Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.04 KB, 86 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam đợc công bố ngày 09/7/1998, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/1989, quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự. Qua 15 năm triển khai thực hiện, bộ luật tố tụng hình sự đã
thể hiện quan điểm đổi mới về tố tụng hình sự ở nớc ta, ta phù hợp với xu thế
của thời đại là phát huy dân chủ, bảo vệ các quyền lợi và ích hợp pháp của
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng Bộ luật Hình sự,
đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Từ khi Bộ luật đi vào cuộc sống, hoạt động tố tụng hình sự đã thực sự
chính quy hoá, mang tính khoa học, đóng góp vào thành quả chung của công
cuộc đổi mới của Nhà nớc ta trong những năm qua, mang lại niềm tin và sự
phấn khởi trong nhân dân.
Tuy nhiên, trớc yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong
giai đoạn mới, một số quy định cụ thể về các hoạt động tố tụng trong Bộ luật
tố tụng hình sự không còn phù hợp, tình trạng vi phạm tố tụng hình sự nh bắt
ngời, tạm giữ, tạm giam oai sai, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử quá hạn luật
định xảy ra ở nhiều nơi, nhiều lúc.
Đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách kinh tế, cải cách hành chính,
cải cách t pháp, thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt nam, quán triệt t tởng, quan điểm, định hớng về cải cách t pháp đ-
ợc đề ra tại Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 01/01/2002, Bộ luật tố tụng
hình sự đã đợc sửa đổi một cách toàn diện nhằm nâng cao chất lợng hoạt
động của các cơ quan t pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm trong tình hình mới; nêu cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nớc đối với công dân, đảm bảo và đề cao các quyền tự do dân chủ
của công dân; đề cao trách nhiệm và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
1
các cơ quan và ngời tiến hành tố tụng, xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của
những ngời tham gia tố tụng. Các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng đợc


sửa đổi rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, có tính khả thi cao hơn, tạo điều kiện cho
những ngời tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách
nhiệm của mình.
Để góp phần đảm bảo hiệu lực của Luật tố tụng hình sự, hiệu quả của
tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự mới đã quan tâm thích đáng đến vấn
đề thời hạn. So với những quy định trớc đây, trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 các loại thời hạn đợc quy định rõ ràng, chặt chẽ, các giai đoạn,
hoạt động tố tụng nào cũng gắn liền với một thời hạn nhất định. Thời hạn tố
tụng đợc xem nh là một chỉ tiêu bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải
thực hiện.
Mọi hoạt động tố tụng đều diễn ra trong thời gian, vì thế có thể khẳng
định rằng vấn đề thời hạn trong tố tụng hình sự liên quan đến nội dung, y
nghĩa, chất lợng, hiệu quả tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy nhiên,
ngay trong Bộ luật tố tụng hình sự mới các quy định về thời hạn cũng cha
hoàn toàn đầy đủ, khoa học. Mặt khác cha có nhiều đề tài, công trình nghiên
cứu một cách chuyên biệt về vấn đề thời hạn trong tố tụng hình sự Với ly do
đó, tôi đã chọn đề tài "Thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
nam" để viết luận án cao học.
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Mục đích của luận án là làm rõ một số ly luận cơ bản về thời hạn nh
khái niệm thời hạn, y nghĩa thời hạn, căn cứ xác định thời hạn, phân loại thời
hạn trên cơ sở phân tích các loại thời hạn cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành: Đánh giá tình hình thực hiện các quy định về áp dụng thời hạn tố
tụng hình sự nói riêng trong thực tiễn những năm gần đây, rút ra những kết
quả đạt đợc những hạn chế cần khắc phục. Đề xuất một số y kiến nhằm sửa
đổi, bổ sung một số quy định về thời hạn trong Bộ luật tố tụng hình sự và góp
2
phần nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành
tố tụng.
Mục đích và phạm vi nghiên cứu nói trên đặt ra cho luận án giải quyết

các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu về thời hạn trong tố tụng hình sự
- Nghiên cứu về một số loại thời hạn cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình
sự: thời hạn trong giai đoạn điều tra và kiểm sát điều tra, thời hạn xét xử, thời
hạn thi hành bản án và quyết định của toà án, thời hạn áp dụng các biện pháp
ngăn chặn.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
về thời hạn trong tố tụng hình sự.
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thời hạn trong
Bộ luật tố tụng hình sự Việt nam.
3. Phơng pháp nghiên cứu
Luận án đợc thực hiện trên cơ sở ly luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin;
Quan điểm của Đảng về vấn đề phát huy dân chủ, tăng cờng pháp chế xã hội
chủ nghĩa, cải cách bộ máy Nhà nớc và cải cách t pháp ở nớc ta.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, ngời viết đã sử dụng các phơng
pháp; lịch sử, so sánh, thống kê, phơng pháp xã hội học, phân tích, tổng hợp
để làm sáng tổ nội dung vấn đề.
4. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 2 chơng:
Chơng 1: Những quy định của pháp luật về thời hạn trong tố tụng
hình sự.
Chơng 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời
hạn trong tụng hình sự và một số kiến nghị.
3
Chơng 1: Những quy định của pháp luật
về thời hạn trong tố tụng hình sự
1.1. Nhận thức chung về thời hạn trong tố tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm và y nghĩa của thời hạn trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không đa ra một định nghĩa riêng về thời

