Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

LỊCH SỬ VIỆT NAM SƠ LƯỢC pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 25 trang )

THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
Vào thế kỷ thứ 7đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, 15 bộ lạc
sinh sống tại vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã (miền bắc Việt
Nam ngày nay) thống nhất lập nên nước Văn Lang, nhà nước đầu
tiên của người Việt. Kinh đô đóng tại Phong Châu (Vĩnh Phú ngày
nay). Vua nước Văn Lang, tất cả 18 đời, đều xưng là Hùng
Vương.
Thế kỷ thứ 2 trước CN, sau cuộc kháng chiến chống lại quân Tần
Thủy Hoàng (218-208), nhà nước phong kiến Trung Quốc ở
phương Bắc, Thục Phán lên làm vua nước Văn Lang xưng là An
Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ
Loa (Đông Anh – Hà Nội) làm kinh đô.
Trống Đồng Đông Sơn Thành Cổ Loa
THỜI KỲ BỊ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ
Năm 179 trước CN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà
xâm lược. (Triệu Đà là tướng quân của nhà Tần. Sau khi Tần Thủy
Hoàng chết, ông ta nhân cơ hội chiếm phần đất do mình được giao
cai quản ở phía nam nước Tần lập nên nước Nam Việt. Còn nhà
Tần thì bị nhà Hán thay thế.) Nước Âu Lạc bị đô hộ mở đầu cho
thời kỳ lịch sử đen tối, đau thương, đầy uất hận dài đằng đẵng hơn
1000 năm của dân tộc Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập thành các
quận, huyện của các nhà nước phong kiến phương Bắc (qua các
triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy,
Đường của Trung Quốc). Trong thời gian này, tuy bị cai trị, bóc lột
tàn nhẫn, hà khắc nhưng nhân dân ta vẫn không những chẳng khi
nào chịu khuất phục mà còn liên tục vùng lên đấu tranh nhằm
giành lại độc lập tự chủ, chống bị Hán hóa.
Sau CN, năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Cuộc khởi
nghĩa giành thắng lợi. Nhưng chỉ 3 năm sau. Đất nước lại bị rơi
vào tay nhà Hán.
Nhiều cuộc khởi nghĩa lại dậy lên sau đó.


Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô thất bại.
Diễu hành kỉ niệm Hai Bà
Trưng
Bà Triệu trong tranh
Đông Hồ
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập từ
tay nhà Lương, xưng là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân với
mong muốn đất nước mãi mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang xâm lược nước Vạn Xuân,
Lý Nam Đế thua trận tục phải rút về động Khuất Lão. Tại đây ông
bị bệnh mất. Triệu Quang Phục lên thay. Triệu Quang Phục lui
quân về đầm Dạ Trạch thực hiện chiến tranh du kích. Cuối cùng
năm 550, Triệu Quang Phục mới giành được thắng lợi, khôi phục
nước Vạn Xuân, tự xưng là Triệu Việt Vương. Đến năm 571, Triệu
Quang Phục bị Lý Phật Tử cướp ngôi.
Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống được cuộc xâm lược của
giặc, nước ta lại rơi vào tay nhà Tùy, rồi nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa. Thất bại.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền. Nhà
Đường công nhận chính quyền tự chủ của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Nam Hán là một
nước do Luu Ẩn, tướng của nhà Hậu Lương cát cứ vùng đất Hoa
Nam mà mình được nhà Lương giao cho cai quản thành lập (nhà
Lương cướp ngôi nhà Đường vào năm 907). Người đứng đầu nước
ta lúc đó là Khúc Thừa Mỹ không chống lại được, bị bắt sang Nam
Hán. Các tướng lĩnh của họ Khúc tổ chức nhiều cuộc kháng chiến.
Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương Đình Nghệ lãnh đạo thành
công. Ông được tôn làm Tiết Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền
lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ khởi binh trừng

phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên vua Nam
Hán vui vẻ nhận lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang nước ta
theo đường thủy định phối hợp với Kiều Công Tiễn đánh bại Ngô
Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền đã diệt
được Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam
Hán lọt vào trận địa mai phục của Ngô Quyền ở cửa sông Bạch
Đằng thì bị đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận, quân Nam
Hán tháo chạy về nước. Vua Nam Hán bỏ mộng xâm lược.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở
ra thời kỳ độc lập tự chủ hòan toàn cho nước ta sau hơn 1000 năm
bị đô hộ bởi phong kiến phương bắc.
Lăng Ngô
Quyền
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng, khói lang không.
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
( Đền thờ Mai Thúc Loan - núi Vệ
Sơn, Nam Đàn )
Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình đất nước rơi vào cảnh hỗn
loạn, tranh dành quyền lực giữa các phe phái tướng lĩnh và con của
Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều Ngô là Ngô Xương Văn chết,
các tướng lĩnh địa phương thi nhau cát cứ. Đất nước bị chia cắt
thành 12 sứ quân.

THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân. Do ông
đánh đâu thắng đấy nên đuợc dân chúng tôn là Vạn Thắng Vương.
Năm 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng là Đinh
Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh
Liễn. Triều thần bắt giết Đỗ Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi, lên làm
vua. Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ chính được
giao cho Lê Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy tình hình nước ta rối
ren, vua còn nhỏ tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội trời cho để thôn
tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua quân xâm lược. Được tin, Thái
Hậu Dương Vân Nga cùng triều thần nhất trí nhường ngôi báu cho
Lê Hòan để ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.
Vua Đinh Tiên Hoàng Thái Bình Thông Bảo
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê Đại
Hành). Ông gấp rút tổ chức lại bộ máy hành chính, chỉnh đốn quân
đội chuẩn bị nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai đường
thủy, bộ. Nhờ chuẩn bị tốt, và tài mưu lược. Lê Hoàn đánh bại
quân Tống, giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành ngôi
báu. Lê Long Đĩnh thắng lên làm vua (Lê Ngọa Triều). Ông vua
này rất thích bạo lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc lòng dân
chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều người,
Lý Công Uẩn tự xưng vua (Lý Thái Tổ) lập ra triều đại nhà Lý kéo
dài 216 năm với 9 đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh
Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông,
Lý Huệ Tông và Lý Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi tên

thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống bên
Trung Quốc cho là cơ hội tốt chuẩn bị lương thảo có ý xâm lược
nước ta. Vì vua còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý Thường
Kiệt nắm trọn binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương “đánh phủ đầu” quân Tống
để tự vệ trước bèn tập trung 10 vạn quân thủy bộ chia làm hai
đường đánh sang đất Tống với mục đích phá hủy các kho dữ trữ
lương thảo hậu cần nằm ở Ung Châu và Khâm Châu, Liêm Châu
mà nhà Tống đang chuẩn bị để phục vụ cho cuộc xâm lược nước
ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ đánh Ung Châu. Bị bất
ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa tháng sau chính quyền
Tống ở trung ương mới biết được tin. Vua Tống lập tức chuẩn bị
đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được
mục đích và rút về nước cũng là đề phòng bị đánh úp. Khi đó, đại
binh quân Tống còn chưa kịp lên đường.
Lý Thái Tổ
NAM QUỐC SƠN HÀ
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm
phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư.
Lý Thường Kiệt
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực lượng, nhà Tống đem 30
vạn quân chia hai đường thủy, bộ bắt đầu xâm lược nước ta và
cũng là để trả thù cho sự kiện ở trên. Lý Thường Kiệt chọn địa

điểm quyết chiến tại sông Như Nguyệt, xây dựng phòng tuyến
phòng thủ tại bờ nam chờ giặc.
Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến phòng tuyến Như Nguyệt và
bị chặn đứng ở đó. Thế trận giằng co kéo dài, binh Tống ngày một
hao tổn do thiếu lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du kích. Cuối
cùng quân Tống phải chấp nhận giảng hòa rút quân về. Triều Lý
bắt tay xây dựng đất nước và bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu do các vua đều lên ngôi khi
còn nhỏ tuổi, bị chết yếu,… quyền hành rơi vào tay ngọai tộc vốn
lắm kẻ gian tham, bất tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý, các quý
tộc quan lại họ Trần nổi lên là một thế lực lớn có công giúp nhà Lý
bình định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu
Hoàng, 7 tuổi. Quyền bính nằm cả trong tay quan điện tiền Trần
Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường
ngôi cho chồng mình là Trần Cảnh (Trần Thái Tông), cháu của
Trần Thủ Độ, khi ấy cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn trong tay
Trần Thủ Độ với địa vị Thái Sư. Trần Thủ Độ tìm mọi cách để
“nhổ sạch rễ” họ nhà Lý, củng cố địa vị cho họ Trần. Nhà Lý kết
thúc ở đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên một cuộc khủng hoảng
chính trị, gây nhiều bất bình trong dân chúng. Thậm chí còn gây
nên mâu thuẫn lớn giữa một số người trong họ Trần. Tuy nhiên,
thế lực của Trần Thủ Độ quá lớn nên mọi việc cuối cùng cũng êm
xuôi. Triều đại nhà Trần dần phát triển và kéo dài 175 năm qua 12
đời vua (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,
Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông,
Dương Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế,
Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế). Triều Trần hưng thịnh nhất sau

