trọng đó đôi khi bị trừng phạt bởi những lời chống đối. Miền Trung tây
đã sản sinh ra một trong hai đảng phái chính trị lớn của nước Mỹ-Đảng Cộng
Hoà, vốn được thành lập vào những năm của thập kỷ 1850 nhằm chống lại sư
bành chướng của chế độ nô lệ sang các bang mới khác. Vào những năm cuối
của thế kỷ 18, vùng này cũng đã sản sinh ra “Phong Trào Tiến Bộ” bao gồm
nông dân và thương gia với mục tiêu làm cho chính phủ bớt tham nhũng, biết
chấp nhận ý chí của người dân. Có thể do vị trí địa lý mà người miền trung
Tây mang nặng tư tương biệt lập với niềm tin rằng bản thân người Mỹ không
cần quan tâm tới các vấn đề hoặc các cuộc chiến ngoài nước Mỹ.

Trung tâm của miền trung Tây là thành phố Chi-ca-gô thuộc bang I-li-
noi, thành phố lớn thứ ba trong cả nước. Cảng hồ lớn có tầm quan trọng nay là
đầu mối của hệ thống đường sắt và đường không tới những vùng xa xôi khác
trong nước và quốc tế. Tại trung tâm Chi-ca-gô có tháp Si đứng sừng sững với
chiều cao 447 mét, một toà nhà cao nhất thế giới.
-VÙNG TÂY NAM:
Vùng Tây nam khác với miền Trung tây về khí hậu (khô hơn), về dân
số (thưa thớt hơn) và chủng tộc (người Mỹ mang đặc tính Tây Ban Nha và bộ
phận người Mỹ gốc). Bên ngoài các đô thị lớn là vung đất với những không
13
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
gian mênh mông mà chủ yếu là sa mạc. Toà Gran-cay-on tráng lệ cũng nằm ở
vùng này như “Thung Lũng Tượng Đài” như một tấm màn tuyệt đẹp trong
nhiều bộ phim nói về miền Tây Nam. Thung lũng tượng đài nằm trong khu
bảo tồn Na-va-ô, quê hương của những bộ tộc thổ dân da đỏ đông đúc nhất.
Dọc theo hướng Đông và hướng Nam là hàng chục khu bảo tồn người da đỏ
khác như khu Hopi, Zumi và các bộ tộc A-pa- chi.
Một số vùng của miền Tây Nam đã từng là bộ phận của Mê-hi-cô.
Nước Mỹ giành được những vùng đất này sau cuộc chiến tranh giữa Mỹ và
Mê-hi-cô từ năm 1846 tới năm 1848. Những di sản văn hoá của người Mê-hi-
cô vẫn còn ảnh hưởng nặng nề ở vùng này, một vùng đất khá thuận lợi cho
người nhập cư (cả hợp pháp và bất hợp pháp) từ miền Nam xa xôi đến. Dân số
vùng này tiếp tục gia tăng nhanh chóng. Riêng bang A-ri-zô-na cũng có thể
cạnh tranh với các bang miền Nam khác với tư cách là một địa chỉ lý tưởng
cho những người nghỉ hưu muốn tìm kiếm và thụ hưởng khí hậu ấm áp.
Việc gia tăng dân số ở miền Tây nam vừa nóng vừa khô phụ thuộc vào
những vật dụng do con người làm ra: Đập nước và máy điều hoà nhiệt độ. Các
đập ở bang Cô-rô-ra-đô và ở những dòng sông khác cũng như ở các vùng nuôi
trồng thuỷ sản khác như các dự án thuộc trung tâm A-ri-zô-na đã mang nước
ngọt tới các thành phố vốn dĩ nhỏ bé như Lát-vê-gát, Nê-va-đa, Phô- níc, A-ri-

zô-na…và Niu-Mê-hi-cô biến các thành phố này thành những thủ phủ lớn.
Lát-vê-gát nổi tiếng là một trung trung tâm cờ bạc trên thế giới trong khi đó
San-ta-fi, Niu-Mê-hi-cô nổi tiếng là trung tâm nghệ thuật đặc biệt là hội hoạ,
điêu khắc và nhạc Ô-pê-ra. Hệ thống đập và hệ thống tưới tiêu khác đã cung
cấp nước cho thung lũng trung tâm của bang Ca-li-phoóc-ni-a, nơi người ta
ghi nhận là nơi sản xuất hoa quả và rau chủ yếu cho cả vùng.
-MIỀN TÂY:
Người Mỹ vốn vẫn coi miền Tây là phân giới cuối cùng. Tuy nhiên,
Bang Ca-li-foóc-ni-a có lịch sử của người Châu âu định cư lâu dài hơn hầu hết
các bang ở miền Trung tây. Các cha cố người Tây Ban Nha nhận sứ mạng
truyền đạo ở vùng duyên hải bang Ca-li chỉ một vài năm cuộc cách mạng Mỹ
nổ ra . Vào thế kỷ thứ 19, Bang Ca-li và Ô-re-gơn gia nhập Liên bang trước
nhiều bang ở miền Đông.
Miền Tây là một vùng mà xét về quy mô thì chỗ nào cũng có vẻ đẹp tự
nhiên diệu kì .Toàn bộ 11 bang của Hoa kỳ một phần mang địa hình núi đồi,
các rặng núi với địa hình mang đầy sự tương phản. Các đỉnh núi phía Tây gió
từ phía Thái bình dương thổi vào mang theo hơi nước khiến đất ở đây luôn dồi
dào hơi nước. Tuy nhiên, phần phía Đông đất đai rất khô hạn. Nhiều nơi phía
Tây của bang Oa-sinh-tơn là ví dụ mỗi năm lượng mưa gấp 20 lần phía Đông
dãy Cáp-cát.
14
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Nhiều nơi ở miền Tây dân cư rất thưa thớt và chính phủ quản lí hàng
triệu hecta đất chưa được khai thác. Người Mỹ dùng diện tích này để phục vụ
cho nghỉ ngơi giải trí và các hoạt động thương mại, chẳng hạn như: Câu cá,
cắm trại, đi bộ, bơi thuyền, chăn thả gia súc, kho để đồ và khai mỏ . Trong
những năm gần đây, nhiều người dân địa phương kiếm sống trên đất liên bang
đã đụng độ với các nhà quản lí đất đai, những người được giao trọng trách
kiểm soát việc sử dụng đất phù hợp với công tác bảo vệ môi trường.
A-lát-ska, một bang nằm ở cực Bắc của Liên bang, là một vùng đất dân

