Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nguy cơ do viêm màng ngoài tim co thắt ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.05 KB, 5 trang )

Nguy cơ do viêm màng ngoài tim co thắt

Bệnh viêm màng ngoài tim co thắt là hậu quả của quá trình xơ hoá. Quá trình
viêm mạn tính do nhiều nguyên nhân gây ra làm tổn thương dày và dính màng
ngoài tim.
Khi đã bị viêm màng ngoài tim co thắt, trái tim bị màng ngoài tim cứng chắc bao
bọc, làm hạn chế tim giãn ra trong thì tâm trương, tăng các áp lực trong buồng tim
và làm mất tương đồng giữa áp lực trong các buồng tim và áp lực của lồng ngực.
Do tăng áp lực trong buồng tim và giảm sự giãn của tim thì tâm trương làm hạn
chế sự đổ về của
máu tĩnh mạch chủ và tĩnh mạch phổi, gây ra triệu chứng suy tim
ứ huyết của cả tim bên phải và bên trái. Nguy hiểm nhất là tuy bệnh nhân bị bệnh
nhưng lại không được chẩn đoán ra bệnh vì không được nghĩ đến nên đã dẫn tới
hậu quả nặng nề cho bệnh nhân.
Vì sao lại bị viêm màng ngoài tim co thắt ?
Khoa học đã biết đến một số nguyên nhân gây viêm màng ngoài tim co thắt gồm:
nhiễm khuẩn lao, vi khuẩn, virut, nấm và ký sinh trùng, trong đó lao là nguyên
nhân hàng đầu gây viêm màng ngoài tim co thắt. Chấn thương do phẫu thuật tim
có tràn máu màng tim là yếu tố thuận lợi dẫn đến viêm màng ngoài tim co thắt sau
đó. Do chạy tia xạ: đây là biến chứng muộn của xạ trị dẫn đến viêm màng ngoài
tim co thắt. Viêm nhiễm hoặc rối loạn miễn dịch trong các bệnh thấp tim,
lupus
ban đỏ, sarcoidose.
Do các bệnh ung thư vú, phổi, hạch lympho, u sắc tố, u trung biểu mô. Không rõ
nguyên nhân.
Dấu hiệu nhận dạng bệnh là gì?
Những dấu hiệu sớm của viêm màng ngoài tim co thắt thường không đặc hiệu như
ngất xỉu, mệt và giảm khả năng khi gắng sức. Thời gian sau đó bệnh nhân thường
có các triệu chứng của suy tim trái như khó thở khi gắng sức, khó thở về đêm. Giai
đoạn nặng bệnh nhân sẽ thấy các dấu hiệu giống như suy tim phải: phù ngoại biên,
căng tức bụng và cổ trướng. Khám thấy tĩnh mạch cổ nổi, phản hồi gan tĩnh mạch


cổ dương tính. Nhiều bệnh nhân có dấu hiệu mạch đảo của Kussmaul (hít sâu vào
lại làm giảm độ căng to của tĩnh mạch cổ). Tuy nhiên dấu hiệu này có độ nhạy cao
nhưng độ đặc hiệu thấp vì có thể gặp trong các trường hợp phì đại thất phải và
nhồi máu cơ tim thất phải. Nguyên nhân của các hiện tượng này là do sự giãn
nhanh của tâm thất trong thời kỳ đầu tâm trương. Nghe tim thường thấy tiếng tim
mờ do màng ngoài tim dày. Tiếng đóng van hai lá và ba lá gần như xuất hiện ở
cuối thì tâm trương, gây ra tiếng T
1
rất nhẹ. Có khi nghe thấy tiếng gõ của màng
ngoài tim ngay ở đầu tâm trương. Tiếng này xuất hiện do sự giãn ra đột ngột của
tâm thất sau một giai đoạn bị màng tim cứng hạn chế giãn. Cần phân biệt tiếng này
với các tiếng tâm trương sớm khác như tiếng T
3
, tiếng mở van hai lá. Thường
tiếng gõ màng ngoài tim có âm sắc cao hơn và đến sớm hơn tiếng T
3
và tiếng mở
van hai lá luôn luôn đi kèm với tiếng rung tâm trương.
Nghe phổi thường thấy giảm rì rào phế nang ở hai đáy phổi, do sung huyết phổi
hay tràn dịch nhẹ ở đáy màng phổi hai bên. Trường hợp ứ trệ nhiều, có thể thấy
phù phổi với các ran ẩm xuất hiện. Gan to, trường hợp nặng có thể dẫn đến xơ gan
tim với bụng cổ trướng rõ. Phù hai chi dưới, sau đó có thể dẫn đến phù toàn thân.
Điện tâm đồ thấy có dấu hiệu điện thế thấp lan tỏa, sóng T thường dẹt, có thể thấy
dấu hiệu dày nhĩ trái và cũng hay gặp rung nhĩ phối hợp. Chụp Xquang thấy màng
ngoài tim canxi hoá trên phim chụp nghiêng và hay thấy ở vị trí của thất phải và
rãnh nhĩ thất; tràn dịch màng phổi là dấu hiệu hay gặp; giãn nhĩ phải và nhĩ trái;
hiếm thấy phù phổi. Siêu âm tim là phương pháp hữu hiệu nhất để chẩn đoán và
theo dõi tràn dịch màng ngoài tim. Có thể thấy: thành tự do thất trái dẹt; độ dày
của màng ngoài tim tăng lên và có thể thấy cả dấu hiệu vôi hoá của màng ngoài
tim; van động mạch phổi mở sớm; vận động nghịch của vách liên nhĩ trong thì tâm

thu. Thông tim là phương pháp quan trọng để chẩn đoán phân biệt viêm co thắt
màng ngoài tim và bệnh cơ tim hạn chế.

Tổn thương viêm màng ngoài tim co thắt, trái tim bị màng ngoài tim cứng chắc
bao bọc.
Chữa trị và phòng bệnh
Điều trị nội khoa bệnh nhân ở giai đoạn đầu có thể
điều trị bảo tồn bằng lợi tiểu và
chế độ ăn hạn chế muối. Ngoài ra điều trị nội khoa cũng được chỉ định ở các bệnh
nhân quá nặng không còn chỉ định mổ hay không chấp nhận nguy cơ của cuộc mổ.
Phẫu thuật cắt màng ngoài tim là phẫu thuật được lựa chọn. Trên 90% các trường
hợp có cải thiện triệu chứng đáng kể sau phẫu thuật. Tỷ lệ tử vong trong và ngay
sau mổ từ 5 – 20% nên cần thận trọng cân nhắc. Việc mổ sớm cho các bệnh nhân
là tốt hơn chứ không đợi đến khi thể trạng bệnh nhân đã bị suy sụp do bệnh diễn
biến kéo dài.
Phòng bệnh cần chẩn đoán và điều trị sớm, dứt điểm các bệnh nhiễm khuẩn như
lao, viêm nhiễm do vi khuẩn, virut, nấm và ký sinh trùng, các bệnh thấp tim, lupus
ban đỏ, sarcoidose, ung thư vú, ung thư phổi, u sắc tố…

×