TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH
TRỊ
Đề tài: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghóa xã hội ở Việt Nam.
GV hướng dẫn: Lê Hùng
SV thực hiện: Võ Thò Ngọc Thủy
Lớp: Cao Đẳng 19E1
Khóa:19
TPHCM, 2005
rong lòch sử, một số nước đã tiến hành công nghiệp hóa bắt đầu từ cuối thế
kỷ XVIII, mở đầu là nước Anh bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất. Thực chất của công nghiệp hóa trong thời đó là chuyển nền kinh tế
nông nghiệp với kỹ thuật thủ công sang nền kinh tế công nghiệp với kỹ thuật máy
móc. Ngày nay trên thế giới đang diễn ra cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ,
nó làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển mới về chất, thúc đẩy quá trình cấu
trúc lại nền kinh tế thế giới, làm thay đổi sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội… Vì thế,
trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò rất quan trọng đối
với tất cả các nước có nền kinh tế chậm phát triển. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
con đường duy nhất giúp các nước chậm phát triển thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với
các nước chung quanh.
T
Nước ta tiến lên chủ nghóa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp.
Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thay thế
lao động thủ công bằng lao động cơ khí hóa và một phần tự động hóa (khi có điều
kiện) trong các ngành của nền kinh tế quốc dân để đạt được năng suất lao động xã
hội cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tốt nhất để phát triển lực lượng
sản xuất vốn đã lạc hậu của nước ta để tạo một quan hệ sản xuất phù hợp cho quá
trình xây dựng chủ nghóa xã hội. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta chú trọng
phát triển các ngành của nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhằm khơi dậy tiềm năng kinh tế của đất nước. Do đó, việc nghiên cứu và nhận
thức đúng đắn khái niệm công nghiệp hóa trong từng giai đoạn phát triển của nền
sản xuất xã hội có ý nghóa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Khi đã nhận thức đúng
đắn được khái niệm công nghiệp hóa sẽ giúp ta hiểu rõ những đường lối, chính sách
của Đảng ta trong thời kỳ xây dựng đất nước tiến lên chủ nghóa xã hội.
CHƯƠNG 1
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây u,
công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc. Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm công nghiệp hóa
nói riêng mang tính lòch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh
nghiệm trong lòch sử tiến hành công nghiệp hóa, và từ thực tiễn công nghiệp hóa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghò Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy
khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản việt nam đã xác
đònh: công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dòch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Khái niệm công nghiệp hóa trên đây được Đảng ta xác đònh rộng hơn những
quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dòch vụ và
quản lý kinh tế – xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp
tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy công nghiệp hóa
theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn
thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như
quan niệm trước đây.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước,
công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa vì: Nước ta tiến hành công
nghiệp hóa trong điều kiện thế giới đang diễn ra cuộc Cách mạng khoa học và công
nghệ và một số nước đã bắt đầu phát triển nền kinh tế tri thức, bởi vậy không chỉ
chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí hóa mà còn phải tranh thủ ứng dụng
rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại.
Thứ hai, công nghiệp hóa trước đây được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hóa,
tập trung quan liêu bao cấp, với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ngày nay, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu
mang tính đònh hướng; thò trường phản ánh nhu cầu xã hội, sẽ quyết đònh việc phân
bổ các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới, lấy hiệu quả kinh tế –
xã hội làm thước đo.
Thứ ba, công nghiệp hóa trước đây được coi là việc riêng của Nhà nước; ngày
nay công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế. Phải giáo dục, phát động, tổ chức để toàn dân, mọi thành phần kinh tế tham
gia tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến nhanh,
phát triển đúng đònh hướng phải tăng cường sức mạnh kinh tế Nhà nước, làm cho
kinh tế Nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo thể hiện ở tiềm lực kinh tế, năng suất
lao động, hiệu quả sản xuất – kinh doanh, có khả năng hướng dẫn, chi phối nền kinh
tế đất nước.