cư rất thưa thớt và sống vất vả trên những dải đất hoang bảo vệ và cứu hộ
những động vật hoang dã trong nhưng công viên quốc gia. Ha-oai là bang duy
nhất của Liên bang có số lượng người Mỹ gốc Á có số lượng vượt quá số
lượng người Mỹ gốc Âu. Vào đầu thập kỉ 80, một số lượng lớn ngưòi Châu á
đã đến định cư ở bang Ca-li mà chủ yếu là vùng ven Lốt-an-giơ-lét.
Lốt-an-giơ-lét, cũng như toàn bộ bang Ca-li nói chung mang nặng dấu
ấn của cộng đồng người Mỹ gốc Mê-hi-co, là thành phố lớn thứ hai cả nước,
Lốt-an-giơ-lét nổi tiếng là quê hương của công nghiệp sản xuất phim ảnh.
Được làm giàu bởi sự phát triển nhanh chóng của thành phố Lốt-an-giơ-lét và
khu thung lũng Si-li-côn gần bang San-zau, bang Ca-li ngày nay trở thành
bang đông dân cư nhất cả nước.
Các thành phố miền Tây nổi tiếng vì lòng độ lượng. Có lẽ bởi đã có rất
nhiều người phương Tây đến đó từ các vùng khác nhau để khởi nghiệp và như
một qui luật tất yếu, các mối quan hệ đươc xác lập bởi thái độ dựa vào nhau
mà sống. Nền kinh tế miền Tây đa dạng, bang Ca-li chẳng hạn: Vừa là bang
sản xuất nông nghiệp vừa là bang sản xuất công nghệ cao.
-KHÁI NIỆM RANH GIỚI:
Một vùng khác của Hoa Kỳ cũng đáng đề cập tới. Vùng này không cố
định mà đang có hướng mở rộng thành bang. Đó là ranh giới giữa các vùng
dân cư và các vùng hiện còn hoang dã. Trong tác phẩm của mình viết trong
thập kỷ 80, nhà sử học Fe-đơ-ríc Jack-sơn-tơn-nơ nhấn mạnh những vùng đất
chưa có người ở trong suốt lịch sử Nước Mỹ đã định hình thái độ và thể chế.
“Sự sinh xôi mãi mãi này” ông viết “Sự mở rộng không ngừng về hướng Tây
với những cơ hội mới, sự tiếp cận không ngừng với những điều đơn giản của
cuộc sống sơ khai đã làm sinh sôi nảy nở những yếu tố hình thành tính cách
người Mỹ”.
Một số giá trị và thái độ của người Mỹ có thể được lần trở lại về quá
khứ: Sự tự tin, tài năng xoay sở, tình đồng chí và ý thức bình đẳng cao. Sau
nội chiến, một số lượng lớn người Mỹ da đen đã di chuyển về miền Tây hy
vọng tìm kiếm những cơ hội bình đẳng. Trong số họ nhiều người đã trở nên

nổi tiếng và gặp nhiều may mắn: Người làm nghề chăn bò, người làm thợ mỏ,
người làm cư dân đồng cỏ. Năm 1869, vùng lãnh thổ miền Tây thuộc Y-ô-
15
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
ming trở thành nơi đầu tiên cho phép phụ nữ tham gia bầu cử và tham gia vào
các cơ quan dân cử.
Do nguồn lực miền Tây được coi là vô tận, người dân nơi này đã hình
thành thói lãng phí và thực dụng. Những đàn trâu khổng lồ (bò rừng) bị sát hại
không thương tiếc cho tới khi số lượng chỉ còn lẻ tẻ vài con, một vài loài bị
đẩy tới bờ diệt chủng. Các con sông bị ngăn chặn và các cộng đồng sinh thái
của các dòng sông bị xâm hại, các khu rừng bị huỷ diệt do khai thác quá mức
và các vùng đất thiên nhiên tươi đẹp trở nên hoang hoá do nạn khai thác mỏ
tràn lan vô ý thức.
Đối trọng với việc xâm hại nguồn tài nguyên thiên nhiên là phong trào
xây dựng các khu bảo tồn. Phong trào này thành công một phần bởi thái độ
không sẵn lòng của người Mỹ nhìn thấy điều kiện sống ở những vùng giáp
ranh trở nên hoang tàn. Những người tham gia vào phong trào bảo tồn đóng
vai trò tích cực xây dựng nên công viên quốc gia “Yellow stone” (năm 1872)
và những khu rừng bảo tồn quốc gia đầu tiên trong thập niên 90 của thế kỷ 19.
Gần đây, đạo luật bảo vệ các loài thú có nguy cơ đã giúp ngăn chặn đợt thuỷ
triều tuyệt chủng.
Chương trình bảo vệ môi trường hiện nay còn nhiều tranh cãi. Một số
người chống đối tin rằng đạo luật bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng đã
hạn chế sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, về tổng thể phong trào bảo vệ sự
phát triển về tự nhiên của Nước Mỹ tiếp tục phát triển và có thêm sức mạnh.
Bản sao của chương trình này ở nhiều quốc gia khác trên thế giới là minh
chứng chứng tỏ sức mạnh lâu dài của vùng giới hạn Hoa Kỳ.
CHƯƠNG III:
Lịch sử tóm tắt Hoa Kỳ
Những người Âu châu đầu tiên do Lây E-ríc-sơn đứng đầu tới Hoa Kỳ