khi 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược nước Đại Việt của nhà Trần.
Khi ấy Mông Cổ là một đại đế quốc lớn nhất thế giới trong lịch sử
có lãnh thổ bao gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái Bình
Dương cho tới Trung Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành trướng.
“Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu, nơi ấy cỏ cây không mọc được”.
Lần xâm lược Đại Việt này nằm trong kế họach bành trướng xuống
phía Nam của Đại hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha (Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy chia làm nhiều
cánh tràn vào Đại Việt tới Bạch Hạc (Vĩnh Phú ngày nay) thì hợp
lại cùng tiến về Thăng Long. Vua Trần Thái Tông và các tướng
lĩnh lần đầu ra quân gặp cường địch, non kinh nghiệm đối phó với
kỵ binh Mông Cổ nên liên tiếp thua trận phải thi hành kế sách bỏ
Thăng Long vườn không nhà trống rút về phía Nam bảo tòan lực
lượng chờ thời cơ, đồng thời để một số quân ở lại kết hợp với dân
chúng quanh vùng đánh du kích. Quân Mông Cổ vào đến Thăng
Long không cuớp bóc được nhiều của cải lương thực để nuôi quân
lại không quen khí hậu nên sinh bệnh, mệt mỏi, rối loạn đội ngũ,
nhụt nhuệ khí chiến đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức tập
kích doanh trại quân giặc. Quân Mông Cổ hốt hoảng không kịp
phản ứng giày xéo nhau mà chạy, bị giết rất nhiều. Đại quân Trần
truy sát lại thêm phục binh quân Trần đổ ra chặn đánh khắp nơi,
quân Mông Cổ chạy về Vân Nam (Trung Quốc) mà không có thời
gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng Đại
Việt sạch bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng Long vỏn vẹn
được 9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Nhà Nguyên
bên Trung quốc là do Hốt Tất Liệt, em trai của đại hãn Mông Cổ
Mông Kha, diệt nước Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng nên. Vì
vậy ta hay gọi quân Nguyên là Nguyên Mông hay Mông Nguyên.

50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến chiếm Đại Việt. Đích
thân con trai Hốt Tất Liệt, thái tử Thoát Hoan, chỉ huy hai đạo
quân bộ từ hai hướng đông bắc, tây bắc Đại Việt đánh xuống, đạo
quân thủy do Toa Đô từ nước Chiêm Thành (sau khi lập nhà
Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai Toa Đô đánh Chiêm Thành trước),
phía nam Đại Việt đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào giữa. Vua
Trần lúc này là Trần Nhân Tông cử Trần Quang Khải làm Thượng
Tướng Thái Sư, Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống
lĩnh ba quân chống giặc.
Tượng Hưng Đạo
Vương Trần Quốc
Tuấn
tại Vũng Tàu
Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh quân bộ phía đông của
Thoát Hoan trước. Trần Nhật Duật thì chặn cánh quân phía Tây do
Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy. Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần
vừa đánh vừa rút lui chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế chiếm Nội
Bàng, Vạn Kiếp… Khi quân Nguyên tới Thăng Long thì vua Trần
đã rút về Thiên Trường (Nam Định) bỏ lại kinh thành trống không
như lần kháng Mông Cổ lần trước. Về Thiên Trường, Trần Quốc
Tuấn cử Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải trấn giữ Hoan Châu
(Nghệ An) chặn đường tiến quân Toa Đô. Khi Thoát Hoan chiếm
Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo quân ra lấy lại Vạn Kiếp
đánh sau lưng Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho người về
nước xin thêm binh cứu viện. Lúc đó, ở phía Nam, Trần Nhật Duật
rồi Trần Quang Khải không ngăn được Toa Đô. Khi Toa Đô tiến
vào đến Ái Châu (Thanh Hóa), Vua Trần công kích Thóat Hoan ở
Thăng Long nhưng không được lại lui về Thiên Trường. Thoát
Hoan đuổi theo. Trần Quốc Tuấn phải đem quân từ Vạn Kiếp về
Thiên Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải Dương. Thoát

Hoan đuổi theo sát gót. Đồng thời Toa Đô cũng kéo quân thủy theo
đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần Quốc Tuấn sử dụng kế
nghi binh dụ quân Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển còn
mình đưa vua Trần thoát vào Ái Châu theo đường bộ, thóat hiểm
trong tíc tắc…
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt lội làm cho quân
Nguyên vốn chỉ quen khí hậu lạnh ở phương bắc bị bệnh dịch rất
nhiều, lương thực lại cạn kiệt nên giảm sức chiến đấu. Trần Quốc
Tuấn chỉ chờ cơ hội như vậy để phản công. Ông cử Trần Quang
Khải, Trần Nhật Duật , Trần Quốc Tỏan, Nguyễn Khoái,… chặn
đánh quân thủy của Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương
Dương… Đích thân Trần Quốc Tuấn thì đánh lên Vạn Kiếp. Quả
nhiên quân Nguyên thất thế. Toa Đô rút về Thiên Trường. Quân ở
Vạn Kiếp chạy cả về Thăng Long. Liên lạc giữa hai cánh thủy bộ
của quân Nguyên bị quân Trần cắt đứt. Quân Trần tập trung đánh
Thăng Long. Thoát Hoan thua to, bỏ thành rút chạy về Bắc Ninh.
Khi Toa Đô kéo lên Thăng Long định hội quân với Thoát Hoan thì
Thóat Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở Tây Kết. Đến đây,
Toa Đô bị đại quân của vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị đánh
tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô Mã Nhi, Lưu Khuê dắt tàn quân
chạy vào Ái Châu. Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã
Nhi, Lưu Khuê phải bỏ thuyền tướng lấy thuyền nhỏ tháo chạy ra
biển về nước, quân Trần bắt sống được vài vạn tàn quân. Phía
Thóat Hoan, sau khi về Bắc Ninh lại bị quân Trần đón đánh thì
chạy sang Vạn Kiếp nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn cũng đã bố trí
sẵn quân mai phục. Giữa lúc quân Nguyên đang vượt
sông Thương, quân Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số kể.
Thoát Hoan cùng bộ tướng Lý Hằng gom tàn quân chạy về
nước. Tới biên giới thuộc Lạng Sơn, quân Trần phục sẵn trên núi
bắn tên xuống như mưa, Lý Hằng trúng tên độc chết liền. Thoát