hạn, tuy nhiên theo tinh thần Điều 96 BLTTHS có thể hiểu khái niệm thời
hạn trong Tố tụng hình sự là khoảng thời gian đợc xác định từ thời điểm này
đến thời điểm khác do Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho từng hoạt động tố
tụng, hành vi tố tụng cụ thể. Ví dụ: Thời hạn tạm giữ, thời hạn tam giam áp
dụng trong các biện pháp ngăn chặn, thời hạn điều tra áp dụng cho giai đoạn
điều tra, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Thời hạn trong tố tụng hình sự không đơn giản là khoảng thời gian vật
chất đợc xác định để thực hiện công việc này hay công việc khác, mà nó còn
thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật. Nhà làm luật thể hiện y chí
của nhân dân thông qua việc xác định những thời hạn cần thiết để tiến hành
các hoạt động tố tụng. Nh vậy, thời hạn trong tố tụng hình sự là một đại lợng
có tính khách quan đợc xác định thông qua y thức chủ quan của các con ngời.
Khách quan là bởi vì đó là khoảng thời gian vật chất cần thiết để thực hiện
hoạt động hay hành vi tố tụng nào đó. Chủ quan là bởi vì chính con ngời,
thông qua y thức của mình, cho rằng cần có một lợng thời gian này hay lợng
thời gian khác cho từng hoạt động, hành vi tố tụng.
Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tiến hành tố tụng từ khi phát hiện tội phạm
đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định về khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự. ở mỗi giai đoạn phải đảm bảo trình tự trớc, sau
và thủ tục tiến hành một cách chặt chẽ nh: cách thức tiến hành ra sao? Căn cứ
nào? thẩm quyền đến đâu? thời hạn bao lâu?
4
Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của các Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án cũng nh mối quan hệ giữa
các cơ quan đó với nhau. Mối quan hệ cấp trên- cấp dới trong một cơ quan
tiến hành tố tụng cũng đợc xác định cụ thể trong tố tụng hình sự nhằm đảm
bảo việc hoạt động tố tụng đợc tiến hành chặt chẽ, đúng pháp luật, không tuỳ
tiện, lạm quyền..
Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của những ngời tiến hành tố tụng: quyền và nghĩa vụ của những ngời
tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân.
Nh vậy, thời hạn trong tố tụng hình sự thể hiện nhiệm vụ của luật tố
tụng hình sự là phát hiện, chính xác, nhanh chóng và xử ly công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan ngời vô tội,
góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nớc, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, đồng thời giáo dục mọi ngời y thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Tính xác định về thời gian, tính bắt buộc cho từng giai đoạn tố tụng,
hoạt động tố tụng (nh điều tra, kiểm sát điều tra, xét xử, các biện pháp ngăn
chặn ) trong thời hạn bao hàm y nghĩa ràng buộc tất cả các cơ quan tiến
hành tố tụng phải tiân thủ pháp luật trên nền tảng pháp chế và dân chủ, vừa
tạo ra quyền để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đạt hiệu quả, mục đích
của luật tố tụng nào lại không gắn liền với một thời hạn nhất định để đảm bảo
đợc yêu cầu cả về hai phía: các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện tốt nhiệm
vụ, chức năng, quyền hạn của mình và quyền lợi ích hợp pháp của công dân
đợc đảm bảo. Từ lúc khởi tố vụ án hình sự, thời hạn các hoạt động tố tụng
trong từng giai đoạn tố tụng đợc quy định một cách tuần tự, kế tiếp nhau.
Nếu vụ án đợc giải quyết đầy đủ các bớc tố tụng từ lúc khởi tố đến khi xét
xử, thì trình tự này đợc ví nh một công trình đợc nối tiếp nhau bằng ngày với
ngày, tháng với tháng.
5
Ngay từ trớc khi khởi tố vụ án hình sự. Luật tố tụng hình sự có những
quy định thời hạn nhằm đảm bảo yêu cầu phát hiện chính xác, nhanh chóng
mọi hành vi phạm tội. Điều 103 Luật này quy định thời hạn giải quyết tố
giác và tin báo về tội phạm để quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án hình sự là hai mơi ngày đối với sự việc đơn giản, hai tháng đối với vụ việc
phức tạp.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không đợc quá bốn tháng kể từ khi

khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trong trờng hợp cần gia hạn điều
tra do tính chất phức tạp của vụ án, trong thời hạn mời ngày trớc khi hết hạn
điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn điều
tra (Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự). Thời hạn bốn tháng Điều 119 Bộ
luật tố tụng hình sự là thời hạn tối đa để kết thúc điều tra. Cơ quan điều tra có
thể kết luận điều tra, đề nghị truy tố theo điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự
sớm hơn đối với những vụ án ít nghiêm trọng, rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, mà
không chờ đến hết thời hạn bốn tháng, cũng nh đối với những vụ án phức tạp
cần phải tiến hành nhiều hoạt động nghiệp vụ điều tra, đòi hỏi nhiều thời
gian, thì trớc khi hết hạn điều tra mời ngày, cơ quan điều tra phải đề nghị
viện kiểm sát gia hạn điều tra bằng văn bản. Thời hạn mời ngày này cũng là
tối đa để đề nghị gia hạn.
Trình tự kế tiếp giai đoạn điều tra là giai đoạn kiểm sát điều tra gắn
liền với thời hạn kế tiếp liên quan đến nhiều vấn đề của tố tụng hình sự.
Trình tự này là trình tự khép kín, chặt chẽ, không có hoạt động tố tụng
nào lại không bị ràng buộc bởi một thời hạn cụ thể, để đặt cơ quan tiến hành
tố tụng, ngời tiến hành tố tụng trong tình trạng có y thức đề cao tinh thần
trách nhiệm về các hoạt động của mình đảm bảo thời gian quy định mà vẫn
đạt hiệu quả, đồng thời chống tuỳ tiện và những biểu hiện vi phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của những ngời tham gia tố tụng.
6
1.1.2. Căn cứ xác định thời hạn
Việc xác định thời hạn một giai đoạn tố tụng hoạt động tố tụng mà cụ
thể, hợp ly là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ đầy đủ những
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, bởi vì xác định thời hạn là xác định
chỉ tiêu về thời gian cho một hoạt động tố tụng cụ thể, buộc các cơ quan tiến
hành tố tụng trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ đợc giao phải tuân thủ
nghiêm túc. Nếu việc xác định ấy hợp ly thì chính nó đảm bảo sự phân công
quy trình tố tụng "phân công lao động" phù hợp, khắc phục đợc tình trạng
giam giữ quá hạn, án tồn đọng chậm thi hành án, là cơ sở, là thớc đo thời