Thứ tư, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong mọi chủ
trương, chính sách phải nhằm giải phóng mọi tiềm năng của con người, thường
xuyên quan tâm, bồi dưỡng trí lực, thể lực, sử dụng nhân tài. Nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, động viên toàn dân cần, kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Thứ năm, trước đây trên thực tế đã xây dựng một nền kinh tế khép kín, hướng
vào ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Ngày nay, Đảng ta đã chủ trương xây dựng
một nền kinh tế mở cả trong nước và với bên ngoài, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền; kết
hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh vào xuất
khẩu, thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Thứ sáu, phải lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác đònh
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai
thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Lựa chọn dự án đầu tư với những quy mô thích
hợp với từng ngành, từng lónh vực, từng đòa phương, ưu tiên những dự án quy mô nhỏ
và vừa, đòi hỏi ít vốn, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh.
Công nghiệp hóa trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi nhanh nếu
chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế.
Công nghiệp hóa trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở cũng gây nên không ít trở
ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, do “trật tự” của nền kinh tế
thế giới mà các nước tư bản phát triển thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc
hậu. Vì thế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước
ta là một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Những đặc điểm trên đây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa ở
nước ta hiện nay.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghóa xã hội ở nước ta
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghóa xã hội, không qua
chế độ tư bản chủ nghóa tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân. Bởi vì:
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở
vật chất – kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ
thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghóa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghóa, là phải xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghóa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan
trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa , tức là chuyển nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Chủ nghóa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế
tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu xã hội chủ nghóa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghóa xã
hội. Một mặt, kế thừa những thành quả đã đạt được trong xã hội tư bản chủ nghóa;
mặt khác, nó được phát triển và hoàn thiện nhờ ứng dụng những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại theo nhu cầu của chế độ xã hội mới. Cơ
sở vật chất – kỹ thuật đó phải tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao. Công
nghiệp hóa chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân
xã hội chủ nghóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghóa xã hội, phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghóa.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ,
trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất
nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời
cơ và cũng nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức nền kinh
tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải
chủ động sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ,
đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.
3. Tác dụng của công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghóa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công
nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể
hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghóa.
Nước ta đi lên chủ nghóa xã hội với xuất phát điểm là một nền nông nghiệp lạc
hậu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, công nghiệp hóa là quá trình
tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học - công
nghệ, thúc đẩy chuyển dòch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công
bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất, tạo tiền đề
cho sự hình thành nhiều mối quan hệ mới về kinh tế, xã hội, chính trò trong toàn xã
hội. Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghóa sẽ
từng bước được hình thành, mở rộng và củng cố, đời sống của nhân dân sẽ dần dần
được cải thiện, liên minh công – nông – trí thức và bộ máy chính quyền nhà nước sẽ
được củng cố và kiện toàn, cách mạng tư tưởng và văn hóa sẽ có nhiều điều kiện
thực hiện; giai cấp công nhân được trưởng thành về số lượng và chất lượng. Sự giúp
đỡ của công nghiệp và thành thò đối với nông nghiệp và nông thôn được tăng cường
và có hiệu quả hơn; tạo ra nhiều điều kiện để thực hiện từng bước sự bình đẳng về
kinh tế giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng trong nước. Điều
đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trò và tinh thần trong xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó tạo vò thế cho đất nước để mở rộng các quan hệ
kinh tế đối ngoại, tham gia phân công và hợp tác kinh tế một cách bình đẳng với các
nước.
Sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát
triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập
trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng miền thống nhất cao hơn.
Công nghiệp hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát
triển cao mà còn là yêu cầu khách quan của việc củng cố và tăng cường khả năng
quốc phòng – an ninh, của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghóa.
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Như
vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thực chất là một cuộc cải biến cách
mạng sâu sắc và toàn diện, trước hết và chủ yếu là từ phát triển lực lượng sản xuất,
dẫn tới một loạt hệ quả tất yếu tác động tích cực đến các mặt của đời sống xã hội,
hình thành những yếu tố của hình thái xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghóa. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa bảo đảm giành thắng lợi cho chủ nghóa xã hội. Vì thế công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghóa xã hội xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghóa
và là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng chủ nghóa
xã hội ở nước ta.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới ở nước ta.
II. NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
NƯỚC TA
1. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghóa xã hội, thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và ứng
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa và cách mạng kỹ thuật (ngày nay gọi là cách
mạng khoa học và công nghệ) là hai khái niệm khác nhau. Công nghiệp hóa chỉ tiến
hành ở những nước kinh tế phát triển chưa cao.