Hoan được hộ tướng giấu vào một vật dụng bằng đồng bỏ lên xe
cho lính kéo chạy nhờ vậy sống sót, chạy thoát về nước. Đại Việt
sạch bóng quân Nguyên.
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát Hoan
chỉ huy thẳng tiến Đại Việt để báo thù. Lần này quân Nguyên cũng
chia làm 3 đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai Lỗ vào
theo hướng dọc sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi
theo đường biển vào sông Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn thuyền
lương thực do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã Nhi. Các cánh
quân Nguyện hẹn hội quân tại Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước. Quân
Nguyên lúc này còn hăng hái nên tiến được vào đến Vạn Kiếp tuy
bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù nên tung tăng
đi trước bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ khá xa.
Khi Ô Mã Nhị họp quân với Thóat Hoan ở Vạn Kiếp thì đòan
thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị Trần Khánh Dư đánh
chìm toàn bộ ở Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong đất liền
không hề hay biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng
Long. Trần Quốc Tuấn lại để thành Thăng Long vườn không nhà
trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không bắt được vua Trần liền
sai Ô Mã Nhi gấp rút đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực
tức bằng cách cho quân cuớp bóc dân chúng, đốt phá nhà cửa, chùa
chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc
Giang, Vạn Kíếp sai Ô Mã Nhi ra biển tìm đoàn thuyền lương của
Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải Phòng)
thì bị đánh tơi bời. Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã
Nhi quay về Vạn Kiếp. Vua Trần cho người mang theo tù binh bắt
được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan thông báo đoàn

thuyền lương Trương Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân
Nguyên lo sợ vì lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công
ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với các tướng rút quân
về nước. Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý. Thoát Hoan rút theo
đường bộ theo ngả Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng.
Nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho quân mai phục tất cả mọi nẻo
đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn Tiếp lọt vào
trận địa bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống, máu quân
Nguyên nhuộm đỏ nước sông. Trên bộ, Thoát Hoan cũng bị chặn
đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên
giới Lạng Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu
Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc
ngoại xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có được
một thời gian dài ổn định và phát triển hưng thịnh. Nhưng từ đời
vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu hiện
suy thoái. Vua quan bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã
có lúc rơi vào tay ngọai tộc, giặc giã nỗi lên như nấm, các nước lân
cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời vua Trần Nghệ
Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi lên là một nhà chính trị có tài và được
trọng dụng. Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của nhà Trần, Hồ
Quý Ly đọat được ngôi báu.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thánh
Nguyên, đổi tên nước Đại Việt thành Đại Ngu, và tiến hành nhiều
cuộc cải cách lớn, trong đó có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy
“thông bảo hội sao”. Tuy nhiên không phải cuộc cải cách nào cũng
được lòng dân chúng.
Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung Quốc lúc này là nhà
Minh cử các tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ,… đem quân xâm
lược nước Đại Ngu. Quân quan nhà Hồ chống cự quyết liệt nhưng

vì Đại Ngu lúc đó chưa ổn định, nhà Hồ chưa được dân chúng ủng
hộ,… nên cuối cùng quân Minh đập tan sức kháng cự của quân Hồ.
Hồ Quý Ly cùng con trai và nhiều tướng bị bắt giải sang Trung
Quốc. Nhà Minh nhập Đại Ngu thành quận Giao Chỉ của họ. Lúc
đó nhân dân Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở nhiều nơi.
Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng là quý tộc tôn thất nhà
Trần, tiến hành khởi nghĩa chống quân Minh. Ban đầu cũng giành
được một số thắng lợi đáng kể nhưng sau đó trong nội bộ mất đoàn
kết nên nghĩa quân suy yếu và bị dập tắt vào năm 1412.
Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào kiệt khắp nơi trong
nước, trong đó có Nguyễn Trãi, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại núi
Lam (thuộc Thanh Hóa ngày nay). Ban đầu lực lượng nghĩa quân
còn yếu, chừng vài nghìn người, nhưng cũng dùng mưu thắng
được nhiều trận lớn gây thanh thế như ở Lạc Thủy, Mường Một…
Quân Minh tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của nhiều kẻ bán
nước, chỉ điểm nên có lúc chúng đẩy nghĩa quân lâm vào tình trạng
hiểm nghèo. Ba lần nghĩa quân phải trốn lên núi Chí Linh, chịu
cảnh đói khát, thiếu thốn trăm bề. Ở lần thứ hai rút lên núi Chí
Linh, năm 1419, nhờ 500 quân cảm tử do Lê Lai dẫn đầu đánh
xông ra, mạo danh Lê Lợi để cho giặc bắt giết nên nghĩa quân mới
được bảo tòan xuống núi. Nghĩa quân Lê Lợi chiến đấu như vậy
ròng rã mấy năm trời cho đến năm 1424 thì mới tạo nên chuyển
biến có lợi cho mình.
Tượng Lê Lợi tại Thanh Hóa
Nguyễn Trãi
Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại phần lớn đất
nước, dồn quân Minh vào cố thủ trong 4 thành Đông Quan (Thăng
Long), Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Tướng quân Minh lúc đó là
Vương Thông phải cho người về nước xin viện Binh. Tuy nhiên,
cả hai cánh quân cứu viện, với số quân 15 vạn, do Liễu Thăng và