gian để các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Ng-
ợc lại, việc xác định thời hạn không phù hợp là nguyên nhân của những vi
phạm "dây chuyền" vì hoạt động tố tụng hình sự là những công đoạn kế tiếp
nhau về mặt thời gian giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Để một thời hạn trong tố tụng hình sự phù hợp thực tiễn, phù hợp với
các điều kiện kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu của tố tụng hình sự, khi quy
định cần căn cứ trên những cơ sở khoa học. Sau đây là những căn cứ cần đợc
tính đến khi xác định thời hạn trong tố tụng hình sự:
* Tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án
Theo quy định của pháp luật thì chỉ những hành vi nào nguy hiểm
đáng chể cho xã hội, xâm phạm đến những quan hệ xã hội đợc luật Hình sự
bảo vệ thì mới coi là tội phạm. Bộ luật hình sự còn phân biệt tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng theo tiêu chí mức độ gây nguy hại cho xã hội v à mức
h ình phạt d liệu trong Bộ luật hình sự (20, tr.19). Việc phân biệt này có y
nghĩa ly luận cũng nh thực tiễn làm cơ sở để xác định những thời hạn tơng
ứng với tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án. Đối
với một vụ án đã đợc khởi tố, mà tính chất của tội phạm nghiêm trọng, có
hậu quả gây nguy hiểm rất lớn cho xã hội, do nhiều ngời, nhiều băng nhóm
thực hiện: phạm tội dới hình thức đông phạm hoặc có tổ chức; xâm phạm
7
nhiều khách thể; thực hiện nhiều địa bàn khác nhau; độ ẩn của tội phạm cao
(ví dụ: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về tham nhũng )
có đối tợng đã bị phát hiện, có đối tợng bị nghi vấn hoặc cha đợc xác định
chính xác, có chứng cứ thu thập đã rõ, có chứng cứ còn ẩn phải tìm tòi, đòi
hỏi cơ quan điều tra phải tiến hành nhiều hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng,
bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ đa dạng nh hỏi cung bị can, lấy lời khai ngời
làm chứng, ngời bị hại, tổ chức đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ, kê
biên tài sản, khám nghiệm hiện trờng, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra, giám định, uỷ thác điều tra.. thì thời hạn điều tra phải dài hơn thời hạn

điều tra những tội phạm ít nghiêm trọng hơn.
Ngay cả thời hạn quy định cho việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trớc khi quyết định khởi tố hoặc khởi tố vụ án hình
sự theo điểu 103 Bộ luật tố tụng hình sự cũng lấy tiêu chí tính chất nghiêm
trọng hoặc ít nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp hoặc kém phức tạp
của vụ án làm căn cứ xác định thời hạn dài hay ngắn. Chẳng hạn, theo điều
103 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời hạn hai mơi ngày, kể từ ngày
nhận đợc tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra
trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và
quyết định việc khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong trờng
hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hay kiến nghị khởi tố có nhiều tình
tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để
giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhng không quá hai tháng.
Căn cứ tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ
án để xác định thời hạn, là căn cứ khoa học dựa trên định tính của sự việc đề
ra định lợng về thời gian để giải quyết sự việc. Có thể nói, căn cứ này tỷ lệ
thuận với độ dài ngắn của thời hạn. Không thể trong một khoảng thời gian
ngắn mà đảm bảo đợc hiệu quả tố tụng, cũng nh không thể đạt đợc hai yêu
cầu vừa khẩn trơng, vừa chính xác đối với những tội phạm rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng, những vụ án phức tạp.
8
* Trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ tiến hành tố tụng
Hoạt động t pháp là khâu quan trọng nhất của hoạt động áp dụng pháp
luật. Để có thể áp dụng một cách đúng đắn, đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.. một trong những yêu
cầu đầu tiên và mang tính quyết định là trình độ, năng lực chuyên môn của
cán bộ tiến hành tố tụng. Hay nói cách khác, trình độ năng lực chuyên môn
của cán bộ tiến hành tố tụng quyết định phần lớn kết quả hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay ở nớc ta, khi
mà đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và những ngời tiến hành

tố tụng khác đang từng bớc nâng cao chất lợng về nghiệp vụ, tiêu chuẩn hoá
ở trình độ cao, đáp ứng yêu cầu khoa học ngày càng phát triển và chính sách
hình sự trong thời kỳ đổi mới thì trình độ năng lực chuyên môn của cán bộ
tiến hành tố tụng lại cũng là căn cứ quan trọng để xác định thời hạn.
Trong bộ luật tố tụng hình sự hiện hành những quy định về thời hạn
điều tính toán đến khả năng thực hiện của con ngời, chẳng hạn:
Tại điều 111 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền hạn của
các đơn vị bộ đội biên phòng, hải quan, Kiểm lâm và lực lợng cảnh sát biển:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trờng hợp tội phạm tội quả
tang, chứng cứ và lai lịch ngời phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có
thẩm quyền trong thời hạn hai mơi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ
án.
- Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhng phức tạp thì ra quyết định khởi tố
vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ
quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án.
9
Hoặc, thời hạn điều tra bổ sung theo Điều 121 khoản 2 Bộ luật tố tụng
hình sự, rõ ràng là có căn cứ vào mức độ hoàn thành của từng giai đoạn tố
tụng để quy định những thời gian dài ngắn khác nhau.
Trong trờng hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì
thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng tính từ ngày cơ quan điều tra
nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
- Trờng hợp vụ án do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn
điều tra bổ sung không quá một tháng.
Mức độ hoàn thành ấy do trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ
tiến hành tố tụng quyết định, cùng với điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, ph-
ơng tiện nghiệp vụ mà các cơ quan tiến hành tố tụng đợc Nhà nớc trang bị.