Cách mạng kỹ thuật không những được tiến hành ở những nước kém phát triển,
mà còn được thực hiện ở những nước có nền công nghiệp hoàn chỉnh, phát triển cao
và sẽ được tiến hành không ngừng với trình độ ngày càng cao. Tuy nhiên, trong điều
kiện một nước sản xuất nhỏ, lao động thủ công còn phổ biến tiến lên chủ nghóa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghóa như nước ta thì cả công nghiệp hóa và cách
mạng kỹ thuật đều có một nội dung quan trọng giống nhau về cơ bản. Đó là thực
hiện cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng lao động máy
móc.
Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa và tự động hóa sản xuất từng bước và trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải
xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp, trong đó then chốt là ngành
chế tạo tư liệu sản xuất. Bởi vì, tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất tư liệu
sản xuất, đặc biệt là của ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất,
quyết đònh quy mô tái sản xuất mở rộng (hay tốc độ tăng trưởng) của toàn bộ nền
kinh tế. Sự phát triển của các ngành chế tạo tư liệu sản xuất là cơ sở, là “đòn xeo”
để cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển khu vực nông – lâm – ngư
nghiệp. Do đó, đối tượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất cả các ngành kinh tế
quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công nghiệp sản xuất tư liệu
sản xuất.
Cơ khí hóa toàn bộ nền kinh tế quốc dân là quá trình lâu dài, phải được thực hiện
từng bước, có trọng tâm, trọng điểm. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đời sống kinh tế,
do trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, lao động dư thừa còn nhiều, vốn
đầu tư còn hạn chế, Đảng ta đã chủ trương:
Kết hợp những bước tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội “đi
tắt”, “đón đầu”, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của
khoa học và công nghệ thế giới.
Mức độ và tốc độ tiến hành cơ khí hóa, trang bò lại kỹ thuật không giống nhau
giữa các ngành, các vùng, các khâu trong quá trình sản xuất. Tùy theo điều kiện, yêu
cầu và khả năng của từng thời kỳ mà lựa chọn ngành, vùng, khâu ưu tiên, lựa chọn
hướng phát triển công nghệ. Do đó, ở nước ta hiện nay cần giải quyết đúng đắn, sáng
tạo các mối quan hệ sau:
Một là, quan hệ giữa ứng dụng công nghệ hiện đại và cải biến công nghệ hiện
có.
Thực hiện kết hợp nhiều trình độ công nghệ, khai thác tối đa năng lực sản xuất
và công nghệ hiện có, tranh thủ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, trước hết ở những
khâu có ý nghóa quyết đònh trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là đối với
hàng xuất khẩu, ở những ngành tác động trực tiếp tới việc nâng cao trình độ công
nghệ của nhiều ngành khác.
Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, ưu tiên công nghệ ít
vốn, thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều việc làm, tranh thủ ứng dụng và phát triển các
công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới, chế
tạo máy, năng lượng.
Hai là, quan hệ giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu. Bảo
đảm vừa mở rộng xây dựng cơ sở mới cần thiết, vừa nâng cao và hiện đại hóa các cơ
sở hiện có. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có, càng về sau càng
hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu.
Ba là, mối quan hệ giữa các loại quy mô của các doanh nghiệp.
Trong phát triển mới, cần ưu tiên các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, công
nghiệp tiên tiến, thu hồi vốn nhanh, đồng thời chỉ xây dựng những công trình có quy
mô lớn khi thật cần thiết và có hiệu quả.
