Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Một số phương pháp tạo hứng thú cho học sinh lập trình pascal ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.86 KB, 10 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN TRÃI
۩
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ KHI
HỌC LẬP TRÌNH PASCAL CHO
HỌC SINH LỚP 11
Người thực hiện : Ngô Quốc Huy
Chức vụ : Giáo Viên
Đơn vị công tác : Trường THPT Nguyễn Trãi.
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU Trang 3
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trang 3
1-Cơ sở lý luận Trang 3
2-Cơ sở thực tiễn Trang 4
II/- MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM: Trang 4
1-Mục đích: Trang 4
2-Phương pháp nghiên cứu: Trang 4
III/-GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI Trang 4
IV/-CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU Trang 4
V/- KẾ HOẠCH THỰC HIỆN Trang 4
B. NỘI DUNG: Trang 5
I/- THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN Trang 5
II/- CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Trang 5
1/- Khả năng truyền đạt Trang 5
2/- Phương pháp dạy học Trang 6
3/- Công cụ thiết kế bài giảng Trang 6
2
4/- Kết quả thu được Trang 6


C. KẾT LUẬN Trang 9
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 9
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC
SINH VÀ HIỆU QUẢ KHI GIẢNG DẠY PASCAL
A. MỞ ĐẦU:

I/- Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:

1-Cơ sở lý luận
Pascal là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh, được Niklaus Wirth phát triển
vào năm 1970 là ngôn ngữ đặc biệt thích hợp cho kiểu lập trình có cấu trúc.Pascal dựa trên ngôn ngữ lập
trình Algol và được đặt tên theo nhà toán học và triết học người Pháp Blaise Pascal. Cho đến nay Pascal
vẫn được dùng để giảng dạy về lập trình trong nhiều trường trung học và đại học trên thế giới, và nhiều thế
hệ sinh viên đã "vào đời" thông qua việc học Pascal như ngôn ngữ vỡ lòng trong các chương trình học đại
cương. Nhiều biến thể của Pascal ngày nay vẫn còn được sử dụng khá phổ biến, cả trong giảng dạy lẫn trong
công nghiệp phát triển phần mềm.Phần lớn hệ điều hành Macintosh được viết bằng Pascal. Hệ sắp chữ TeX
được Donald Knuth viết bằng ngôn ngữ mang nhiều yếu tố của Pascal.Trong chương trình Tin học cấp
trung học phổ thông, ở lớp 11 phần lập trình đơn giản, học sinh được học ngôn ngữ lập trình Pascal để lập
trình giải các bài toán trong chương trình trung học và cũng như nội dung thi học sinh giỏi môn Tin học đều
sử dụng ngôn ngữ lập trình Pascal để giải các bài toán đó.
Hiện nay trong lí luận dạy học nói chung và lí luận dạy học môn Tin học nói riêng yêu cầu sử dụng
khá nhiều phương pháp: phương pháp thảo luận, phương pháp đặt câu hỏi, phương pháp chia nhóm … Các
cách thiết kế bài giảng hiện nay nhằm mục đích áp dụng phương pháp hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh
năng lực ham muốn học hỏi, tư duy sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề, rèn luyện và phát triển năng lực
tự học sáng tạo, nghiên cứu, nghĩ và làm việc một cách tư duy tự chủ… Đồng thời để thích ứng với sự phát
triển tư duy của học sinh trong xã hội mới và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến trong xã hội, trên thế giới.
Bên cạnh đó, trong các kỹ thuật dạy học mới, vai trò của người thầy có sự thay đổi là: “hướng dẫn học sinh
biết tự mình tìm ra hướng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập, biết cách làm việc độc
lập, làm việc tập thể. Thầy là người định hướng, là người cố vấn giúp học sinh tự đánh giá, cũng như giúp
học sinh luôn đi đúng con đường tìm hiểu, lĩnh hội kiến thức…”.