là những người thổ dân băng đảo cách đây 1000 năm. Các dấu tích về hành
trình của họ được tìm thấy ở Tỉnh Niu-fao-Len của nước Canađa. Tuy nhiên
những người du cư đầu tiên này không thể thiết lập một nơi định cư ổn định
và sớm mất liên hệ với châu lục mới.
16
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Năm thế kỷ sau, nhu cầu về gia vị có từ Châu á, sản phẩm dệt và thuốc
nhuộm đã thôi thúc các nhà thám hiểm Âu châu mơ ước những con đường
ngắn hơn giữa Đông và Tây. Dưới danh nghĩa nữ hoàng Tây Ban Nha, nhà
thám hiểm người ý Cờ-rít-stốp-phơ Cô-lôm-bô đã dùng thuyền vượt biển từ
Châu âu về phía Tây và đặt chân lên hòn đảo Ba-ha-ma ở vùng biển Ca-ri-bê.
Trong 40 năm liền, những người phiêu lưu Tây Ban Nha đã hình thành một đế
chế lớn ở Trung và Nam Mỹ
-KỶ NGUYÊN THUỘC ĐỊA:
Thuộc địa do người Anh thiết lập thành công đầu tiên ở vùng Jêm-
Thao, Vơ-giơ-ni-ơ năm 1607. Một vài năm sau đó,những người thanh giáo
Anh chạy trốn sự truy nã tôn giáo do chống đối nhà thờ Anh giáo đã tới Mỹ.
Vào năm 1620, những người thanh giáo đã thiết lập thuộc địa Po-ly-mao đầu
tiên mà sau này thuộc bang Ma-sa-chu-sét. Po-ly-mao trở thành vùng định cư
của người Anh thứ hai sau vùng Niu-ing-lần ở bắc Mỹ.
Tại vùng Niu-ing-lần những người thanh giáo hy vọng thiết lập một đế
chế cổ- một cộng đồng lí tưởng. Kể từ đó, người Mỹ đã và luôn coi tổ quốc
của họ như một khuân mẫu vĩ đại, một mô hình đáng để cho các quốc gia khác
noi theo. Những người thanh giáo tin rằng chính phủ nên khuyền khích những
giá trị đạo đức của chúa trời, và họ nghiêm khắc trừng phạt những người dị
giáo, người nghiện rượu, đàn ông ngoại tình và những kẻ vi phạm ngày thờ
Chúa (Cơ đốc giáo). Bất chấp sự truy lùng gắt gao về tự do tôn giáo, những
người thanh giáo thực hiện luân lý nghiêm ngặt. Năm 1936, một viên thư ký
người Anh tên là Guy-li-am-Râu-giơ đã rời khỏi vùng Ma-sa-chu-set và thiết
lập vùng thuộc địa đảo Rôt-đơ dựa trên nguyên tắc của tự do tôn giáo và tách

khỏi nhà thờ và nhà nước. Hai ý tưởng trên về sau này được các nhà làm luật
chấp nhận trong hiến pháp Hoa Kỳ.
Nhiều người từ Châu âu cũng đến vùng đất mới song người Anh thành
công nhất trong việc thiết lập các vùng thuộc địa mới ở Hoa Kỳ. Tính tới năm
1733 những người định cư gốc Anh đã lập được 15 vùng thuộc địa chạy dọc
vùng duyên hải Đại tây dương từ bang Niu-hăm-sphia ở phía Bắc tới bang
Gioóc-gia ở phía Nam. Người Pháp quản lý vùng đất thuộc Canađa và vùng
Lu-si-a-na bao gồm lưu vực sông Mít-si-si-pi rộng lớn. Trong suốt thế kỷ thứ
18 nhiều cuộc chiến giữa người Anh và người Pháp nổ ra, với sự tham chiến
của hầu hết người dân Bắc Mỹ. Sau cuộc chiến 7 năm kết thúc năm 1763,
người Anh giành quyền kiểm soát Canađa và toàn bộ vùng đất phía Đông lưu
vực sông Mít-si-si-pi Bắc Mỹ.
Chẳng bao lâu chính nước Anh và các vùng thuộc địa cũng xảy ra các
cuộc xung đột. Mẫu quốc áp đặt nhiều loại thuế mới, một phần để chi phí cho
cuộc chiến 7 năm và một phần chi trả cho người Mỹ đã cung cấp nhà ở cho
các binh sĩ Anh. Những người cai trị mới đã chống lại các loại thuế và chế độ
17
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
thanh toán nhà ở cho binh sỹ này. Họ khăng khăng cho rằng thuế chỉ có thể áp
đặt do chính đại diện của họ ở các vùng thuộc địa và tụ tập lại dưới khẩu hiệu
“Không đóng thuế một khi họ không có đại diện trong nghị viện”.
Hầu hết các loại thuế đều bị bãi bỏ trừ thuế chè. Tuy nhiên, vào năm
1773, một số người đã phản ứng lại thuế chè bằng cách tổ chức hiệp hội chè.
Mạo danh thổ dân, họ tràn lên tàu buôn Anh và đổ 342 thùng chè xuống cảng
Bô-xtơn. Điều này khiến nghị viện Anh đàn áp thẳng tay bao gồm cả việc
không cho tàu cập cảng Bô-xtơn. Các nhà lãnh đạo vùng thuộc địa tụ họp đại
hội lần đầu năm 1774 để thảo luận các biện pháp chống đối lại sự cai trị của
nước Anh. Cuộc chiến xảy ra vào ngày 19 tháng 4 năm 1775 khi lính Anh đối
mặt với những kẻ phiến loạn thuộc địa ở Le-xing-tơn, Ma-sa-chu-set. Vào
ngày 4 tháng 6 năm 1776 đại hội của những vùng thuộc địa ra bản tuyên ngôn