Khi xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật mới, thực hiện cơ khí hóa các ngành của
nền kinh tế quốc dân, phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề như: xây dựng phải đi
đôi với quản lý, sử dụng để phát huy hiệu quả, kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức lại sản
xuất với phân công lao động trong từng đơn vò kinh tế, trong phạm vi toàn xã hội;
giữa tổ chức sản xuất và phương thức hoạt động của nền kinh tế được cơ khí hóa với
cơ chế quản lý và hệ thống các chính sách, pháp luật; giữa sản xuất cơ giới với kết
cấu hạ tầng sản xuất và các điều kiện khác liên quan đến sản xuất; giữa đội ngũ cán
bộ quản lý, kinh doanh với đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật và công nhân lành
nghề.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghóa là quá trình hình thành
cơ cấu kinh tế mới
Hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế là một nội dung quan trọng khác của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh
tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý hiện đại.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến đổi của lực
lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất. Xu hướng chuyển dòch cơ cấu kinh tế được
coi là hợp lý, tiến bộ là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ
trọng khu vực dòch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và
khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trò sản phẩm xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế, nhất là những ngành có
hàm lượng khoa học cao; sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên canh tập trung…
không chỉ là biểu hiện của sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật
chất – kỹ thuật trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn làm cho cơ cấu
kinh tế thay đổi tiến bộ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thò trường hiện đại đòi hỏi công –
nông nghiệp – dòch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ. Mạng lưới dòch vụ
với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự phát triển
mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Xây dựng cơ cấu kinh tế cần thiết là yêu cầu khách quan của mỗi nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Một cơ
cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dòch vụ phải
tăng dần về tỷ trọng.
Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng
của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các đòa
phương, các thành phần kinh tế.
Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế, do
vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải “cơ cấu mở”.
Thông qua cách mạng khoa học – công nghệ và phân công lại lao động với
những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước, Đảng ta đã xác đònh
một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh tế công – nông
nghiệp – dòch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng. Mục tiêu phấn đấu
của nước ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16-17%, công nghiệp
40-41%, dòch vụ 42-43%.
3. Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo đònh hướng xã hội chủ nghóa
Công nghiệp hóa ở nước ta nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghóa xã hội. Do đó,
công nghiệp hóa không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất, mà còn là quá trình thiết
lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo đònh hướng xã hội chủ
nghóa.
Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, cũng đều là kết quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là phát triển mạnh lực lượng sản xuất, khơi
dậy và khai thác mọi tiềm năng kinh tế, mọi nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất sẽ từng
bước được cải thiện cho phù hợp.
Trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu đòi hỏi phải xác
lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì vậy, khi cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghóa xã hội được xây dựng xong về căn bản thì chế độ công hữu
sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối. Nhưng để đạt tới trình độ đó phải trải qua quá trình phát
triển kinh tế – xã hội lâu dài, trong đó quan hệ sản xuất được cải biến dần từ thấp
đến cao theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tiêu chuẩn căn bản để xét
một quan hệ sản xuất nhất đònh có phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản
xuất hay không, có đúng đònh hướng xã hội chủ nghóa hay không, là ở chỗ nó có thúc
đẩy phát triển lực lượng sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, tạo điều kiện thực
hiện công bằng xã hội tốt hơn hay không?
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
I. GIAI ĐOẠN TẠO TIỀN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA: TỪ NĂM
1986 ĐẾN NĂM 1995
o Về chế độ sở hữu: từ chỗ dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai
thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế xã hội chủ nghóa (gồm quốc doanh và tập thể)
và phi xã hội chủ nghóa (gồm các thành phần còn lại), Đại hội VI đã xác đònh các
thành phần kinh tế – chủ thể giữ vai trò quyết đònh trong sản xuất hàng hóa của nền
kinh tế nước ta, bao gồm: thành phần kinh tế xã hội chủ nghóa (gồm khu vực quốc
doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn với các thành phần
đó) thành phần kinh tế này giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác
trong nền kinh tế quốc dân; các thành phần kinh tế khác (gồm kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa: thợ thủ công, nông dân, cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dòch
vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức; kinh
tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và các vùng núi cao khác. Đây là một giải pháp có ý nghóa chiến lược,
không chỉ làm cơ sở cho việc hoạch đònh chính sách phát triển nền kinh tế nói chung,
cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói riêng, mà còn góp phần giải phóng
và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế – xã
hội phát triển, phù hợp với đònh hướng xã hội chủ nghóa. Thực chất của bước chuyển
này là cho phép và khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản
tư nhân; mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài; xuất hiện những hình thức và quan hệ
kinh tế mới giữa khu vực kinh tế nhà nước với các lực lượng kinh tế phi nhà nước…
Đồng thời, xác đònh mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền lợi và nghóa vụ
trước pháp luật.