Qua những năm dạy học, tôi nhận thấy khi học Pascal học sinh thường không hứng thú với môn học
này vì nhiều lý do như: khô khan,khó hiểu, đòi hỏi tư duy nhiều,các thuật ngữ bằng tiếng anh và nội dung
liên quan tới toán học cũng là vấn đề khó khăn làm cho môn học pascal trở nên không hứng thú đối với học
sinh… Do đó để học được đòi hỏi học sinh phải có hứng thú,đặc biệt với học sinh giỏi môn Tin học cần có
sự đam mê, yêu thích tìm tòi học hỏi mới có thể gắn bó, theo học lâu dài môn Pascal . Đó cũng chính là lý
do tôi viết :“ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ KHI HỌC LẬP TRÌNH PASCAL
CHO HỌC SINH LỚP 11” .Mong muốn giới thiệu một số kinh nghiệm của bản thân trong việc tạo
3
hứng thú cho học sinh khi học Pascal , một khi đã có hứng thú kết hợp với phương pháp cũng như công cụ
thiết kế bài giảng sinh động chắc chắn học sinh của chúng ta sẽ học môn lập trình này trở nên tốt.
2-Cơ sở thực tiễn
Trong thời đại ngày nay các thành tựu của tin học được áp dụng hầu hết các lĩnh vực hoạt động của
xã hội đã mang lại nhiều hiệu quả to lớn .Mối quan hệ tương tác giữa các nhu cầu trong xã hội ngày càng đa
dạng với những tiến bộ của khoa hoc kỹ thuật đã dẫn đến sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin ,
việc lập được các chương trình tự hoạt động cho máy tính, máy gia dụng là cần thiết. Và để làm được việc đó
cần có một quá trình học tập ,nghiên cứu về ngôn ngữ lập trình lâu dài, qua đó nhà lập trình hơn ai hết đó là
các học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường hôm nay có thể chọn một ngôn ngữ lập trình thích hợp. Tuy
nhiên mọi thứ điều có điểm khởi đầu của nó, với học sinh việc học Pascal là khởi đầu cho việc tiếp cận ngôn
ngữ lập trình bậc cao, qua đó giúp các em hình dung được sự ra đời, cấu tạo, hoạt động cũng như ích lợi của
các chương trình hoạt động trong máy tính, các máy tự động…
Quá đó giúp các em có một niềm đam mê về tin học để từ đó có sự định hướng về nghề nghiệp mà
các em chọn sau này. Đồng thời Pascal là một ngôn ngữ có cấu trúc thể hiện trên 3 yếu tố: Cấu trúc về mặt
dữ liệu, cấu trúc về mặt lệnh, cấu trúc về mặt chương trình.
Vậy thì chúng ta phải làm như thế nào để sau khi kết thúc lớp 11 thì các em có thể nắm và hiểu được
như thế nào là ngôn ngữ lập trình, cụ thể là ngôn ngữ lập trình Pascal mà ta đã nói ở trên,bằng những hứng
thú và đam mê trong học tập.
II/- Mục đích và phương pháp nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm:
1-Mục đích:
- Hệ thống bài tập Pascal tạo sự hứng thú cho học sinh trong quá trình học.
- Do Pascal khó hiểu, khô khan, khó tư duy,… nên các phương pháp giảng dạy môn Pascal phù

hợp là rất cần thiết.
- Quá trình học sinh giỏi học để thi học sinh Giỏi cấp Trường,cấp Huyện,cấp Tỉnh là rất dài, sự
đam mê, yêu thích môn học là rất quan trọng.
2- Phương pháp nghiên cứu:
- Giới thiệu những kinh nghiệm tạo hứng thú cho học sinh khi học Pascal ở trường trung học phổ
thông
- Nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu khảo sát,và thông qua đồng nghiệp
III/-Giới hạn của đề tài
- Chỉ áp dụng đối với học sinh học môn lập trình pascal lớp 11
- Xây dựng thành chuyên đề công nghệ thông tin tạo mối tương quan giữa chương trình tin học
trong các khối lớp về thông tin,dữ liệu,thuật toán,chương trình,phần mềm…
IV/-Các giả thiết nghiên cứu
- Tích lũy nhũng kinh nghiệm từ bản thân cũng như thu thập từ đồng nghiệp qua những tiết dự giờ thăm
lớp
4
V/- Kế hoạch thực hiện
Triển khai áp dụng các tiết lên lớp
B. NỘI DUNG:

I/- THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN

Khi giảng dạy Pascal học sinh thường khó hiểu, tiếp thu chậm nên việc viết được một chương
trình chạy được trên máy tính đối với các em rất khó khăn. Ngôn ngữ lập trình Pascal đòi hỏi sự tư duy của
người học rất cao mà trong chương trình Tin học các em đã phải học, mức độ tư duy của các em còn hạn chế
và không đồng đều trong một lớp học. Giao diện chương trình không thu hút, dễ gây sự nhàm chán cho học
sinh.
Tóm lại, ngoài các nguyên nhân khách quan, quan trọng nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan từ phía
học sinh đó là kiến thức về toán học ngoại ngữ còn khiếm khuyết trong nhiều học sinh khó tạo sự yêu thích,
đam mê từ môn học này mà không đam mê thì rất khó học Pascal một cách tốt nhất, dễ dẫn đến tình trạng
học cho qua ngày, học đối phó. Dưới đây tôi xin trình bày nội dung mà theo tôi có thể giúp tạo sự yêu

thích bộ môn, từ đó học sinh sẽ học hiệu quả hơn môn lập trình Pascal
II/- CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1- KHẢ NĂNG TRUYỀN ĐẠT
Khi truyền đạt, giảng dạy Pascal trên lớp do đặc thù môn học này đòi hỏi mức độ tư duy nhất định ở học
sinh, các em khó tư duy nên giáo viên khi truyền đạt kiến thức mới cũng như tìm thuật toán cần đưa ra các
vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày của các em với các con số phép tính cơ bản giúp các em dễ hình
dung được vấn đề cũng như công việc các em phải giải quyết.
Ví dụ 1:
Khi giảng bài câu lệnh lặp, để học sinh phân biệt được thế nào là lệnh lặp với số lần lặp biết trước,
thế nào là lệnh lặp với số lần lặp không biết trước, giáo viên có thể ví dụ như sau:
Cần đổ đầy một bể chứa 50 lít nước bằng một cái ca có dung tích là 1 lít thì ta phải thực hiện 50 lần
đổ nước vào đó là biết trước số lần lặp.Còn nếu đổ với cái ca không biết dung tích thì không biết sẽ đổ bao
nhiêu lần,chỉ biết cho tới khi nào đầy thì ngưng đó là lặp với số lần không biết trước.Từ đó yêu cầu học sinh
đưa ra những ví dụ trong cuộc sống liên quan với việc lặp đi lặp lại công việc nào đó và các em sẽ phân tích
xem việc nào thi biết trước số lần thực hiện việc nào thì không biết trước số lần thực hiện.

Ví dụ 2:

Khi giảng bài toán tìm số lớn nhất trong một dãy số,chúng ta nên đưa ví dụ cho các em dễ liên tưởng
như: “Em làm thế nào để tìm được bạn cao nhất trong lớp”. Hay, đối với bài tóan sắp xếp dãy số tăng dần, ta
đưa ví dụ gần thực tế như: “Giả sử em đóng vai trò là lớp trưởng, em làm thế nào để có thể xếp hàng từ thấp
đến cao cho các bạn trong lớp”.
5
Ví dụ 3:
Hay, đối với bài toán tìm trong một dãy số có số dương nào không, để học sinh có thể tư duy, ta nêu
như sau: “ Nếu có ai đó hỏi lớp mình có bạn nào cao trên 1m7 không? thì em sẽ làm thế nào để trả lời câu
hỏi đó ”. Từ đó, với bài toán hỏi trong dãy có toàn số dương không, giáo viên có thể đưa ví dụ: “Có phải lớp
mình bạn nào cũng cao trên 1m7 không” Thời gian đầu giáo viên đưa ra các ví dụ gắn liền với thực tế của
các em, để các em tìm cách giải quyết tốt nhất vấn đề đó trong cuộc sống vừa là giúp các em biết giải quyết

xử lý các tình huống có thể gặp trong cuộc sống vừa là để từ đó các em tìm ra được thuật toán giải bài tóan
tốt nhất. Sau này khi đã quen, sau khi đưa đề bài tóan, giáo viên có thể cho các em tự liên tưởng đến các vấn
đề, họat động trong cuộc sống các em.

2- PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Không gì thú vị bằng trong giờ học tự mình ra đề bài sau đó tự mình giải được bài tập đó. Do đó,
ngoài những bài tập do giáo viên đưa ra, nên lồng vào các tiết thực hành, làm bài tập cho tự các em ra đề rồi
giải, một khi các em có thể tự ra đề là các em đã hiểu rất rõ về câu lệnh đã học và cũng đã nắm được hướng
giải quyết bài toán đó nên khi giải sẽ rất nhanh và được giáo viên khích lệ kịp thời sẽ khiến các em rất phấn
chấn, mong muốn ra được nhiều bài tập hơn nữa
Ngoài ra, trong tiết học nên tổ chức cho các nhóm tự ra đề bài tập và yêu cầu các nhóm khác giải,
nhóm này sẽ giải bài của nhóm kia đưa ra. Chắn chắn không khí học lúc đó sẽ rất vui, có không khí ganh đua
trong học tập rất tích cực. Hoặc có những tiết những nhóm chuyên ra đề bài tập, nhóm chuyên giải bài, và sẽ
hóan đổi nhiệm vụ những tiết học sau.
Dưới tư duy và ngôn ngữ của học sinh lúc đó giáo viên chúng ta có thể lưu lại được nhiều bài tập
hay và gần gũi với học sinh để từ đó làm ngân hàng bài tập phục vụ cho việc giảng dạy.

3-CÔNG CỤ THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
Do đạc thù của môn học nên công cụ cũng là một yếu tố mang lại sự hứng thú rất cao với những hình
ảnh minh họa các bài toán gần gủi với cuộc sống từ đó giúp các em có được một cái nhìn tổng quan về một
bài toán cụ thể.Bên cạnh đó sử dụng công cụ thiết kế bài giảng chúng ta tạo ra những trò chời hào hứng bổ
ích trong không khí chơi mà học giúp các em củng cố lại nội dung và kiến thưc đã học một cách thật thoải
mái điều đó chắc chắn mang lại kết quả cho việc tiếp thu và nhớ.
Để cụ thể hóa các biện pháp trên trong một tiết học dưới đây tôi sẽ chọn một trong các
dạng bài tập trong chương trình tin học lớp 11 đó là dạng bài tập về câu lệnh lặp với số lần biết
trước và không biết trước trình chiếu cho các em xem một vi dụ minh họa như sau:
6
Bình này chứa tối đa là 50 lít
1 lt
Hình 1