độc lập.
Giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh cách mạng, người Mỹ bị thất bại
thảm hại do trang thiết bi chiến tranh nghèo nàn và ít được luyện tập, do vậy
luôn bị tổn thất nhân mạng và bị quân đội Anh đè bẹp mắc dù chiến đấu rất
ngoan cường. Bước ngoặt của cuộc chiến xảy ra năm 1777 khi binh sỹ Mỹ đã
đánh bại quân đội Anh ở Sa-ra-tô-ga. Người Pháp và người Mỹ ký hiệp định
liên minh, theo đó người Pháp cung cấp cho người Mỹ tàu chiến và quân đội.
Trận chiến lớn mang tính quyết định của cuộc cách mạng Mỹ diễn ra ở
Giooc-thao bang Vơ-gi-nia năm 1871. Một lực lượng của liên minh quân đội
Pháp Mỹ đã bao vây quân đội Anh và buộc họ đầu hàng. Cuộc chiến tiếp tục
xảy ra rải rác ở một số vùng trong hơn hai năm nữa. Cuộc chiến chỉ chính
thức kết thúc sau hiệp định Pa ri năm 1873 theo đó Anh Quốc công nhận nền
độc lập của người Mỹ.
-DÂN TỘC MỚI:
Hiến pháp Hoa Kỳ và sự ra đời của nước Mỹ được đề cập chi tiết trong
chương 4. Về cơ bản hiến pháp làm giảm mối e ngại của người dân đối với
quyền lực của chính quyền trung ương bằng cách chia công tác quản lý đất
nước thành 3 ngành: Lập pháp (quốc hội). Hành pháp (tổng thống và các cơ
quan trung ương) và Tư pháp (toà án liên bang) và 10 tu chính án được biết
tới như là đạo luật về các quyền để bảo vệ tự do cá nhân. Những khó khăn
không ngừng về sự thâu tóm quyền lực tiếp tục diễn ra trong các quan điểm
chính trị giữa hai nhân vật xuất chúng từ giai đoạn cách mạng. Gioóc-oa-sinh-
Tơn, người anh hùng trong cuộc chiến tranh cách mạng và là vị tổng thống
đầu tiên, người đứng đầu đảng có xu hướng ủng hộ một tổng thống và chính
quyền
trung ương mạnh, Thô-mát Ge-fơ-sơn, tác giả chính của bản tuyên ngôn độc
lập, lãnh tụ đảng có xu hướng giao thêm quyền lực cho các bang lập luận rằng
các bang cần có trách nhiệm nhiều hơn đối với dân.
18
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh

Ge-fơ-sơn trở thành vị tổng thống thứ 3 năm 1801. Mặc dù ông trước
đó luôn theo đuổi ý tưởng giới hạn sức mạnh của tổng thống, các thực tiễn
chính trị lại không diễn ra như vậy. Một trong các hoạt động mang tính chất
sức mạnh khác của vị tổng thống này là vào năm 1803 ông đã mua vùng lãnh
thổ Lu-si-an-na rộng lớn của Pháp, gần gấp đội diện tích Hoa Kỳ. Việc mua
vùng đất Lu-si-an-na làm tăng thêm hơn 2 triệu km2 lãnh thổ, mở rộng biên
giới quốc gia tới miền Tây xa xôi Rôc-ky Mao-tần thuộc bang Cô-lô-ra-đô.
Vào 15 năm đầu tiên của thế kỷ thứ 19, giới hạn của vùng định cư di
chuyển về phía Tây tới và quá dòng sông Mit-si-si-pi. Năm 1828, An-đriu Jắc-
sơn là vị tổng thống ngoài vùng lãnh thổ cũ được bầu lần đầu tiên: Người
bang Ten-ne-si, sinh ra trong một gia đình nghèo và không thuộc các truyền
thống văn hoá của người nhập cư đến bờ Đại tây dương.
Mặc dù về bề ngoài kỷ nguyên của những người theo học thuyết Jắc-
sơn có vẻ lạc quan và đầy sức sống, quốc gia non trẻ này vẫn mắc phải nhiều
mâu thuẫn. Những lời nói vang lên trong bản tuyên ngôn độc lập “Tất cả mọi
người đều bình đẳng” vẫn chẳng có ý nghĩa gì đối với với hơn 1,5 triệu nô lệ.
Vào năm 1820, các chính trị gia miền Bắc, miền Nam đã tranh cãi vấn
đề nô lệ có cần được hợp pháp hoá ở các vùng lãnh thổ miền Tây?. Quốc hội
đạt được thoả thuận: Chế độ nô lệ được tồn tại ở bang Mit-su-ri và vùng lãnh
thổ A-can-sát nhưng cấm ở tất cả các vùng miền Tây khác và bắc bang Mit-
su-ri. Cuộc chiến với Me-hi- cô xảy ra (1846-1848) làm cho nước Mỹ có thêm
lãnh thổ và vấn đề chế độ nô lệ lại được nêu ra. Một thoả thuận khác lại đạt
đước vào năm 1850, theo đó công nhận bang Ca-li-fóc-nia là bang tự do, công
dân của bang U-ta và Niu-Mê-hi-cô được phép tự quyết định chọn chế độ nô
lệ hay không trong giới hạn ranh giới bang mình.
Tuy nhiên vấn đề nô lệ tiếp tục dày vòi. Sau khi A-bra-ham-lin-côn, kẻ
thù của chế độ nô lệ, được bầu làm tổng thống năm 1860, 11 bang còn lại của
liên bang đã tự tuyên bố là quốc gia độc lập. Nhà nước liên bang Hoa Kỳ: nam
Ca-lô-lai-na, Mit-si-si-pi, Flo-ri-đa, Ala-ba-ma, Gioóc-gia, Lu-si-a-na, Tếch-
dát, Vơ-gi-nia, A-can-sát, Ten-net-si và nam Ca-lo-lai-na. Cuộc nội chiến bắt