Nếu căn cứ thứ nhất (tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức tạp
phức tạp của vụ án) mang tính khoa học, thì căn cứ thứ hai (trình độ năng lực
chuyên môn của cán bộ tiến hành tố tụng) mang tính thực tiễn, cả hai đều là
những căn cứ chủ yếu để xác định thời hạn.
* Đảm bảo tính dân chủ trong Tố tụng hình sự.
Dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội là yêu cầu, là mục tiêu mà
chúng ta đang hớng tới.
Tố tụng hình sự Việt nam thể hiện các nguyên tắc tiến bộ, một mặt
yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật, mặt khác đòi hỏi phải bảo đảm quyền con ngời,
quyền và lời ích hợp pháp của công dân trong hoạt động tố tụng. Các nguyên
tắc này cùng chi phối cả việc xác định thời hạn trong tố tụng hình sự. Nh vậy
bảo đảm tính dân chủ là một trong những căn cứ để xác định thời hạn.
Thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam, thời hạn kháng cáo bản án hoặc
quyết định sơ thẩm v.v. thể hiện rõ nét việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo .. ví dụ, Điều 83, khoản 1 và Điều 86 khoản 3 Bộ luật
tố tụng hình sự quy định sau khi bắt hoặc nhận ngời bị bắt trong trờng hợp
10
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và
trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho ngời bị
bắt Trong thời hạn 12giờ (trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, thời hạn
này là 24 giờ) kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải đợc
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ
hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm
giữ và ngời ra quyết định tạm giữ phải trả lại tự do ngay cho ngời bị tạm giữ.
Thời hạn ra quyết định tạm giữ và thời hạn kiểm sát tạm giữ trên đây
bảo đảm quyền lợi của ngời bị nghi vấn có hành vi phạm tội, bị bắt trong tr-
ờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngời phạm tội tự thú, đầu thú hoặc
ngời bị bắt theo quyết định truy nã.
Bằng những quy định thời hạn chặt chẽ trong tất cả các giai đoạn tố

tụng, pháp luật tố tụng hình sự đề cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động,
tránh mọi biểu hiện tuỳ tiện trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, bảo
đảm tính dân chủ trong tố tụng hình sự.
* Thực hiện chính sách hình sự trong từng giai đoạn cụ thể:
Trong thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, Nhà nớc ta luôn đề ra chính sách
hình sự khác nhau, đáp ứng yêu cầu cụ thể của tình hình, nhiệm vụ cấp bách
của Nhà nớc vào thời kỳ, giai đoạn đó.
+ Sau cách mạng tháng tám thành công, chính quyền dân chủ nhân
dân còn non trẻ, phải đơng đầu với thù trong giặc ngoài, bề bộn trăm công
nghìn việc kiên quyết trấn áp, trừng trị kẻ thù của nhân dân, bảo vệ chính
quyền cách mạng là nội dung chủ yếu, hàng đầu của chính sách hình sự.
Trong thời kỳ này, hầu nh Nhà nớc chỉ chú trọng luật nội dung và chỉ nhằm
mục đích bảo vệ quyền lợi công cộng là chính.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống mỹ, chính sách hình
sự của Nhà nớc ta vẫn thiên về mặt chuyên chính với kẻ thù, tuy nhiên thời
kỳ này đã có một số văn bản quy định về thủ tục tố tụng hình sự:
11
- Luật số 103 - SL/1005 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể
và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà, đồ vật, th tín của nhân dân.
- Sắc luật 002 - Slt ngày 18/6/1957 quy định những trờng hợp phạm
pháp quả tang và những trờng hợp khẩn cấp.
+ Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nớc thống nhất, chính sách
hình sự của Nhà nớc ta vẫn nhất quán là công cụ chuyên chính vô sản đối với
kẻ thù của chế độ: kiên quyết trấn áp bọn phảm cách mạng, trừng trị những
kẻ xâm phạm đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động, cảnh giác cao
độ với các thế lực thù địch trong và ngoài nớc cha từ bỏ y đồ chống đối,
muốn xoá bỏ thành quả cách mạng. Các quyền cơ bản của nhân dân đợc đảm
bảo tại sắc luật 02- Sl ngày 15/03/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hoà miền nam Việt nam về bắt giam, giữ ngời và khám xét đồ vật.