Mộc Thạnh chỉ huy đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay tại cửa ải.
Liễu Thăng bị chém đầu tại trận ở ải Chi Lăng. Mộc Thạnh hay tin
thì đang đêm mang quân chạy về nước nhưng cũng bị phục đánh
tơi bời. Quân Lê Lợi giết được hàng nghìn lính, thu nhiều ngựa và
vàng bạc, khí giới. Ngày 10/12/1427, túng quẫn vì bị vây mà
không có viện binh, quân Minh đang cố thủ trong các thành đều ra
hàng. Lê Lợi tha cho 10 vạn giặc Minh và còn cấp đủ lương thực
cho chúng, sửa cầu đường cho chúng rút về nước. Cả bọn đều bái
lạy.
Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở thành Đông
Kinh (Thăng Long) khôi phục tên nước Đại Việt mở đầu triều đại
nhà Lê. (Gọi là nhà hậu Lê để phân biệt với nhà tiền Lê của Lê Đại
Hành trước kia).
Nhà hậu Lê phát triển ổn định và đại nhiều thành tựu lớn trong xây
dựng đất nước qua năm đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái
Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Đến đời vua
Lê Uy Mục thì bắt đầu xuống dốc.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi vua
cho mình. Trước đó, ông ta cậy có nhiều công nên lạm quyền, kết
bè cánh và đã phế truất ngôi của Lê Chiêu Tông giao cho Lê Cung
Hoàng. Nhà Mạc thành hình. Ở trong nước là thế nhưng khi lên
ngôi, Mạc Đăng Dung lại hèn kém trong ngọai giao với nhà Minh,
nhún nhường nhận chức An Nam đô thống sứ do vua Minh “trao
tặng” khiến nhân dân và nhiều quan lại phẫn nộ.
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống lại nhà Mạc.
Năm 1532, Nguyễn Kim tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua
(Lê Trang Tông), đóng ở Thanh Hóa, nhiều quan lại của cũ của
nhà Lê cũng theo về phò tá tạo nên một triều đình mới đối lập với
nhà Mạc ở phía bắc. Đại Việt lúc đó vì thế có hai triều đình ở hai
miền nam, bắc.

Sau khi Nguyễn Kim chết (1546), vua Lê phong con rể Nguyễn
Kim là Trịnh Kiểm lên thay. Trịnh Kiểm tiến hành lọai trừ phe
cánh của Nguyễn Kim để tập trung quyền lực vào tay mình. Các
con của Nguyễn Kim, Nguyễn Uông bị bắt giết, Nguyễn Hoàng lo
sợ nên tìm cách lánh bằng cách xin trấn giữ ở vùng Thuận Hóa.
Trịnh Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn vào vùng đó ngấm ngầm
có ý lập nên “vương quốc” riêng của mình chống lại họ Trịnh
nhưng bên ngoài vẫn tỏ về thuần phục, giúp họ trịnh chống họ
Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng thay.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà Mạc ở Thăng
Long, thống nhất đất nước, nhà Lê khôi phục, vua Lê bấy giờ là Lê
Thế Tông. Tuy nhiên vua Lê chỉ là cái bóng. Họ Trịnh lập ra
vương phủ riêng tồn tại bên cạnh triều đình vua Lê. Quyền lực nằm
cả trong tay họ Trịnh.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng ở phía Nam chết. Con là Nguyễn Phúc
Nguyên vâng lời cha “dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng
cự lại họ Trịnh” để “xây dựng cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế, họ
Trịnh đem quân vào đánh. Cuộc chiến giữa hai họ bắt đầu từ đó.
Đại Việt bị chia cắt thành hai “đàng” lấy sông Gianh làm ranh giới.
Đàng Ngoài tính từ bờ bắc sông Gianh trở ra bắc, Đàng Trong từ
bờ nam sông Gianh trở vào nam. Ranh giới này tồn tại suốt gần
300 năm cho đến khi Nguyễn Huệ thống nhất vào năm 1786.
Năm 1771, ở Đàng Trong, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ lãnh đạo nông dân khởi nghĩa ở Tây Sơn. Lúc này ở cả
hai Đàng chính quyền phong kiến đều đã rất bê tha, suy tàn. Trải
qua mấy trăm năm chia cắt, chiến tranh triền miên giữa hai Đàng
đã làm cho đất nước điêu tàn, kiệt quệ, nông dân vô cùng đói khổ.
Vì thế vô vàn nông dân đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