đầu.
Quân đội liên bang đã thành công trong thời gian đầu của cuộc chiến,
và một số vị tướng của cuộc chiến đặc biệt là tướng Rô-bớt-li trở thành nhà
chiến thuật tài ba. Tuy nhiên, quân đội liên bang chỉ có ưu thế về sức người và
vật lực cho tới năm 1863 khi tướng Li đánh canh bạc cho quân đội hành quân
tiến lên phương Bắc vào vùng Pen-si-va-nia. Đội quân của ông gặp một đơn
vị liên quân l khác ở Gét-ty-bớc và cuộc chiến lớn nhất trên đất Mỹ nổ ra. Sau
3 ngày giao chiến quyết liệt, quân đội liên hiệp ly khai bị đánh bại. Đồng thời
trên dòng sông Mit-si-si-pi, môt đơn vị liên quân khác của tướng Uy-li-si-
Gran đã chiếm được thành phố Víc-bớc, giúp kiểm soát toàn bộ miền Bắc và
chia cắt liên bang thành hai phần.
19
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Hai năm sau, sau một chiến dịch kéo dài với sự tham chiến của đội
quân do tướng Li và Gran chỉ huy, các bang ly khai đã đầu hàng. Cuộc nội
chiến là trang bi thảm nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, tuy nhiên nó giải quyết được
2 vấn đề gây tranh cãi suốt từ năm 1776. Cuộc chiến này đã chấm dứt chế độ
nô lệ và chứng tỏ được rằng nước Mỹ không phải là một bộ sưu tập các quốc
gia bán độc lập mà là một quốc gia không thể chia cắt được dưới mọi góc độ.
-CUỐI THẾ KỶ THỨ 19:
Tổng thống A-bra-ham Lin-côn bị ám sát năm 1865, lấy đi của nước
Mỹ một người lãnh đạo duy nhất có đủ các yếu tố cần thiết để hàn gắn vết
thương do cuộc nội chiến để lại. Người kế nhiệm ông, Tổng thống An-đru
Jôn-sơn là người phương Nam , trong suốt cuộc nội chiến luôn trung thành
với liên minh ly khai. Những thành viên miền Bắc trong đảng của tổng thống
Jôn-sơn phát động tiến trình lật đổ ông do cho rằng ông đã hành động quá
khoan dung đối với những kẻ ly khai cũ. Quyết định xá tội của tông thống
Jôn-sơn là một thắng lợi quan trọng của nguyên tắc chia sẻ quyền lực: Quốc
hội không thể loại bỏ tổng thống dù có bất đồng với chính sách của tổng
thống. Việc phế truất tổng thống chỉ có thẻ xảy ra một khi tổng thống, như qui

định trong hiến pháp, vi phạm “Tội phản quốc, ăn hối lộ, tội vi phạm luật
hình sự nghiêm trọng và tư cách đạo đức xấu”.
Chỉ một vài ba năm sau cuộc nội chiến, Liên bang Hoa Kỳ đã trở thành
một sức mạnh công nghiệp hàng đầu, các nhà kinh doanh khôn ngoan đã gặt
hái được nhiều may mắn. Tuyến đường sắt xuyên lục điạ đã hoàn thành năm
1869, năm 1900, Hoa Kỳ có tổng số chiều dài đường sắt nhiều hơn toàn bộ
của Châu âu cộng lại. Ngành công nghiệp khai thác dầu phát triển nhanh. Rốc-
kơ-fe-lơ của công ty dầu mỏ Stan-đớt trở thành người giàu nhất nước Mỹ. An-
dru ca-ni-gi vốn khởi nghiệp từ một người Scốt-len nhập cư nghèo rớt đã xây
dựng một đế chế công nghiệp thép khổng lồ. Các nhà máy dệt mọc như nấm ở
miền Nam, tương tự như vậy đối với ngành sản xuất thịt hộp ở Chi-ca-gô bang
I-li-noi. Ngành công nghiệp điện cũng phát triển nhanh do người Mỹ tận dụng
được nhiều phát minh: Điện thoại, bóng đèn, động cơ điện xoay chiều, máy
biến thế và phim có lồng tiếng. Tại Chi-ca-gô, kiến trúc sư Lu-i Su-li-van đã
sử dụng kết cấu xây dựng khung thép tạo nên sự đóng góp hoàn hảo của
người Mỹ trong xây dựng thành phố hiện đại: Nhà chọc trời.
Tuy nhiên sự tăng trưởng kinh tế nhanh ngoài tầm kiểm soát cũng đem
lại những nguy hiểm. Để hạn chế sự cạnh tranh, ngành vận tải đường sắt được
sát nhập và đưa ra tốc độ vận tải tiêu chuẩn hoá. Trust- một tổ hợp các công ty
khổng lồ nỗ lực thiết lập sự độc quyền đối với một số ngành công nghiệp mà
trước hết là ngành công nghiệp dầu mỏ. Các công ty khổng lồ này có năng lực
sản xuất hàng hoá hiệu quả, và bán với giá rẻ, khống chế giá để tiêu diệt các
đối thủ cạnh tranh. Để chống lại sự lũng đoạn này, chính phủ Liên bang phải
ra tay can thiệp. Uỷ ban thương mại liên bang được thành lập năm 1887 để
20
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
kiểm soát tốc độ phát triển ngành đường sắt. Đạo luật chống liên minh, sát
nhập công ty năm 1890 ra đời nhằm “Kiểm soát thương mại”.
Việc công nghiệp hoá cũng tạo ra nguồn lao động có tổ chức. Hội Lao
Động Liên Bang-ra đời năm 1886- là sự sát nhập các liên đoàn lao động