Ca
- Giáo viên sẽ đặt câu hỏi như sau:
Các em quan sát hình 1 và cho biết phải đổ bao nhiêu lần thì bình sẽ được đổ đầy nước và công việc gì được
làm đi làm lại nhiều lần.
+ Học sinh sẽ trả lời được ngay là số lần thực hiện là 50 lần và công việc được làm đi làm là công việc đổ
nước vào bình.
- Tiếp theo cho các em xem hình thứ 2 như sau:
Giáo viên đặt câu hỏi như sau:
+ Các em có biết được số lần thực hiện công việc đổ nước không ?
+ Đổ khi nào thì dừng việc đổ nước?
- Từ hai câu hỏi trên thì các em sẽ trả lời được là: chưa biết được số lần đổ và thực hiện công việc đổ nước
cho đến khi bình đầy thì dừng việc đổ nước lại.
=> Từ hai hình ảnh ở trên chúng ta có thể giúp cho các em hiểu và biết được như thế nào là lặp và phân biết
được lặp với số lần biết trước và lặp với số lần chưa biết trước.
Khi đó giáo viên sẽ yêu cầu học sinh đưa thêm nhiều ví dụ về công việc hằng ngày của các em mà có
lặp đi lặp lại rồi yêu cầu các em phân tích đó là công việc, hoạt động nào có biết trước số lần lặp còn công
việc,hoạt động nào thì không biết trước số lần”.
Nhóm 1: Ví dụ,“Thầy thể dục yêu cầu các em chạy vòng quanh sân trường”
Nhóm 2: Phân tích,”10 lần đó là số lần lặp biết trước”
7
Bình này chứa tối đa là 50 lít
? lít
Hình 2
Ca
Nhóm 3: Ví dụ,”Thầy yêu cầu các em chạy vòng quanh sân trường đến khi nào mệt thì nghỉ “
Nhóm 4: Phân tích,”Thầy sẽ không biết trước học sinh sẽ chạy bao nhiêu vòng,là lặp không biết
trước chỉ kết thúc khi mệt.”

- Sau khi các em đã biết được như thế nào là lặp và phân biệt được hai dạng lặp.
- Tiếp theo đó đưa 2 bài toán trong sách giáo khoa làm ví dụ như sau:

Với a là số nguyên được nhập từ bàn phím và a > 2, xét các bài toán sau đây:
Bài 1. Tính và đưa kết quả ra màn hình tổng

1 1 1 1

1 2 100
S
a a a a
= + + + +
+ + +
Bài 2. Tính và đưa kết quả ra màn hình tổng

1 1 1 1

1 2
S
a a a a N
= + + + + +
+ + +
Cho đến khi
1
0,0001
a N
<
+
.
Giáo viên đặt vấn đề cho các nhóm giải quyết
Nhóm 1
Câu 1. Bài 1 đã xác định được lần lặp chưa?
Câu 2. Em hãy viết câu lệnh lặp để tính tổng S ở bài 1?

Học sinh trả lời là: đã xác định được lần lặp, cụ thể cộng dồn đến a+100.
Học sinh viết:
S:=1/a;
for i:=1 to 100 do
S:=S+1/(a+i);
Nhóm 2
Câu 3. Bài 2 đã xác định được lần lặp chưa?
Câu 4. Em hãy viết câu lệnh lặp để tính tổng S ở bài 2?
Học sinh trả lời là: chưa xác định được lần lặp, vì với a được nhập từ bàn phím thì: 1/(a+N) < 0.0001 không
xác định được cụ thể N bằng bao nhiêu.
Học sinh viết:
S:=1/a;
N:=1;
While 1/(a+N) < 0.0001 do
Begin
S:=S+1/(a+N);
N:=N+1;
End;
Nhóm 3
Câu 5. Em hãy cho biết sự tương đồng của hai bài toán trên:
Học sinh trả lời:
Xuất phát, S được gán giá trị: 1/a;
Tiếp theo, cộng dồn vào S một giá trị: 1/(a+N), với N tăng từ 1,2,3…
Câu 6. Hai bài toán trên khác nhau ở điểm nào?
Học sinh trả lời:
Bài toán 1 đã biết số lần lặp cụ thể, bài toán 2 chưa xác định được lần lặp cụ thể.
8
Câu 7. Có thể dùng câu lệnh while…do để viết vòng lặp tính tổng S ở bài 1 được không?
Và có thể dùng câu lệnh for…do để viết vòng lặp tính tổng S ở bài 2 được không?
Học sinh trả lơi:

Việc dùng câu lệnh lặp while…do để thực hiện vòng lặp cho câu lệnh for…do là có thể làm được,
nhưng việc dùng câu lệnh for…do để thực hiện vòng lặp cho câu lệnh while…do là không được vì:
+ Câu lệnh for…do sau khi thực hiện câu lệnh sau do thì biến đếm tự động tăng lên 1, trong câu lệnh
while…do ta có thể thực hiện lệnh tăng biến_đếm lên 1 bằng cách thực hiện câu lệnh gán
biến_đếm:=biến_đếm+1.
Nhóm 4
Thực hiện việc chuyển đổi chương trình:
+ Câu lệnh for…do kết thúc khi biến_đếm > Giá_trị_cuối, trong câu lệnh while…do ta có thể đưa
điều kiện biến_đếm>Giá_trị_cuối vào trong điều kiện kiểm tra vòng lặp while…do, cụ thể bài 1 ta có thể
thực hiện như sau:
S:=1/a;
N:=1;
While N <= 100 do
Begin
S:=S+1/(a+N);
N:=N+1;
End;
+ Câu lệnh while…do thực hiện câu lệnh khi điều_kiện còn đúng, nên ta không xác định được đến
vòng lặp thứ bao nhiêu để điều_kiên sai vì thế ta không thể dùng vòng lặp for…do để thực hiện tính tổng S
cho bài 2.
Trong khi nhóm nào đó trình bày các nhóm khác theo giỏi bổ xung nếu sai xót hoàn chỉnh chương
trình dựa trên hai vòng lặp đã có ở trên để giải 2 bài toán trên. Sau đó Giáo viên nhận xét tổng kết lại các
vấn đề.
3. Kết quả thu được.
Trong quá trình trao đổi, thảo luận, trình bày học sinh được thể hiện khả năng vận dụng, hiểu biết của
mình nên các em tỏ ra hăng hái trong việc giơ tay phát biểu tranh luận. Đồng thời tiết học trở nên sinh động
hơn và giáo viên không đóng vai trò là người xây dựng lý luận mà học sinh là người chủ động để giải quyết
các vấn đề. hướng dẫn học sinh biết tự mình tìm ra hướng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình
học tập, biết cách làm việc độc lập, làm việc tập thể. Thầy là người định hướng, là người cố vấn giúp học
sinh tự đánh giá, cũng như giúp học sinh luôn đi đúng con đường tìm hiểu, lĩnh hội kiến thức…”.

C. KẾT LUẬN
Ngôn ngữ lập trình nói chung đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng các chương trình ứng
dụng để phục vụ cho cuộc sống. Nhờ sự phát triển của tin học - trong đó các nhà lập trình chuyên nghiệp
đóng vai trò không nhỏ - mà hiện nay hầu hết các lĩnh vực trong xã hội đã ứng dụng được tin học để giải
quyết công viêc nhanh, hiệu quả và chính xác hơn.
Hiện nay, ngôn ngữ lập trình Pascal đã trở thành ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất trên thế giới sử
dụng trong lĩnh vực giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy ngoài những nội dung chương trình các thầy cô có
thể đưa ra các vấn đề,bài toán phục vụ cho nhu cầu học tập cũng như giải trí của các em như lập trình các
game nhỏ,các chương trình dùng để giài các bài toán trong toán học…để các em có thể chứng tỏ được khả
năng của mình làm cho học sinh yêu thích môn học, ham học hỏi và sáng tạo.
Đề tài này mang tính thực tiễn rất cao cụ thể là: Trong tiết học các em học sinh đã chủ động để tìm tòi lại
kiến thức đã học qua đó giải quyết được vấn đề do giáo viên đặt ra. Trong quá trình giải quyết vấn đề, giáo
viên chỉ ra những sai lầm mà các em học sinh mắc phải từ đó các em hiểu rõ hơn về các câu lệnh trong ngôn
ngữ lập trình.
9
Đề tài của tôi trên đây có thể còn mang màu sắc chủ quan, chưa hoàn thiện do còn hạn chế về trình
độ kiến thức và kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quí báu của các
thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn./.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa tin học 11 Hồ Sĩ Đàm chủ biên
2. Sách giáo viên tin học 11 Hồ Sĩ Đàm chủ biên
3. Lý thuyết và Bài tập lập trình Pascal – Quách Tuấn Ngọc.
4. Một số sáng kiến kinh nghiệm và ý kiến của đồng nghiệp .
10

×