Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Áp-xe gan do amip pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.69 KB, 6 trang )

Áp-xe gan do amip
Đây là bệnh nhiễm khuẩn gan mật thường gặp ở Việt Nam.
Bệnh do khối mủ nằm khu trú trong nhu mô gan. Áp-xe
gan có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên: do vi
khuẩn, do ký sinh trùng đường ruột gồm amip và sán lá gan
lớn, trong đó nguyên nhân do amip là chủ yếu.
Amip là một loại ký sinh trùng, sau khi nhiễm amip, nó có
thể cư trú tại đại tràng để gây bệnh hoặc chui qua niêm mạc
đại tràng để đi đến các cơ quan khác gây bệnh. Gan là cơ
quan đầu tiên amip trú ngụ, do đó gan là cơ quan amip hay
gây bệnh nhất sau đại tràng. Sau khi đi qua niêm mạc đại
tràng vào máu, amip đi theo các tĩnh mạch mạc treo đại
tràng vào gan và gây ra tắc các vi mạch hình thành nên các
vi huyết khối. Các vi huyết khối này sẽ bị hoại tử, nhiều ổ
hoại tử sẽ hợp với nhau thành ổ áp-xe. Áp-xe gan do amip
thường chỉ có một ổ và nằm ở gan phải nhưng đôi khi cũng
có 2 hoặc 3 ổ và ở thùy gan trái nhưng ít hơn. Bệnh này gặp
ở nam giới nhiều hơn nữ giới tới 3 - 4 lần. Tuổi mắc bệnh
nhiều nhất là 30 - 50 tuổi.
Các biểu hiện của bệnh
Sốt: Là dấu hiệu đầu tiên hay gặp nhất, người bệnh có khi
sốt cao, có người sốt ít thoáng qua, nhưng thường người
bệnh cảm nhận được mình sốt. Sốt cao 39 - 40oC hoặc sốt
nhẹ 37o5 - 38oC. Sốt từng cơn hoặc âm ỉ khoảng 5 - 7
ngày, có khi lại kéo dài hàng tháng.
Đau hạ sườn phải: Xuất hiện sau khi sốt được vài ngày,
nhưng cũng có khi xuất hiện cùng với sốt. Mức độ đau
khác nhau tùy theo từng người. Người bệnh thấy nằng
nặng, tưng tức bên mạng sườn phải, có người nhận thấy
đau nhói, căn cắn từng lúc một, kiểu đau này ngày một tăng
lên. Nặng hơn nữa là đau tăng lên khi thở ra hít vào và khi


ho, nhất là khi thay đổi tư thế, đau xuyên lên vai.
Gan to và đau: Dấu hiệu này người bệnh ít khi tự nhận
thấy. Khi người thầy thuốc thăm khám mới phát hiện được
gan to, nhưng gan không to nhiều, chỉ khoảng 3 - 4cm dưới
bờ sườn phải, gan mềm, nhẵn và ấn vào rất đau. Đôi khi
người bệnh tự ấn vào các kẽ khoang liên sườn có những
điểm đau chói tương xứng với ổ mủ bên trong gan. Trong
một số trường hợp điển hình, người ta thấy vùng này sưng
lên, da phù nề và đỏ. Sờ thấy nóng hơn chỗ da khác mà
chính người bệnh cũng nhận thấy được. Đây là dấu hiệu
điển hình của áp-xe.
Ngoài 3 dấu hiệu kể trên, người bệnh có thể gặp:
- Rối loạn tiêu hóa: Trước hoặc khi người bệnh đang sốt,
phân lỏng hoặc đi ngoài nhày máu mũi.
- Ăn kém do mệt mỏi, chán ăn, ăn không ngon. Sút cân. Có
thể có khó thở, nhưng nhẹ do đau ở hạ sườn phải hoặc có
tràn dịch màng phổi phải vì ổ áp-xe nằm ở vị trí gần sát
màng phổi, gây phản ứng viêm nhưng tràn dịch không
nhiều.
- Những dấu hiệu hiếm gặp như phù chân và bụng có dịch
do nhiễm khuẩn lâu ngày gây suy dinh dưỡng.
Nếu người bệnh có những dấu hiệu bệnh nhẹ hoặc chủ
quan không đi khám bệnh, tự uống thuốc hoặc người bệnh
có đi khám nhưng chẩn đoán chưa chính xác, không được
điều trị đúng, kịp thời để bệnh diễn biến phức tạp, dẫn đến
nhiều biến chứng - có những trường hợp đến khám vì biến
chứng. Nhưng cũng có trường hợp được điều trị kịp thời
cũng xảy ra biến chứng là do ổ áp-xe quá to hoặc nằm nông
ngay trên mặt gan.