những người lao động có tay nghề cao. Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ di cư ào ạt và
rất nhiều công nhân lành nghề ở Hoa Kỳ là người từ các quốc gia khác. Đối
với nông dân Mỹ, thời gian ngày càng khắc nghiệt. Giá lương thực, thực phẩm
liên tục giảm sút trong khí giá vận chuyển hàng hoá, giá kho bãi, thuế tại chỗ
và thuế hải quan đánh vào hàng tiêu dùng ngày càng cao.
Ngoài việc mua vùng A-las-ka của Nga năm 1867, lãnh thổ Hoa Kỳ
không thay đổi cho tới năm 1848. Vào thập kỷ 1890, một ý chí mở rộng lãnh
thổ mới nảy sinh. Hoa Kỳ theo gương các quốc gia Bắc Âu thực thi trách
nhiệm “Khai phá văn minh” các dân tộc ở Châu á, Châu phi và Châu Mỹ la
tinh. Sau khi báo chí Mỹ đăng những khoản tiền kếch sù của các vùng thuộc
địa Tây Ban Nha ở Cuba, Hoa Kỳ và Tây Ban Nha lao vào cuộc chiến. Sau
cuộc chiến này, Hoa Kỳ giành được nhiều tài sản của Tây Ban Nha: Cu ba,
Phi-líp-pin, Pu-éc-tô-ri-cô và Gu-am. Trong một hành động không liên quan
tới cuộc chiền này Hoa Kỳ còn giành được quần đảo Ha oai.
Tuy nhiên, người Mỹ vốn trước đó đã vứt bỏ những trói buộc của đế
chế, không hào hứng gì trong việc cai trị một quốc gia khác. Năm 1902, quân
đội Mỹ rời Cuba. Nước cộng hoà non trẻ này phải chuyển giao các căn cứ hải
quân cho Hoa kỳ, nước Phi-líp-pin giành được quyền quản lý có giới hạn năm
1907 và hoàn toàn độc lập năm 1946. Pu-éc-tô-ri-cô trở thành thành viên khối
thịnh vượng chung tự quản trong Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ, và Ha Oai trở
thành một bang của Hoa Kỳ vào năm 1959 (cùng với bang A-lát- ka).
Trong khi người Mỹ tích cực khám phá thế giới bên ngoài, họ đồng thời
có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề tồn tại trong nước. Mặc dù đã có
những dấu hiệu của một quốc gia thịnh vượng, vẫn có tới gần một nửa công
nhân công nghiệp phải sống trong cảnh nghèo nàn. Niu-Yoóc, Bốt-stơn, Chi-
ca-gô và San-Fran-sít-scô có thể tự hào về những nhà bảo tàng, các trường đại
học, các thư viện lớn song cũng phải xấu hổ về những căn nhà ổ chuột. Mặc
dù trước đó, chính sách phát triển kinh tế không có sự can thiệp từ bên ngoài
thắng thế: Chính phủ can thiệp vào việc kinh doanh không đáng kể, nhưng
vào khoảng năm 1900, phong trào Tiến Bộ ra đời để đòi cải cách xã hội và

quyền tự do cá nhân thông qua hoạt động của chính phủ. Những người ủng hộ
phong trào này đầu tiên là các nhà kinh tế, những người theo xu hướng xã hội,
công nhân kỹ thuật và viên chức nhà nước. Họ cố tìm kiếm các giải pháp khoa
học có hiệu quả để áp dụng cho các vấn đề chính trị.
Các công nhân xã hội đã đi vào hang cùng ngõ hẻm của các khu nhà ổ
chuột để thiết lập nên những khu định cư có khả năng cung cấp cho người
nghèo dịch vụ nghỉ ngơi và chăm sóc sức khoẻ. Những người ủng hộ việc cấm
21
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
bán rượu đòi hỏi cấm bán rượu triệt để, một phần để ngăn chặn những nỗi
thống khổ do những ông chồng nát rượu gây ra cho các bà vợ và con cái. Ở
các đô thị, các nhà chính trị theo xu hướng cải cách chiến đấu chống lại nạn
tham nhũng, việc đi lại bị kiểm soát của công dân và xây dựng cơ sở vật chất
hữu dụng thuộc sở hữu cộng đồng. Nhà nước thông qua các đạo luật cấm sử
dụng lao động trẻ em, giới hạn ngày làm việc và bồi thường cho công nhân bị
tai nạn lao động.
Một số người Mỹ có quan điểm cấp tiến hơn. Đảng xã hội, do U-gi-en
Đép tán thành quá trình chuyển đổi hoà bình, dân chủ sang nền kinh tế thuộc
sở hữu nhà nước.Tuy nhiên, Chủ nghĩa xã hội không bao giờ tìm được vị thế
chắc chắn ở Hoa Kỳ-Đảng này chỉ kiếm được khoảng 6% số phiếu trong cuộc
tranh đua giành ghế tổng thống năm 1912.
-CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH:
Khi thế chiến 1 bùng nổ ở Châu âu năm 1914, tổng thống Wi-Sơn theo
đuổi chính sách trung lập tuỵêt đối. Quyết định của Đức về việc sử dụng tàu
ngầm không hạn chế tấn công các tàu buôn hướng về cảng các nước đông
minh đã làm tổn hại quan điểm trung lập này. Khi quốc hội tuyên bố tình
trạng chiến tranh với nước Đức năm 1917, quân đội Hoa Kỳ chỉ có khoảng
200.000 lính. Hàng triệu đàn ông phải thực hiện chế độ quân dịch, được rèn
luyện và lên tàu vượt Đại tây dương và cho tàu ngầm đến quấy phá của đối
phương. Phải mất hơn một năm, quân đội Hoa Kỳ mới đủ điều kiện tham gia

cuộc chiến có hiệu quả.
Vào mùa thu năm 1918, vị thế của quân Đức trong cuộc chiến trở nên
vô vọng . Quân đội Đức buộc phải rút quân đối mặt với sự tăng cường lực
lượng liên tục của quân đội Mỹ. Vào tháng 10 Đức đề nghị hoà bình và hiệp
định đình chiến đã đạt được vào ngày 11 tháng 11. Năm 1919, đích thân tổng
thống Wil-son đã tới Véc- xây để dự thảo hiệp định hoà bình. Mặc dù ông
được nhiệt liệt hoan ngênh đón chào ở thủ đô các nước đồng minh, ở trong
nước quan điểm về các vấn đề quốc tế của ông không thực sự được mọi người
chia sẻ. Quan điểm của ông về hội quốc liên cũng được bao gồm trong hiệp
định Véc-xây song Hạ viện vẫn không phê chuẩn hiệp định này vì vậy Hoa
Kỳ không tham gia hội quốc liên.
Đa số người Mỹ không lấy làm tiếc vì hiệp định này không được phê
chuẩn. Họ tập trung chú ý vào các vấn đề quốc nội và Hoa kỳ rút ra khỏi hầu
hết các vấn đề ở Âu châu. Đồng thời, người Mỹ trở nên thù địch với người
nước ngoài sống trong cộng đồng người Mỹ. Năm 1919 một loạt các cuộc
đánh bom khủng bố đã tạo ra cái gọi là “Mối đe doạ đỏ”. Được sự đồng thuận
của tướng Mi-chen Pal-mơ hàng loạt các cuộc hội họp chính trị được tổ chức
và hàng trăm người người nước ngoài có tư tưởng cực đoan bị trục xuất mặc
dù hầu hết họ vô tội đối với các tội ác xảy ra. Năm 1921 hai người theo chủ
22
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
nghĩa vô chính phủ gốc Ý - Ni-cô-la Sác-Cô và Ba-to-lô mê-Ô-van-de-ti bị
kết tội là kẻ sát nhân dựa trên những chứng cứ thiếu chắc chắn. Giới trí thức
phản đối nhưng cả hai người đều bị lên ghế điện. Quốc hội ban hành đạo luật
giới hạn nhập cư vào năm 1921 và thắt chặt đạo luật này hơn nữa vào năm
1924 và
1929. Những đạo luật này chỉ đưa ra các điều khoản có lợi hơn đối với người
nhập cư từ cộng đồng dân cư gốc Ăng-lô-sắc-xông và Bắc Âu.
Thập kỷ 20 là thời kỳ xáo trộn và khác thường, khi chủ nghĩa khoái lạc
và chủ nghĩa bảo thủ khắt khe cùng tồn tại. Đây chính là kỷ nguyên của sự