Với khẩu hiệu “ Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”, quân
Tây Sơn tiến đến đâu thì dân nghèo ở đấy đều tham gia. Thanh thế
của nghĩa quân Tây Sơn lớn lên nhanh chóng. Hầu như đánh đâu
thắng đấy. Chẳng mấy chốc chiếm toàn bộ Quy Nhơn, Quảng
Ngãi.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đóng ở thành
Đồ Bàn (Bình Định), sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh thành Gia
Định. Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ sau khi đánh lấy được thành, giết
chết chúa Nguyễn Phúc Thuần, cắt người trấn thủ xong thì rút về
Quy Nhơn. Nguyễn Ánh là cháu của Nguyễn Phúc Khoát (chúa
Đàng Trong ngày xưa, trước Nguyễn Phúc Thuần) đem quân
chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái
Đức.
Triều đường chi ấn của nhà Tây Sơn
Năm 1783, quân Tây Sơn đánh chiếm lại thành Gia Định, Nguyễn
Ánh thua chạy trốn sang Xiêm (Thái Lan) cầu cứu.
Năm 1784, quân Xiêm cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn
thủy quân, 300 chiến thuyền và Chiêu Thùy Biên đem 3 vạn quân
bộ cùng Nguyễn Ánh tấn công Gia Định. Đến cuối năm đó thì
chiếm được nửa đất Gia Định, Tây Sơn chỉ còn giữ hai thành Gia
Định, Mỹ Tho.
Đầu năm 1785, Nguyễn Ánh và quân Xiêm từ Sa Đéc tiến đánh
Mỹ Tho. Nguyễn Huệ cho quân mai phục, chặn đánh trên sông Mỹ
Tho, đoạn ở Rạch Gầm- Xoài Mút. Quân Xiêm đại bại, chỉ còn vài
ngàn bộ binh rút chạy về nước. Tây Sơn truy bắt Nguyễn Ánh
nhưng không được. Nguyễn Huệ củng cố ba quân, cử tướng trấn
giữ Gia Định rồi rút ra Tây Sơn cùng với Vũ Văn Nhậm và
Nguyễn Hữu Chỉnh (một tướng Đàng Ngoài không phục Trịnh
Khải, bỏ nhà Trịnh theo Tây Sơn) chiếm luôn thành Phú Xuân

đang do Đàng Ngoài nắm giữ. Rồi nhân đà thắng lợi giành lại hết
các vùng đất của Đàng Trong. Xong, lấy danh nghĩa giúp vua Lê
diệt chúa Trịnh, tiến đánh luôn quân Trịnh ở Đàng Ngoài.
Quang Trung – Nguyễn
Huệ
Tượng đài kỉ niệm chiến
thắng
Rạch Gầm – Xoài Mút
Năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, lật đổ chúa
Trịnh, trao lại quyền hành cho vua Lê Hiển Tông. Vua Lê thưởng
công cho Nguyễn Huệ bằng cách phong Nguyễn Huệ là Uy Quốc
Công, nhường đất Nghệ An cho Tây Sơn. Được vài hôm, Lê Hiển
Tông vì bịnh nặng từ trước, qua đời. Vua kế vị là Lê Chiêu Thống.
Sau đó, Nguyễn Huệ rút quân về phương Nam để Nguyễn Hữu
Chỉnh ở lại đất bắc. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ chia nhau cai quản từ Nghệ An trở vào. Nguyễn Huệ
sau khi chinh phục miền bắc được Nguyễn Nhạc phong làm Bắc
Bình Vương, làm chủ từ Nghệ An đến Phú Xuân. Nguyễn Lữ giữ
vùng đất phía nam, Gia Định. Nguyễn Nhạc giữ vùng Quãng Ngãi
đến Bình Thuận.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đi, miền bắc trở nên rối loạn. Các thế lực
của họ Trịnh ra sức khôi phục lại cơ đồ. Lê Chiêu Thống phải dựa
vào sức cửa Nguyễn Hữu Chỉnh để chống đỡ. Chỉnh dẹp yên được
họ Trịnh, cậy mình có công lớn nên sinh ra lộng quyền, chống lại
Tây Sơn, đòi lại đất Nghệ An.
Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm ra bắc
đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh cùng vua Lê bỏ chạy lên phía bắc.
Dọc đường Chỉnh bị bắt giết, Lê Chiêu Thống thoát sang đất nhà
Thanh cầu cứu. Diệt được Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lại lộng quyền.
Nguyễn Huệ đích thân ra bắc giết chết Nhậm, đưa Ngô Văn Sở lên