Có thể thấy rằng các thời hạn trong tố tụng hình sự có đợc quy định
trong các văn bản pháp quy đơn hành nhng cha hình thành đợc hệ thống các
quy phạm pháp luật ràng buộc hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
cũng nh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đất nớc bớc vào thời kỳ đổi mới, bộ luật tố hình sự 1985 và Bộ luậttố
tụng hình sự 1988 đã quán triệt và thể chế hoá đờng lối đổi mới của Đảng và
Nhà nớc ta và đánh dấu một bớc phát triển sự nghiệp pháp điển hoá pháp
luật. Lần đầu tiên việc xác định thời hạn cũng nh trình tự, thủ tục, thẩm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng đợc quy định một cách chi tiết, có
hệ thống, đáp ứng yêu cầu, mục đích nhiệm vụ của tố tụng hình sự trong giai
đoạn mới, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, do nhiều ly do, trong đó có ly do Bộ luật tố tụng hình sự đ-
ợc nghiên cứu và xây dựng ngay trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới
nên trong quá trình thi hành. Bộ luật đã thể hiện những hạn chế và bất cập.
Mặc dù bộ luật đã đợc sửa đổi, bổ sung 03 lần vào các năm, 1990, 1992 và
2000 nhng các lần sửa đổi, bổ sung này mới chỉ tập trung vào một số nội
12
dung cấp bách để đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm, cha có điều kiện để sửa đổi một cách cơ bản và toàn diện
nên cha khắc phục đợc những hạn chế và bất cập đó.
Cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, chủ trơng
cải cách t pháp đang đợc đẩy mạnh, Đảng và Nhà nớc ta coi đây là nhân tố
quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt nam. Yêu cầu đặt ra là những hạn chế, bất cập của pháp luật tố
tụng hình sự cần đợc khắc phục nhằm đảm bảo nâng cao chất lợng của hoạt
động t pháp, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân, đảm bảo sự
thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách
tự pháp, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 ra đời đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi đó.

Việc xác định thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự rõ ràng cũng
căn cứ vào những đòi hỏi trên. Có thể nhận thấy rằng những quy định về t hời
hạn trng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chặt chẽ hơn, chính xác hơn, phù
hợp hơn. Đặc biệt, để tăng cờng hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm trong thời kỳ mới, đồng thời vẫn đảm bảo các quyền tự do,
dân chủ của công dân, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định thủ tục
tố tụng rút gọn và thời hạn tiến hành thủ tục tố tụng rút gọn trong một chơng
mới (chơng XXXIV từ điều 318 đến điều 324).
Thủ tục rút gọn trong hoạt động tố tụng không phải là mới ở nớc ta.
Tuy nhiên tính cần thiết của việc quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 chính là thực hiện chính sách hình sự trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
Điều kiện bảo đảm tính dân chủ và điều kiện thực hiện chính sách hình
sự, mục đích, nhiệm vụ của tố tụng hình sự từng thời kỳ làm căn cứ xác định
thời hạn tởng là đối lập nhau, nhng đó là hai mặt của vấn đề thể hiện bản chất
tốt đẹp của pháp luật XHCN nói chung và y nghĩa tiến bộ của pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng.
13
Việc phân loại thời hạn trong tố tụng hình sự đợc tiến hành chủ yếu
dựa vào các giai đoạn tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là một quá trình, trong
đó các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự theo một trình tự
luật định nhằm phát hiện và xử ly tội phạm, khôi phục lại các quan hệ xã hội
bị tội phạm xâm hại và để đạt đợc mục đích ấy, các cơ quan tiến hành tố tụng
cơ những hoạt động tố tụng khác nhau.
Các giai đoạn hoạt động tố tụng, theo nghĩa hẹp, bao gồm điều tra,
truy tố, xét xử mà chủ thể tiến hành các hoạt động này là cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, toà án.
Theo nghĩa rộng, hoạt động tố tụng hình sự bao gồm cả hành vi khởi tố
vụ án và giai đoạn hành án hình sự, nh nội dung của tố tụng hình sự hiện
hành.

Các giai đoạn tố tụng hình sự đợc quy định theo một trình tự về thời
gian, trớc sau, dài ngắn khác nhau, có thể hoàn thành trong chu kỳ hoặc có
thể trở lại nhiều chu kỳ. Các giai đoạn tố tụng đợc giới hạn bằng những
khoảng thời gian, hay nói khác đi, có thể phân loại thời hạn theo từng giai
đoạn tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn điều tra và kiểm soát điều tra có những thời hạn quy
định cho cơ quan điều tra và viện kiểm sát tiến hành các hoạt động tố tụng
hình sự nh:
- Thời hạn điều tra
- Thời hạn kiểm soát điều tra, quyết định việc truy tố.
- Thời hạn điều tra bổ sung
..
Trong giai đoạn xét xử có nhiều thời hạn quy định cho toà án các cấp
tiến hành công tác xét xử nh:
- Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
- Thời hạn hoãn phiên toà
14
- Thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án và quyết định hình sự sơ thẩm.
- Thời hạn xét xử phúc thẩm các bản án và quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị.
- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Thời hạn xét xử giám đốc thẩm.
- Thời hạn kháng nghị tái thẩm.

Thời hạn trong giai đoạn thi hành bản án và quyết định của toà án,
gồm có:
- Thời hạn ra quyết định t hi hành hoặc uỷ thác do Toà án khác cùng
cấp ra quyết định thi hành án.
- Thời hạn ra quyết định kháng nghị hoăc không kháng nghị giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án tử hình.