Hội nghò lần thứ 6 (khóa VI) (1989) đã phát triển thêm một bước về chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và khẳng đònh “… phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghóa xã hội”. Đó chính là sự điều chỉnh có tính chiến lược, làm cho quan hệ
sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và yêu cầu của thực tiễn, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng. Có thể nói,
cơ cấu nhiều thành phần kinh tế không chỉ có ý nghóa về mặt chính sách mà nó còn
thực sự là một bước ngoặt làm thay đổi cơ sở lý luận của mô hình phát triển ở nước
ta.
o Về cơ cấu kinh tế: chính sách công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới là tập
trung ưu tiên phát triển công nghiệp nặng nhằm tạo ra một nền công nghiệp làm nền
tảng vật chất cho chủ nghóa xã hội, thực chất là xác lập một nền kinh tế tự cấp, tự
túc. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn nền kinh tế đến khủng
hoảng cơ cấu, đến lượt nó, khủng hoảng cơ cấu lại ảnh hưởng đến khủng hoảng kinh
tế. Đại hội VI đã chỉ ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng này. Một trong những chính
sách và biện pháp chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1986 – 1990 là: “… thực hiện cho
được chương trình mục tiêu về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, …”. Thực hiện 3 chương trình mục tiêu này “không những có ý nghóa sống còn
trong tình hình trước mắt, mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được
để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa trong chặng đường tiếp theo”. Thực
chất đây là sự chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
làm trọng tâm.
o Về cơ chế vận hành: trong quá trình chuyển sang cơ chế thò trường, Đảng ta
chủ trương kiên quyết và dứt khoát: “… xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây
dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền
kinh tế”. Nội dung cốt lõi của cơ chế mới là kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghóa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khắc phục sự
trì trệ, thiếu năng động của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tạo ra một cơ sở mới
cho sự phát triển nền kinh tế nước ta. Mặt khác, phải sử dụng có hiệu quả các đòn
bẩy kinh tế nhằm kích thích sản xuất phát triển, lập lại trật tự và ổn đònh thò trường.
Đây là sự thay đổi về chất quan trọng nhất trong quá trình phát triển kinh tế của Việt
Nam, có thể nói, điều này đồng nghóa với việc thay thế phương thức tiến hành công
nghiệp hóa ở nước ta.
Cụ thể hóa các quan điểm và chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành một
hệ thống các chính sách, chẳng hạn: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987),
sửa đổi và bổ sung (1990), là luật ra đời sớm nhất trong thời kỳ đổi mới, được xem là
bước ngoặt trong mô hình phát triển kinh tế Việt Nam, đánh dấu sự chuyển biến có
tính chiến lược về xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Có thể nói,
đây là cơ sở pháp lý quyết đònh đặt nền kinh tế nước ta vào trung tâm của quá trình
mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Đất đai (1988) khẳng đònh đất đai thuộc sở
hữu toàn dân. Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty tư nhân (1990) đã tạo điều
kiện cho sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp và công ty tư nhân. Nghò
quyết 10 của Bộ Chính trò (khóa VI) là dấu mốc lớn quan trọng tạo ra bước ngoặt
trên con đường phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, bởi nó góp phần giải
phóng phần lớn sức sản xuất ở nông thôn và phát huy tiềm năng to lớn của nông dân.
Nó không chỉ được coi là bước đột phá vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
mà còn là bước đột phá vào mô hình công nghiệp hóa ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng.