cấm đoán: Năm 1920 một tu chính hiến pháp đặt ra ngoài vòng pháp luật việc
bán các chất có cồn. Tuy nhiên, những người nghiện vần đàng hoàng vi phạm
ở trong hàng ngàn quán rượi bất hợp pháp, và những kẻ giang hồ thảo khấu
luôn tìm vận may bất hợp pháp trong men rượu. Đây cũng còn là thời điểm
của “Thế Kỷ 20 ầm ầm chuyển động” -Kỷ nguyên của nhạc Zazz và phim
không tiếng cùng những thú vui kỳ cục như dựng cột cờ, nuốt cá vàng….Tổ
chức Ku-lu-klan-một tổ chức phân biệt chủng tộc ra đời sau nội chiến thu hút
nhiều thành viên mới cùng những người da đen theo chủ nghĩa khủng bố,
người theo đạo tin lành và thiên chúa giáo và người nhập cư. Cùng thời gian
này, một người theo đạo tin lành- Ông An-frêt Smít-thống đốc thành phố Niu-
Gioóc, ứng cử viên thuộc Đảng dân chủ tham gia chạy đua chức tổng thống.
Với các nhà kinh doanh lớn, thập kỷ 20 là những năm vàng son. Hoa
Kỳ lúc này là xã hội tiêu thụ với thị trường bùng nổ của radio, đồ điện gia
đình, sợi nhân tạo và nhựa tổng hợp. Một trong những người được hâm mộ
nhất của thập kỷ này phải kể đến Henry-Fo, người đưa ra dây chuyền lắp ráp
trong ngành sản xuất ô tô. Fo đủ khả năng trả lương cao mà vẫn thu lợi lớn
qua việc sản xuất hàng loạt mẫu ô tô T, một loại xe mà hàng triệu người tiêu
dùng có khả năng mua. Trong một thời gian ngắn người Mỹ dường như đều
có thể có xe dùng.
Tuy nhiên sự giàu có bên ngoài che đậy những vấn đề nổi cộm bên
trong. Với lợi nhuận tăng lên, lãi xuất giảm, rất nhiều tiền đã được đầu tư mà
trong đó chủ yếu đầu tư vào thị trường chứng khoán đầy may rủi. Những cuộc
mua bán điên rồ đã đẩy giá cổ phiếu quá cao so với giá trị thực. Các nhà đầu
tư mua chứng khoán theo “Chênh lệch giữa giá mua và giá bán”, vay tới trên
90% của giá mua. Bong bóng nổ tung vào năm 1929. Thị trường chứng khoán
sụp đổ, điểm nhấn cho sự sụt giá toàn cầu .
-ĐẠI HẠ GIÁ:
Vào năm 1932 hàng nghìn ngân hàng Mỹ và hơn 100.000 xí nghiệp làm
ăn thua thiệt. Sản xuất công nghiệp chỉ còn một nửa, lương công nhân giảm
60% và cứ 4 công nhân thì có một công nhân thất nghiệp. Năm đó Fran-kơ

23
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
Ru-sơ-ven trúng cử tổng thống dựa trên luận cương “Sự đồng thuận mới đối
với người Mỹ”.
Sự tự tin vui nhộn của Ru-sơ-ven đã khuyến khích cả dân tộc. “Điều
duy nhất đáng sợ chính là sự sợ hãi chính bản thân mình”. Ông phát biểu
trong lễ nhậm chức và ngay sau đó thực hiện lời cam kết của mình bằng các
hoạt động có tính chất quyết định. Trong 3 tháng-100 ngày lịch sử-Tổng thống
đã nhanh chóng đệ trình quốc hội thông qua một loạt đạo luật nhằm phục hồi
kinh tế. Các cơ quan mới ra đời như các công ty bảo vệ quyền dân sự. Cơ
quan quản lý
các tiến bộ xí nghiệp đã tạo ra hàng triệu việc làm bằng cách thi công các
công trình xây dựng đường xá, cầu sân bay công viên và các nhà công vụ. Sau
này, đạo luật an sinh xã hội đề ra tuổi đóng góp và lương hưu.
Chương trình “Sự đồng thuận mới đối với người Mỹ” không chấm dứt
nỗi u ám. Mặc dù nền kinh tế được cải thiện, sự phục hồi nền kinh tế chỉ có
được khi nước Mỹ xây dựng được nền công nghiệp quốc phòng trước khi Mỹ
tham gia chiến tranh thế giới lần thứ 2. Một lần nữa, nước Mỹ giữ vai trò
trung lập vào đầu cuộc chiến năm 1939. Tuy nhiên, việc quân đội Nhật ném
căn cứ hải quân Pi-ơ ở Ha-oai tháng 12 năm 1941 đã buộc người Mỹ tham gia
cuộc chiến, trước tiên là với Nhật và sau đó là chống lại liên quân Đức- Ý.
Những nhà hoạch định chiến tranh Mỹ, Anh và Nga xô viết thoả thuận
đánh bại người Đức. Các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ lên Bắc Phi vào tháng 11
năm 1942 tiếp theo là đảo Silisi và nước Ý năm 1943, giải phóng Rôm ngày 4
tháng 6 năm 1944. Hai ngày sau, các lực lượng đồng minh đổ bộ lên bờ biển
Noóc-măng-đi. Pari được giải phóng vào ngày 24 tháng 8, và tháng 9 các đơn
vị Hoa Kỳ đã vượt qua biên giới Đức. Cuối cùng người Đức buộc phải đầu
hàng vào ngày 5 tháng 5 năm 1945.
Cuộc chiến tranh với Nhật có bước ngoặt vào tháng 8/1945 khi tổng
thống Ha-ry-tru-man ra lệch sử dụng bom nguyên tử tấn công thành phố Hi-