Tổn thương do ổ áp-xe gan (x).
Những biến chứng hay gặp
- Biến chứng do vỡ ổ áp-xe hay gặp nhất và nguy hiểm
nhất. Vỡ vào màng tim, khi vị trí ổ áp-xe nằm ở gan trái,
bệnh nhân đột ngột khó thở, tím tái, vã mồ hôi, nghe tiếng
tim mờ, nếu không bệnh nhân chết vì bị ép tim cấp. Vỡ vào
ổ bụng gây nhiễm trùng toàn ổ bụng gọi là viêm phúc mạc:
Đột nhiên bệnh nhân đau toàn bụng dữ dội, sốt tăng lên,
bụng cứng. Cần phải kịp thời dẫn lưu ổ bụng hoặc phải mổ
cấp cứu đề phòng bệnh nhân chết vì choáng nhiễm khuẩn.
Vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc khu trú do các mạch nối
và các tạng bao vây tạo nên ổ mủ khu trú. Ngoài ra, ổ áp-xe
có thể vỡ vào ống tiêu hóa như dạ dày, đại tràng làm người
bệnh nôn ra mủ, ỉa ra máu hoặc vỡ vào cơ thành bụng gây
áp-xe cơ thành bụng hoặc tạo thành lỗ dò chảy mủ.
- Biến chứng tiếp do mưng mủ kéo dài làm người bệnh suy
kiệt.
Những xét nghiệm cần làm để xác định bệnh: Công thức
máu: bạch cầu tăng, máu lắng tăng. Chụp phổi: cơ hoành
phải bị đẩy cao lên hoặc có tràn dịch màng phổi phải,
nhưng tràn dịch ít. Siêu âm gan cho thấy 1 vòng loãng siêu
âm dạng dịch lỏng, kích thước, số lượng và vị trí của ổ. Xét
nghiệm các phản ứng huyết thanh dương tính với amip.
Điều trị áp-xe gan do amip
Hiện nay chủ yếu là điều trị nội khoa, dùng thuốc đơn
thuần hoặc phối hợp với chọc hút mủ. Nếu dùng đầy đủ và
đúng cách thì không có tái phát và tỷ lệ tử vong gần như
không có. Trừ một số trường hợp đặc biệt đã điều trị bằng
thuốc và phối hợp chọc hút đúng cách nhưng mủ không
giảm, kích thước ổ mủ không nhỏ đi, bệnh nhân vẫn sốt

ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân nên có chỉ định phẫu
thuật.
Các thuốc điều trị nội khoa: thuốc chống amip:
metronidazol: dùng đường uống hoặc tiêm 1,5 - 2g/ngày
trong 8 - 10 ngày. Cloroquin (delagyl) 0,4g/ngày trong 8 -
10 ngày. Dehydro emetin: Trước đây có sử dụng nhưng vì
tính độc của emetin với cơ thể người nên hiện nay không sử
dụng.
Chọc hút mủ phối hợp: Có thể chọc sớm nếu áp-xe quá to
hoặc đe dọa biến chứng. Hoặc chọc muộn sau 5 - 7 ngày
điều trị bằng thuốc.
Mổ phối hợp dùng thuốc: Khi có biến chứng nguy hiểm.
Dọa biến chứng: nếu không có điều kiện chọc hút. Khi
bệnh nhân đến quá muộn. Ổ áp-xe quá to. Dùng thuốc đầy
đủ, phối hợp chọc hút mủ mà không có kết quả.
Như vậy, áp-xe gan do amip là bệnh nhiễm khuẩn gan mật
cấp tính, bệnh diễn biến tốt nếu được chẩn đoán đúng và
điều trị kịp thời bệnh khỏi hoàn toàn.
BS. Bạch Đằng

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×