Từ chỗ nhà nước là yếu tố cấu thành duy nhất và trực tiếp của cơ chế vận hành
nền kinh tế, nay chuyển sang một sự kết hợp mới về nguyên tắc, cấu trúc mới bao
gồm nhà nước và thò trường, hơn nữa chúng còn có sự ràng buộc và quy đònh lẫn
nhau. Từ chỗ hoạt động quản lý và điều tiết kinh tế vó mô dựa chủ yếu vào cơ chế
quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp
lệnh chi tiết từ trên giao xuống, nay dựa vào việc đưa ra một số chỉ tiêu mang tính
hướng dẫn. Vai trò của nhà nước đã có những thay đổi căn bản, từ chỗ cho phép và
quyết đònh đã chuyển sang việc tạo khung khổ pháp luật và thể chế cho nền kinh tế
thò trường, ổn đònh kinh tế vó mô; quản lý đất nước bằng pháp luật, kế hoạch đònh
hướng, chính sách kinh tế – xã hội và phương pháp hành chính, sức mạnh kinh tế của
nhà nước để tác động tới thò trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp; tạo
lập cơ chế, chính sách nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế hình thành,
phát triển… Sử dụng các chính sách vó mô với hệ thống công cụ tài chính – tiền tệ,
chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thò trường; áp dụng cơ chế lãi suất thò trường mà
nổi bật là áp dụng mức lãi suất “dương” như một giải pháp nhằm đánh giá chính xác
giá trò của đồng tiền Việt Nam, thu hút mạnh tiền gửi vào ngân hàng để chống lạm
phát và ổn đònh tiền tệ; chuyển hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp; tổ
chức lại hệ thống thuế, giảm chi ngân sách. Đoạn tuyệt về nguyên tắc nhưng thực
hiện từng bước xóa bỏ chế độ bao cấp, đặc biệt là bao cấp vốn cho các doanh nghiệp
nhà nước; tự do lưu thông hàng hóa trên phạm vi cả nước.
Đồng thời, hoạt động của thò trường đã có những thay đổi căn bản, các loại thò
trường bước đầu được hình thành, trở thành cơ chế quan trọng trong việc huy động,
luân chuyển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của xã hội. Với việc áp dụng hệ
thống giá thò trường thay cho hệ thống giá kế hoạch, giá cả hình thành và thay đổi
hoàn toàn tự do không có sự can thiệp của nhà nước. Việc thiết lập mặt bằng giá
mới, khâu mấu chốt của việc áp dụng cơ chế giá thò trường đã góp phần vào ổn đònh
nền kinh tế và tạo ra môi trường khuyến khích sự cạnh tranh bình đẳng của các thành
phần kinh tế. Quan hệ cung – cầu và sự vận động của giá cả thò trường đã trở thành
tín hiệu cho các quyết đònh sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư, cung cấp hướng
dẫn thông tin để doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động của mình. Thò trường hàng hóa
dòch vụ phát triển đã tạo động lực kích thích sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng trong xã hội. Cơ cấu thò trường đã thay đổi cả về nội dung, hình thức và
chức năng hoạt động góp phần ổn đònh tình hình kinh tế – xã hội.
II. GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA: TỪ NĂM
1996 ĐẾN NAY
Trên cơ sở đánh giá là đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ “chuẩn bò tiền đề cho
công nghiệp hóa” của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, khẳng đònh nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội sau 10 năm đổi mới, cho phép chuyển sang giai
đoạn phát triển mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với mục tiêu đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển nhằm khắc phục nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác và tạo ra tiền đề để nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trên cơ sở đó nâng cao vò thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, Đại hội VIII đã tiếp tục những quan điểm, chủ trương,
chính sách đổi mới đất nước trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi,
trên một số vấn đề chủ yếu sau:
o Khẳng đònh tiếp tục phát triển và thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, như cách phân đònh thành phần kinh tế
của Đại hội VII, nhưng cách xác đònh thành phần, tên gọi đã có thay đổi, thuật ngữ
“kinh tế nhà nước” thay cho “kinh tế quốc doanh”; thuật ngữ “kinh tế hợp tác” thay
cho “kinh tế tập thể”; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản
tư nhân.
Nhất quán với quan điểm về công nghiệp hóa của Đảng đã được khẳng đònh
trong các Đại hội VI và VII, Đại hội VIII nhấn mạnh: “Xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Rút kinh nghiệm
từ những sai lầm thiếu sót để bổ sung, phát triển, Đảng ta đã đề ra những bước đi và
giải pháp thích hợp, coi đường lối công nghiệp hóa là một bộ phận của đường lối
phát triển kinh tế: công nghiệp hóa luôn gắn với hiện đại hóa, với việc ứng dụng
rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại.
o Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế được Đảng ta tiếp tục khẳng đònh với
mục tiêu xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế
thò trường có sự quản lý của nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, trong đó coi
sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghóa xã hội, tồn tại khách quan; nhiều
thành phần kinh tế tham gia trong nền kinh tế hàng hóa ở nước ta, kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; thò trường trong nước gắn với thò trường thế giới; thò trường vừa
là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; nâng cao năng lực quản lý vó mô của nhà
nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vò sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, sự khác biệt của nền kinh tế mà Việt Nam đang xây dựng so với các
nền kinh tế thò trường ở các nước tư bản là ở tính đònh hướng xã hội chủ nghóa.
