ĐẤU GIÁ TỪ THIỆN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM?
Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam về đấu giá thì chưa có khái niệm pháp lý
nào về “Đấu giá từ thiện”. Tuy nhiên, người ta có thể hiểu “Đấu giá từ thiện” là việc chủ
sở hữu có tài dùng tài sản của bản thân đem bán đấu giá, kết thúc buổi đấu giá, chủ sở
hữu chỉ lấy một phần giá trị đã định (thông thường giá trị này thấp hơn giá trị đã được ấn
định) theo hợp đồng giữa Chủ sở hữu với tổ chức bán đấu giá và phần còn lại sẽ dùng để
làm từ thiện.
Về bản chất, “đấu giá từ thiện” là đấu giá tài sản, một hình thức bán tài sản công khai
theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và
trình tự, thủ tục bán đấu giá được quy định và phương thức trả giá ở đây là phương thức
trả giá từ thấp lên cao cho đến khi có người trả giá cao nhất. Chỉ khác là thay vì việc
người tham gia đấu giá tài sản trả tiền mua tài sản với giá cao theo nhu cầu cá nhân hoặc
nhu cầu lợi ích kinh doanh, thì nay họ sẵn sàng trả tiền mua tài sản với giá cao không chỉ
vì nhu cầu cá nhân mà còn vì một mục đích cao cả đó là “làm từ thiện”. Điều này sẽ tôn
vinh tấm lòng cao cả của cả người mua và người bán trong giao dịch này.
Gần đây, dư luận xã hội trên các mạng điện tử rất bất bình về vụ việc “đấu giá từ thiện”
với nhiều tài sản quý giá như Bộ Tứ linh (long - lân - quy - phụng) có giá đấu khởi điểm
là 40 tỷ đồng, chiếc trống đồng kỷ vật 1000 năm Thăng Long được trả mua với giá thu về
là12 tỷ đồng, bức tranh đá quý có chữ ký của khoảng 80 thí sinh Miss Earth được trả với
giá 3 tỷ đồng và viên đá rubi khổng lồ được trả với giá 11 tỷ đồng….Cuộc đấu giá thu về
lên tới 75 tỷ đồng nhưng không có cá nhân, đơn vị nào thực hiện việc mua và trả tiền như
đã đề cập trong phiên đấu giá[1].
Với nhiều người, họ cho rằng pháp luật của Việt Nam điều chỉnh về vấn đề này còn quá
“nhiều lỗ hổng”. Và không ít ý kiến khác nhau, với “bức xúc” của mình, họ đã quy kết
trách nhiệm cho “Ban tổ chức chương trình đấu giá”, hay người thắng cuộc trong cuộc
đấu giá
Dưới góc độ pháp lý của nhà làm luật và áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn,
thì chúng ta không thể phủ nhận rằng, pháp luật đã khá “bất cẩn” khi quy định vấn đề
này. Bởi những lý do sau:
►Thứ nhất: Khi quy định, pháp luật vẫn chưa thống nhất giữa đấu giá tài sản và đấu giá
hàng hóa. Cụ thể:
Về luật áp dụng:
Liên quan đến đấu giá, ngoài luật chung là Bộ Luật dân sự năm 2005 đang điều chỉnh thì
hiện nay Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định 17/2010/NĐ-CP cũng đang điều
chỉnh vấn đề này.
Sẽ áp dụng luật nào khi mà “tài sản bán đấu giá” theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP là động
sản, bất động sản, giấy tờ có giá và các quyền tài sản được phép giao dịch, còn “hàng
hóa” trong “đấu giá hàng hóa” theo Luật Thương mại năm 2005 là tất cả các loại động
sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, bao gồm những vật gắn liền với đất đai.
Về khoản tiền đặt cọc khi đăng ký tham gia đấu giá:
Với quy định về khoản tiền đặt cọc mà người tham gia đấu giá tài sản khi đăng ký phải
đặt trước cho ban tổ chức đấu giá tài sản với mức tối thiểu là 1% và mức tối đa không
quá 15% giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá (theo khoản1, Điều 29, Quy định về đấu
giá tài sản) rõ ràng có mâu thuẫn với khoản 2, Điều 199, Luật Thương mại năm 2005 với
mức đặt cọc không quá 2% giá khởi điểm hàng hóa được đấu giá.