thay, tuyển dụng người giỏi, hiền tài để trao quyền hành. Nhà Lê
mất từ đây.
Năm 1788, vua Thanh là Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi
Đống… đem 20 vạn quân cùng Lê Chiêu Thống tiến vào nước ta
để “tiêu diệt Tây Sơn, dựng lại nhà Lê”. Ngô Văn Sở bỏ trống
Thăng Long rút về xây phòng tuyến ở Tam Điệp một mặt báo tin
cho Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long quá dễ cho là Tây
Sơn sợ mất mật nên trốn cả nên hống hách, coi thường Tây Sơn,
cho quân cướp phá hết sức tàn bạo. Lê Chiêu Thống cũng thực
hiện việc trả thù, báo oán cũng không kém phần tàn ác, ti tiện.
Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo, ngày 22/12/1788, lập đàn tế
cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi
hành quân thần tốc ra bắc. Qua vùng Nghệ An, Thanh Hóa đều
tuyển thêm quân lính. Khi đến phòng tuyến Tam Điệp ngày
15/01/1779 đã có được đại quân hơn 10 vạn người.
Rạng sáng mùng 5 tết Kỷ Dậu, 30/01/1789, sau khi chuẩn bị kỹ
càng, vua Quang Trung cho quân tấn cống thành Ngọc Hồi, cùng
lúc đó cánh quân khác đánh vào đồn Khương Thượng ở Đống Đa,
sát thành Thăng Long. Ở Ngọc Hồi, trước sức tấn công mãnh liệt,
mưu trí của quân Tây Sơn, mặc dù chống trả kịch liệt nhưng quân
Thanh cũng nhanh chóng để mất thành, chạy tán loạn, nhưng đều
bị mai phục chết nhiều vô kể. Ở Đống Đa, quân Tây Sơn do Đô
đốc Đông chỉ huy cũng giành thắng lợi lớn. Thây giặc Thanh chất
cao như núi. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử kéo
theo nhiều bộ hạ thân tín tự sát theo, tàn quân chạy hết về Thăng
Long. Quân Tây Sơn đuổi theo truy sát vào tận Thăng Long. Tôn
Sĩ Nghị lúc đó còn đang mơ màng trong giấc mộng, giật mình tỉnh
giấc thì thấy quanh mình lửa cháy khắp nơi, sáng rực trời. Không
kịp đóng yên cương, nhảy lên ngựa chạy trốn. Quân lính tranh
nhau cướp đường chạy theo tướng về hướng bắc. Chen lấn xô đẩy

qua cầu phao sông Hồng. Cầu chịu không nổi, đứt. Hàng vạn lính
bị cuốn trôi theo nước dòng sông. Số chạy thoát đều bị mai phục,
chặn đánh tơi bời.
Trưa mùng 5, vua Quang Trung tiến vào Thăng Long giữa tiếng hò
reo của ba quân và dân chúng. Chỉ trong vòng một tuần, Vua đã từ
Phú Xuân hành quân thần tốc đánh tan 20 vạn quân Thanh hùng
hậu. Vua tiến hành khôi phục đât nước với nhiều cải cách triệt để
giúp đất nước phát triển nhanh chóng. Đến năm 1792, vua Quang
Trung mất, con là Quang Toản lên thay.
Năm 1793, Nguyễn Ánh từ Gia Định đem quân đánh tới tận thành
Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc. (Nguyễn Ánh sau khi thất bại cùng
với quân Xiêm, sống lưu vong nhiều năm, tới 1797 đã quay về
chiêu mộ được nhiều binh lính, có cả người một số người Pháp do
linh mục Bá Đa Lộc đưa tới, giúp sức, tái chiếm được thành Gia
Định từ 1788 khi Quang Trung đang chuẩn bị đánh quân Thanh,
Nguyễn Lữ chạy về Quy Nhơn). Nguyễn Nhạc bị vây khốn phải
cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai tướng đem quân giải vây
xong thì có ý muốn chiếm luôn. Nguyễn Nhạc vì thế uất ức mà
chết. Nguyễn Ánh rút nhưng từ đó thường đem quân đánh phá. Hai
bên giành nhau thành Quy Nhơn mấy lần.
Sau khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc chết, nhà Tây Sơn do Quang
Toản lãnh đạo. Nhưng vua còn non nớt nên bị Thái sư Bùi Đắc
Tuyên lộng quyền gây nên nhiều mẫu thuẫn nội bộ. Các tướng tự
đánh giết lẫn nhau. Triều đình suy yếu. Trong khi đó Nguyễn Ánh
đựơc sự giúp sức của người Pháp ngày một mạnh lên.
Năm 1801, lợi dụng hai tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng
của Tây Sơn đang đánh để giành lại thành Quy Nhơn, Nguyễn
Ánh đánh úp Phú Xuân, lấy được thành, vua Quang Toản chạy ra
bắc. Hai tướng Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng sau khi chiếm
đựơc Quy Nhơn, hay tin ấy quyết định bỏ thành, mượn đường Ai