rô-si-ma và Na- ga-sa-ki. Gần 200.000 thường dân bị thiệt mạng. Mặc dù việc
sử dụng bom nguyên tử còn là vấn đề tranh cãi song ý kiến ủng hộ cho rằng
nếu không dùng bom nguyên tử, thiệt hại nhân mạng của cả bên đối nghịch có
thể cao hơn nếu các lực lượng đồng minh buộc phải tấn công trực tiếp vào
nước Nhật.
-CHIẾN TRANH LẠNH:
Một hội nghị quốc tế mới-Tổ chức Liên Hợp Quốc-được thành lập ngay
sau chiến tranh thế giới lần thứ II có sự tham gia của Hoa kỳ. Ngay sau đó là
tình trạng căng thẳng giữa Hoa kỳ và một đồng minh trong chiến tranh-Liên
Bang Xô Viết. diễn ra. Mặc dù lãnh tụ Giô-dép Sta-lin cam kết ủng hộ các
cuộc tuyển cử tự do, Nhà nước Xô viết đã áp đặt các chính quyền chuyên
chính cộng sản ở Đông Âu. Nước Đức bi chia cắt với vùng phía Tây đặt dưới
24
Nghiên cứu về Hoa Kỳ Nguyễn Đức Lợi - THPT Phù Ninh
sự quản lí của Anh, Pháp và Hoa kỳ còn ở miền Đông chịu sự kiểm soát của
Liên xô. Mùa thu 1948 người Xô viết đã cô lập Tây Bec-lin nhằm khuất phục
thành phố bị tách biệt này. Các nước phương Tây đáp lại bằng chiến dịch
không vận khổng lồ, cung cấp lương thực, xăng dầu cho tới khi người Xô viết
dỡ bỏ lệnh cấm vận vào tháng 5/1949. Trước đó 1 tháng, Hoa Kỳ đã liên minh
với Bỉ, Bồ Đào Nha, Vương Quốc Anh thành lập khối Liên Minh Bắc Đại Tây
Dương (NATO).
Ngày 25 tháng 6/1950 lực lượng vũ trang Bắc Triều tiên với trang bị vũ
khí của Liên xô và được sự chấp thuận của Stalin đã xâm lược Nam Triều
tiên. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm và hậu quả cuối cùng là nước Triều tiên
bị chia cắt.
Nước Nga kiểm soát đông Âu, cuộc chiến Triều Tiên, cùng với sự phát
triển vũ khí nguyên tử và vũ khí hạch tâm đã gây nên mối lo ngại cho người
Mỹ. Song một số người tin rắng mối nguy hiểm mới của quốc gia chính là các
hoạt động của những kẻ phản bội từ bên trong. Nghị sỹ đảng Cộng hoà Giô-
Giép Mắc-ka-thi vào đầu thập kỷ 50 quả quyết rằng các bộ thuộc chính phủ

liên bang và các lực lượng vũ trang Hoa kỳ bị những người cộng sản thách đố.
Nghị sỹ này đã bị công luận lên án. Tuy nhiên vào thời điểm này, mọi sự
dường như đã bị tổn hại mặc dù người Mỹ đã có tất cả song những giá trị đạo
đức chủ yếu của người Mỳ đã bị mất mát: Đó là sự khoan dung do những bất
đồng chính kiến.
Từ năm 1945 tới năm 1975, nền kinh tề Mỹ phát triển liên tục, chỉ có
một giai đoạn suy thoái ngắn và nhẹ nhàng. Lần đầu tiên đa số người Mỹ
được hưởng điều kiện sống cao. Năm 1960, có 55% hộ gia đình có máy giặt,
77% có xe ô tô riêng, 90% có vô tuyến truyền hình và hầu hết có tủ lạnh.
Đồng thời nước Mỹ dân dần chuyễn sang xây dựng một xã hội bình đẳng giữa
các chủng tộc.
Năm 1960, John Ken-nơ- đi được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ. Là một
người trẻ trung, có năng lực và điển trai, ông cam kết đưa nước Mỹ tiếp tục
tiến lên sau nhiệm kỳ tổng thống 8 năm của Rai-Ai-xen-hao. Tháng 10 năm
1962 Ken-nơ-đi phải đối mặt với cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất của cuộc
chiến tranh lạnh. Người ta phát hiện người Nga lắp đặt đầu đạn hạt nhân ở
Cuba đủ sức bay tới các thành phố của Hoa Kỳ trong vài phút. Tổng thống
Ken-nơ-đi ra lệnh áp đặt lệnh phong toả đường biển. Thủ tướng Ni-ki-ta Khơ-
rut-sốp cuối cùng phải đồng ý rút các tên lửa khỏi Cuba và để đáp lại người
Mỹ cam kết không xâm lược Cuba.
Tháng 4 năm 1961, người Xô viết gặt hái nhiều thành công trong việc
chinh phục vũ trụ qua việc lần đầu tiên đưa con người lên quĩ đạo vòng quanh
trái đất. Đáp lại, tổng thống Ken-nơ-đi cam kết đưa người Mỹ đi bộ trên mặt
trăng trước khi bước sang thập kỷ mới. Lời hứa này trở thành hiện thực vào
tháng 7 năm 1969 khi phi hành gia Nây-Am-strong bước ra khỏi phi thuyền
Apolô 11 và đi bộ trên bề mặt của mặt trăng.
25

×