Về đấu giá không thành và xử lý hậu quả của việc đấu giá không thành
Theo Điều 202, Luật thương mại quy định, cuộc đấu giá được coi là không thành trong
trường hợp: (i) không có người tham gia đấu giá, trả giá; (ii) giá cao nhất đã trả thấp hơn
mức giá khởi điểm. Trong khi đó, trường hợp đấu giá không thành theo quy định về đấu
giá tài sản chỉ bao gồm có các trường hợp sau: (i) tại cuộc bán đấu giá tài sản, người đã
trả giá cao nhất rút lại giá đã trả trước khi đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá công
bố người mua được tài sản và không có người trả giá tiếp kể từ giá của người trả liền kề
trước đó; (ii) giá liền kề cộng với khoản tiền đặt trước nhỏ hơn giá đã trả của người từ
chối mua.
Theo quy định về đấu giá tài sản thì khi đấu giá không thành tài sản sẽ được trả lại cho
người có tài sản đấu giá. Trong khi các quy định về đấu giá theo Luật Thương mại năm
2005 không đề cập tới.
►Thứ hai: Pháp luật chưa có các chế tài cụ thể hơn, đủ “sức” cưỡng chế thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên trong đấu giá. Việc từ chối mua hàng sau phiên đấu giá
mà không có sự đồng ý của người bán, người có tài sản là một ví dụ.
Pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính về đấu giá từ 300.000 đến 20.000.000
đồng đối với những tài sản có giá trị hàng chục thậm trí hàng trăm hay hàng nghìn tỷ
đồng thì vẫn chưa phải là thỏa đáng và chưa đủ tính răn đe?
Việc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng các quy định về đấu giá đã gây ảnh
hưởng đến mục đích của phiên đấu giá như: (i)bán tài sản với mức giá cao nhất có thể
nhằm thu lợi nhuận; (ii) khuyếch trương thương hiệu và uy tín của tất cả các bên khi tổ
chức đấu giá công khai; và thậm chí (iii) nêu cao tinh thần “vì người nghèo” của biết bao
con người có tấm lòng cao thượng
Vậy, trước những bất cập và “bất cẩn” nói trên của pháp luật, chúng ta lấy cơ chế gì để
điều chỉnh?
Theo ý kiến riêng của tôi, thì nên chăng, với những vi phạm trong đấu giá, ngoài việc xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định hiện nay, tại sao chúng ta không sử dụng đến việc
yêu cầu thực hiện hợp đồng đã được ký kết giữa các bên theo Luật Thương mại năm
2005. Việc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết mà không có sự
đồng ý của bên còn lại, gây thiệt hại thì phải thực hiện bồi thường thiệt hại. Việc bồi
thường thiệt hại, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định rất rõ
tại Điều 302, Điều 303, Luật Thương mại năm 2005.
Trường hợp nếu lỗi do bên tổ chức đấu giá gây ra làm chủ sở hữu tài sản không thực hiện
được việc bán tài sàn thì tổ chức đâu giá phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trường hợp
này là rất khó xác định, bởi lẽ, tổ chức đấu giá chỉ như một đơn vị đại diện thay mặt chủ
sở hữu tài sản thực hiện việc bán đấu giá tài sản/hàng hóa theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp đấu giá thành, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thiết lập, nhưng
người mua được tài sản bán đấu giá không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo
hợp đồng sẽ gây thiệt hại rất lớn đối với chủ sở hữu tài sản. Cụ thể: (i) chủ sở hữu không
thực hiện được mục đích bán tài sản theo giá ấn định và mức chênh lệch cao nhất có thể;
và (ii) tốn kém chi phí tổ chức bán đấu giá…
Thiết nghĩ, dù luật nào điều chỉnh, thì việc đấu giá tài sản đều phải thực hiện theo nguyên
tắc chung về bồi thường thiệt hại quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 9, Bộ luật Dân sự
năm 2005. Với nguyên tắc chung này, chúng ta sẽ có cơ sở để yêu cầu bồi thường thiệt
hại khi một trong các bên vi phạm hợp đồng đã ký kết.
Luật sư NGUYỄN THỊ THU HIỀN
CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẠI VIỆT