- Thời hạn hoãn thi hành án phạt tù
- Thời hạn gửi đơn xin âm giảm bản án tử hình.
Các thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn phục vụ hoạt động điều tra,
kiểm sát điều tra, xét xử nh: tạm giữ, hạn tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm
giam đợc xếp thành một nhóm riêng để tiện cho việc nghiên cứu.
1.2. Thời hạn trong tố tụng hình sự
1.2.1. Thời hạn trong giai đoạn điều tra và kiểm sát điều tra
1.2.1.1. Thời hạn trong giai đoạn điều tra
Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự
của một trong những cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền là: Cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, toà án, đơn vị bộ đội biên phòng, Hải quan, kiểm lâm, lực lợng
cảnh sát biển và các cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân
và kết thúc khi cơ quan tiến hành hoạt động điều tra kết luận điều tra vụ án,
chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát hoặc quyết định đình chỉnh vụ án.
15
Quyết định khởi tố vụ án hình sự mở đầu một loạt các hoạt động tố
tụng quan trọng của các cơ quan điều tra nhằm đạt đợc kết quả điều tra vụ án,
và từ giai đoạn này các thời hạn cụ thể đợc tố tụng hình sự quy định chặt chẽ,
buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Theo điều 100 bộ luật tố tụng hình sự về căn cứ khởi tố vụ án hình sự,
thì tố giác của công dân, tin báo của cơ quan, tổ chức, tin báo trên các phơng
tiện thông tin đại chúng là một trong những cơ sở xác định dấu hiệu tội
phạm. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát có nhiệm vụ giải quyết tố giác và tin
báo về tội phạm trong phạm vi trách nhiệm của mình, để quyết định việc khởi
tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, theo điều 103 bộ luật tố tụng hình .
Nh vậy, ở thời điểm trớc khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, đã có
một thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm.
- Thời hạn đó là hai mơi ngày kể từ ngày nhận đợc tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố. Cơ quan điều tra phải kiểm tra xác minh nguồn
tin và quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự đối với vụ

việc đơn giản không đòi hỏi phải mất nhiều thời gian xác minh hoặc phải tiến
hành nhiều biện pháp nghiệp vụ tại nhiều địa điểm khác nhau.
- Thời hạn tối đa là hai tháng kể từ ngày nhận đợc tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong trờng hợp vụ việc có nhiều tình tiết
phức tạp hoặc cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm
khác nhau.
Thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm có y nghĩa rất quan
trọng. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát phải tiến hành ngay việc kiểm tra, xác
minh tin báo để đi đến quyết định hoặc không khởi tố, hoặc khởi tố vụ án
hình sự. Thời hạn giải quyết là thời hạn tối đa, tuỳ theo tính chấtcủa vụ việc
bị tố giác hoặc tin báo, và tuỳ theo yêu cầu của công việc kiểm tra, xác minh.
* Thời hạn gửi quyết định khởi tố vụ án hình sự là hai mơi bốn giờ, kể
từ khi ra quyết định, đợc quy định cụ thể nh sau:
16
- Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trờng hợp
viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
điều tra, đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, kiểm lâm, lực lợng
cảnh sát biển và các cơ quan khác của công an nhân dân, Quân đội nhân dân
đợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và trong trờng hợp hội
đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến cơ quan
điều tra để tiến hành điều tra.
- Cơ quan điều tra, đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm
lâm, lực lợng cảnh sát biển và các cơ quan của công an nhân dân, quân đội
nhân dân đợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong quyền
hạn của mình ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và tối đa là hai mơi bốn giờ
phải gửi quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án
hình sự tới viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố.
- Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện
kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên hoà mà phát hiện

đợc tội phạm hoặc ngời phạm tội mới cần phải điều tra. Cũng trong thời hạn
mời bốn giờ, yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử đợc gửi cho viện kiểm sát
để xem xét, quyết định việc khởi tố.
Các quyết định khởi tố vụ án hình sự không cần Viện kiểm sát phê
chuẩn nhng tố tụng hình sự đề ra thời hạn ngắn nhất buộc các cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định khởi tố phải gửi ngày quyết định khởi tố vụ án hình
sự cho viện kiểm sát, để đặt hoạt động tố tụng dới sự kiểm sát chặt chẽ của
viện kiểm sát.
* Thời hạn điều tra:
Thời hạn điều tra đợc quy định cụ thể cho cơ quan điều tra chuyên
trách thuộc lực lợng cảnh sát nhân dân, lực lợng an ninh nhân dân, Quân đội
nhân dân, cũng nh các cơ quan khác đợc giao tiến hành một số hoạt động
điều tra.
17
+ Thời hạn điều tra của bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực l-
ợng cảnh sát biển đợc quy định tại điều 111 bộ luật tố tụng hình sự và các
điều 19, Điều 20 điều 21, điều 22 pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự là:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trờng hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lai lịch ngời phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, tiến hành điều tra (nh khám nghiệm hiện trờng, khám xét, lấy
lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp
đến vụ án ) và chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời
hạn hai mơi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhng phức tạp thì ra quyết định khởi tố
vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu (khám ngời, khám xét, lấy
lời khai ) và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong t hời
hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Nh vậy, thời hạn quy định tại điều 111 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự
dành cho Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lợng cảnh sát biển làm

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có hai loại:
- Thời hạn điều tra (hai mơi ngày) Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã tăng
thời hạn điều tra từ 15 ngày (Theo bộ luật tố tụng hình sự 19888) lên thành
20 ngày để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trên hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Đây là sự thay đổi cần thiết vì trình độ nghiệp vụ, cơ sở vật chất, điều
kiện, phơng tiện phục vụ cho hoạt động điều tra của các cơ quan này hạn chế
hơn so với cơ quan điều tra chuyên trách.
- Thời hạn điều tra ban đầu (bẩy ngày) sau đó chuyển hồ sơ cho cơ
quan điều tra tiếp tục công việc điều tra, tuỳ theo tính chất mức độ của hành
vi phạm tội.
+ Thời hạn điều tra của các cơ quan khác trong lực lợng cảnh sát nhân
dân, lực lợng An ninh nhân dân, Quân đội nhân dân đợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình (Các cục
18
Cảnh sát của Bộ nội vụ, các phòng cảnh sát, các cục khác của Bộ nội vụ, các
phòng khác của lực lợng an ninh nhân dân, đơn vị độc lập cấp trung đoàn và
tơng đơng trong quân đội nhân dân dân Việt nam ) nếu phát hiện sự việc có
dấu hiệu tội phạm, thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động
điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án, theo điều 111
khoản 2 bộ luật tố tụng hình sự và điều 23, điều 24 điều 25 Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự.
Thời hạn này cũng là thời hạn điều tra ban đầu, chuyển hồ sơ c ho cơ
quan điều tra tiếp tục công việc điều tra.
+ Thời hạn điều tra của các cơ quan điều tra chuyên trách trong lực l-
ợng cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, quân đội nhân dân đợc quy định cụ
thể tại điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự nh sau: Thời hạn điều tra vụ án hình
sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng
đối với tội phạm nghiêm trọng, không qua bốn tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi

kết thúc điều tra.
Trong trờng hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án
thì cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Cụ thể:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có t hể gia hạn điều tra một lần
không quá hai tháng. Thời hạn điều tra vụ án hình sự tối đa là bốn tháng đối
với tội phạm ít nghiêm trọng.
Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể đợc gia hạn điều tra hai lần, lần
thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng. Thời hạn
điều tra vụ án hình sự tối đa làm tám tháng đối với tội phạm nghiêm trọng.
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể đợc gia hạn điều tra hai lần
mỗi lần không quá bốn tháng. Thời hạn điều tra vụ án hình sự tối đa là mời
hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng.
19
Đối với tội phạm đạc biệt nghiêm trọng có thể gia hạn điều tra ba lần
mỗi lần không quá bốn tháng. Khi thời hạn gia hạn điều tra đã hết, nhng do
tính chất rất phức tạp của vụ án mà cha thể kết thúc việc điều tra thì viện tr-
ởng viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá
bốn tháng. Nh vậy, thời hạn điều tra vụ án hình sự đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể kéo dài hai mơi tháng, do gia hạn.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trởng viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn t háng.
Thời hạn đề nghị gia hạn điều tra theo điều 119 khoản 2 bộ luật tố
tụng hình sự là mời ngày trớc khi hết hạn điều tra. Thời hạn này bảo đảm
quyền lợi của bị can, chống sự tuỳ tiện của cơ quan điều tra giam giữ bị can
qúa hạn.
Các thời hạn nêu trên là thời hạn tối đa mà pháp luật cho phép. Trong
từng vụ án cụ thể cơ quan điều tra phải cố gắng để kết thúc điều tra sớm nhất.
Việc cho phép gia hạn điều tra cần căn cứ vào khối lợng công việc phải thực
hiện để gia hạn với thời gian phù hợp, có thể rút ngắn thời gian gia hạn,

không nhất thiết phải bằng mức bộ luật quy định.
Lần đầu tiên việc gửi quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định thay
đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đợc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
quy định cụ thể. Theo điều 126 khoản 4 và Điều 127, trong thời hạn 24 giờ
kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra phải gửi quyết định cho viện kiểm
sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đợc
quyết định của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn
hoặc ra quyết định huỷ bỏ và gửi ngay cho cơ quan điều tra. Trờng hợp phát
hiện có ngời đã thực hiện hành vi phạm tội nhng cha bị khởi tố thì viện kiểm
sát có quyền yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Trờng hợp
sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra mà viện kiểm sát phát hiện có
ngời khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án mà cha bị khởi tố vì
20
viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can và gửi cho cơ quan điều tra trong
thời hạn 24 giờ để tiến hành điều tra. Thời hạn này đảm bảo tính chặt chẽ
trong hoạt động giữ các cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của mỗi cơ quan trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
* Về việc khám xét, tại điều 141, khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự quy
định thời hạn phải thông báo việc khám xét xong cho viện kiểm sát cùng cấp
biết.
Trong trờng hợp không thể trì hoãn, những ngời có quyền ra lệnh bắt
ngời trong trờng hợp khẩn cấp theo Điều 81, khoản 2 Bộ luật TTHS có quyền
ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, ngời ta lệnh
khám phải thông báo bằng văn bản cho viện kiểm sát cùng cấp.
* Các hoạt động điều tra khác nh hỏi cung bị can, triệu tập ngời làm
chứng, lấy lời khai ngời làm chứng, ngời bị hại; tổ chức đối chất, nhận dạng:
thu giữ th tín, bu kiện, bu phẩm tại bu điện; tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám
xét, kê biên tài sản: thực nghiệm điều tra; trng cầu giám định đều đ ợc tiến
hành trong thời hạn điều tra, sau khi có quyết định khởi tố vụ án. Riêng khám

nghiệm hiện trờng, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể đợc
tiến hành trớc khi khởi tố vụ án hình sự.
Việc kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, đảm bảo việc điều tra đợc khách
quan toàn diện và đầy đủ. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu
cầu và quyết định của viện kiểm sát. Nếu cơ quan điều tra không nhất trí với
những quyết định và yêu cầu của viện kiểm sát nh:
- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác.
- Quyết định không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra.
- Quyết định huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của cơ quan điều tra.
21
- Quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can.
Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành những có quyền kiến nghị với
viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thời hạn viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải
xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết là hai mơi ngày, kể từ
ngày nhận đợc kiến nghị của cơ quan điều tra.
Khi kết thúc điều tra, cơ quan phải làm bản kết luận điều tra. Ttong
thời hạn hai ngay, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải
gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo
quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát cùng cấp
theo điều 162 khoản 4 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong thời hạn mời lăm ngày, kể từ ngày nhận đợc quyết định đình chỉ
điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ
thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra để giải quyết
theo thẩm quyền: nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì
huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra phục hồi điều
tra. (điều 164 khoản 4 bộ luật tố tụng hình sự).

Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, cơ
quan điều tra phải gửi quyết định này cho viện kiểm sát cùng cấp (điều 165
khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự.).
1.2.1.2. Thời hạn trong hoạt động, kiểm sát điều tra và quyết định
truy tố
Thời hạn điều tra kết thúc kể từ ngày cơ quan điều tra có bản kết luận
điều tra, chuyển hồ sơ vụ án sang viện kiểm sát đề nghị truy tố bị can hoặc
đình chỉ điều tra. Trong trờng hợp cơ quan quan điều tra đề nghị truy tố, thì
viện kiểm sát tiếp tục tiến hành tố tụng, thể hiện bằng một trong những quyết
định:
- Truy tố bị can trớc toà án bằng bản cáo trạng.
22
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Thời hạn để viện kiểm sát ra một trong những quyết định trên là hai m-
ơi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mơi
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
kể từ ngày nhận đợc hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Trong trờng hợp cần thiết. Viện trởng viện kiểm sát có thể gia hạn, nh-
ng không quá mời ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không qua ba mơi
ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điều 166, khoản 1 Bộ luật tố
tụng hình sự).
Nh vậy, thời hạn để viện kiểm sát hoàn thành bản cáo trạng truy tố bị
can ra xét xử trớc toà án, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án thờng tối đa là ba mơi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng
và nghiêm trọng, bốn mơi lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, sau
mơi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày viện kiểm sát
nhận đợc hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu
tên, viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, ngời bào chữa biết; giao bản cáo
trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị

can.
Cũng trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản
cáo trạng, viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến toà án.
Khác với quy định trớc đây chỉ có một thời hạn chung đối với tất cả
các loại tội phạm dễ dẫn đến t ình trạng kéo dài thời hạn nghiên cứu hồ sơ và
ra các quyết định tố tụng cần thiết, làm chậm quá trình giải quyết vụ án, thời
hạn mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định cho viện kiểm sát kiểm
sát điều tra và quyết định việc truy tố có sự phân biệt cụ thể giữa các loại tội
phạm.
Trên cơ sở các quy định về thời hạn điều tra và thời hạn kiểm sát điều
tra, hoạt động của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong quá trình thực
23
hiện chức năng, nhiệm vụ trở nên nhịp nhàng hơn, có cơ sở khoa học hơn,
công khai và dân chủ hơn rất nhiều. Một mặt, các quy định này là điều kiện
về quỹ thời gian giúp cho cơ quan và ngời tiến hành tố tụng hoàn thành
nhiệm vụ chuyên môn, mặt khác đảm bảo đợc quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngời vô tội.
Nếu không đăt ra thời hạn giải quyết những tin báo, tố giác về tội
phạm thì không thể giải quyết đợc khâu mấu chốt để xử ly thông tin, đấu
tranh phòng chống tội phạm. Nếu không có những quy định về thời hạn gửi
quyết định khởi tố vụ án hình sự, thời hạn chuyển hồ sơ vụ án hình sự, thời
hạn điều tra ban đầu, thời hạn điều tra, thời hạn kiểm sát điều tra, sẽ dẫn đến
nguy cơ tuỳ tiện trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, hậu quả
là việc bắt ngời oan, sai giam quá hạn.. không đảm bảo đợc yêu cầu, mục
đích nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự.
Với các quy định về thời hạn trong giai điều tra, giai đoạn kiểm sát
điều tra cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, đặt ra nh là một đòi hỏi bắt buộc đối với các
cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ trong công tác điều tra, tuy tố. Trong quá
trình cơ quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra và viện kiểm sát thực hiện

chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự, cơ quan tổ chức, cá nhân có quyền
khiếu nại các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, ngời có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong thời hạn mời lăm ngày kể từ ngày nhận hoặc
biết đợc quyết định, hành vi tố tụng mà ngời khiếu nại cho rằng có vi phạm
pháp luật.
- Cụ thể, trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận đợc khiếu nại về
quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, Phó thủ trởng cơ quan điều tra,
thủ trởng cơ quan điều tra phải xem xét giải quyết.
Nếu không đồng y với kết quả giải quyết thì ngời khiếu nại có quyền
khiếu nại đến viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
24
nhận đợc khiếu nại, viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết. Giải
quyết của viện kiểm sát cùng cấp là giải quyết cuối cùng.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trởng cơ quan điều tra
và các quyết định tố tụng của cơ quan đsiều tra đã đợc viện kiểm sát phê
chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn bảy ngày. Kể từ
ngày nhận đợc khiếu nại. Nếu không đồng với kết quả giải quyết thì ngời
khiếu nại có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời
hạn mời lăm ngày, kể từ ngày nhận đợc khiếu nại, viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp phải xem xét, giải quyết. Giải quyết của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
là giải quyết cuối cùng. (Điều 329 bộ luật tố tụng hình sự).
- Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận đợc khiếu nại về quyết
định, hành vi tố tụng của kiểm sát viên, phó viện trởng viện kiểm sát, viện tr-
ởng viện kiểm sát phải xem xét giải quyết.
Nếu không đồng y thì ngời khiếu nại có quyền khiếu nại đến viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét giải
quyết trong thời hạn mời lăm ngày kể từ ngày nhận đợc khiếu nại và đó là
giải quyết cuối cùng.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của viện trởng viện kiểm sát do
viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mời năm ngày, kể từ

ngày nhận đợc khiếu nại và đây là giải quyết cuối cùng. (Điều 330 Bộ luật tố
tụng hình sự).
Với những quy định rất cụ thể nh trên tại một chơng hoàn toàn mới ch-
ơng XXXV - khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là cơ sở pháp ly quan
trọng để bảo đảm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự,
nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó góp phần nâng cao y thức trách nhiệm đối
với các hành vi tố tụng, hoạt động tố tụng của các cơ quan, ngời có thẩm
quyền tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.2.2. Thời hạn trong giai đoạn xét xử
25

×