Lao tính ra bắc hội quân với Quang Toản. Dọc đường thì bị quân
Nguyễn Ánh truy sát, bắt giết. Vua Quang Toản và các tướng còn
lại cũng không chống được. Cuối cùng đều bị bắt giết. Nguyễn
Ánh trả thù nhà Tây Sơn rất dã man. Nhà Nguyễn Tây Sơn hoàn
toàn bị diệt.
Gia Long – Nguyễn Ánh Quốc tỷ nhà Nguyễn
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long,
đặt tên nước là Việt Nam, mở ra triều đại nhà Nguyễn kéo dài cho
tới năm 1945 qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức, … . Tuy nhiên từ 1858 đến 1945, Việt Nam bị thực dân
Pháp Xâm lược. Thực dân Pháp ra sức bóc lột tài nguyên, nhân,
vật lực của Việt Nam, dìm các cuộc khởi nghĩa của nông dân, một
số danh sĩ yêu nước trong biển máu. Các vị vua cuối triều Nguyễn
không có quyền quyết định các quốc sách. Họ chỉ là những vị vua
bù nhìn, chỉ biết lo cho thân phận mình được yên ổn. Họ đã bất lực
đầu hàng Pháp, không giúp gì được cho đất nước lại còn bóc lột
dân chúng bằng lắm thứ tô thuế,… nặng nề để phục vụ cho cuộc
sống xa hoa của họ.
Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ được
chính quyền của Pháp, Nhật, lật đổ chế độ quân chủ phong kiến
của nhà Nguyễn để lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
một thể chế nhà nước mới mà tất cả nhân dân lao động được làm
chủ đất nước, bình đẳng với nhau, không có ai bóc lột ai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quốc kỳ CHXHCN Việt Nam
( 2 – 3 -1946 )
NƯỚC VIỆT NAM THỜI KỲ 1945 – 1975
Tháng 8/1945, Pháp nổ súng tái chiếm Nam Kỳ mở đường xâm
lược Việt Nam lần 2.

Tháng 12/1946, Pháp ra tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam ở Hà
Nội, phải giải tán quân đội, giao nộp vũ khí. Biết đã tới giới hạn
cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Cử một bộ phận quân đội ở lại cầm cự với Pháp tại Hà Nội, còn lại
rút hết lên vùng rừng núi phía Bắc, lập căn cứ kháng chiến.
Hồ Chí Minh
tại Paris
1946
Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến – Hồ Chí Minh
( 9 – 12 -1946 )
Không đựơc đáp ứng tối hậu thư, Pháp tấn công Hà Nội, quân Việt
Nam chặn quân Pháp ở đó hơn hai tháng, khi đại quân và tài sản đã
di tản lên căn cứ kháng chiến an toàn thì rút đi. Pháp chiếm được
Hà Nội và sau đó mở rộng ra khắp vùng đồng bằng bắc bộ. Tuy
nhiên không tiêu diệt được chính phủ của Hồ Chí Minh.
Pháp tuy chiếm được Việt Nam nhưng phần lớn chỉ có đủ quân để
giữ các vùng đô thị. Nhân dân Việt Nam tổ chức đánh du kích ở
vùng nông thôn và rừng núi. Pháp càng đánh càng đuối sức trong
khi quân Việt Nam càng đánh càng trưởng thành và lớn mạnh. Đến
năm 1950 thì quân đội Việt Nam đã bắt đầu lấy lại thế chủ động có
thể đánh những trận lớn trực diện. Và đến năm 1953 thì Pháp đã
rơi vào tình thế bị động đối phó.
Năm 1954, với nỗ lực nhằm giành lại thế chủ động trên chiến
trường, Pháp ra sức càn quét, tăng cường bắt lính để mở rộng
nguỵ quân, xin thêm viện binh, viện trợ vũ khí. Xây dựng những
cứ điểm phòng thủ ở miền bắc để thi hành kế hoạch Nava: phòng
thủ ở miền bắc, bình định miền Nam, sau khi bình định miền Nam
sẽ có thêm nhiều ngụy quân và thanh thế tiến ra miền bắc tiêu diệt
quân bắc Việt. Và Điện Biên Phủ là một trong những cứ điểm lớn

nhất, mạnh nhất, đông quân nhất và “không thể công phá” tại Đông
Dương đã được xây dựng với sự giúp đỡ của người Mỹ. Pháp định
dùng nó làm cái bẫy để nhử quân Việt Nam vào đánh để tiêu diệt.
Thế nhưng…
Cờ chiến thắng tung bay trên
trận địa Điện Biên Phủ
Kí kết Hiệp định
Genève, 1954
Tháng 5/1954, cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân
Việt Minh bắt sống toàn bộ 16 nghìn quân Pháp trong đó có cả sở
chỉ huy. Cả thế giới chấn động. Thất bại này khiến Pháp phải ký
hiệp định Giơ ne vơ chấm dứt xâm lược Việt Nam, chấm dứt sự
hiện diện của quân đội nước ngoài tại Việt Nam.
Pháp rút, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam dựng nên chính quyền
tay sai là Ngô Đình Diệm đàn áp những người chống đối.
Cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống lại Mỹ, và tay sai kéo
dài từ đó tới năm 1975. Trong suốt 20 năm đó, Mỹ và chính quyền
do Mỹ dựng lên đã tìm đủ mọi cách, đủ mọi phương tiện chiến
tranh hiện đại nhất để chống lại nhân dân Việt Nam nhưng cuối
cùng đều bị thất bại. Nước Việt Nam độc lập từ đó cho đến nay.
Xe tăng Quân đội Giải phóng miền Nhân dân cả nước đón
Giải phóng tiến vào
Dinh Thống Nhất
( 10 giờ 45 phút, 30
– 4 -1975 )
Nam
mừng
” Đất nước thống nhất


×