Đại hội IX (2001) xác đònh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội ở nước ta
hiện nay tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản, đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và
sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu này có thể đan xen, hỗn hợp. Theo đó, hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng,
khẳng đònh việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần và nhấn mạnh thêm: “… các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Tiếp tục cách phân
đònh thành phần kinh tế như Đại hội VIII đã nêu ra và xuất phát từ thực tiễn, Đảng ta
đã xác đònh thêm thành phần “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” bởi bộ phận kinh tế
này chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vò trí quan trọng trong nền kinh tế. Mặt khác,
thành phần này không đồng nhất với các thành phần kinh tế trong nước cả về mục
tiêu và cơ chế vận hành, cần có chính sách thu hút mạnh hơn và quan tâm phân tích,
điều chỉnh để bảo đảm mối tương quan hợp lý với các thành phần kinh tế trong nước,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Vấn đề
hình thành một cấu trúc quan hệ sản xuất mới với các thành phần kinh tế nêu trên
thực sự đóng vai trò mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Kế thừa các quan điểm và đònh hướng của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đại hội IX nhấn mạnh: “Con đường công nghiệp hóa của nước ta cần
và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy
vọt”. Đồng thời, tiếp tục khẳng đònh quan điểm: “… gắn chặt việc xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là yêu cầu cấp thiết
của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước và
các nền kinh tế khác, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển
của nền kinh tế tri thức, mặt khác, Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để rút
ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
o Về cơ chế quản lý, Đảng ta khẳng đònh: “tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố
thò trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước”, với việc thúc
đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thò trường theo đònh
hướng xã hội chủ nghóa như thò trường hàng hóa và dòch vụ, thò trường lao động, thò
trường khoa học – công nghệ, thò trường vốn, thò trường bất động sản… Đồng thời,
tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vó mô của nhà nước, với chức năng cơ bản là
đònh hướng phát triển, tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt
động, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng luật pháp và chính sách…
Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thò trường.
Việc hiện thực hóa các đònh hướng nêu trên thể hiện thông qua việc hoàn thiện
các cơ chế, chính sách đã được ban hành, bổ sung và sửa đổi một số bộ luật và luật,
đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đặt ra. Mặt khác, công tác xây dựng thể chế và cải
cách thủ tục hành chính đã có những bước tiến nhất đònh. Nhiều cơ chế, chính sách
mới như phát huy nội lực, chuyển dòch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu đi đôi với
việc mở rộng thò trường trong nước, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh… đã được ban hành.
o Trong giai đoạn trước đổi mới, chính sách công nghiệp hóa của Việt Nam
được xác đònh là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng nhằm tạo ra một nền công
nghiệp làm nền tảng vật chất kỹ thuật cho chủ nghóa xã hội và cơ chế thực hiện nó
là cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Đến Đại hội VI đường lối phát triển kinh tế có
bước chuyển đổi căn bản. Từ đó qua Đại hội VII và VIII đã xác đònh quan điểm có ý
nghóa bước ngoặt trong tư duy phát triển là tiến hành công nghiệp hóa theo xu hướng
hiện đại, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và xác đònh nền kinh tế nước ta chuyển
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thò trường có sự
quản lý của nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa. Đại hội IX nhấn mạnh việc
cần và có thể rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc thay đổi này thực chất là thay đổi cách nhìn nhận về phương thức tiến hành
công nghiệp hóa ở nước ta. Từ chỗ nền kinh tế về cơ bản chỉ có một thành phần đã
hình thành nền kinh tế nhiều thành phần và từng bước hội nhập vào nền kinh tế quốc
tế; thò trường trong nước gắn với thò trường khu vực và thế giới. Phương thức này
nhấn mạnh đến vai trò của nền kinh tế mở, của nguyên tắc đa phương hóa và đa
dạng hóa kinh tế đối ngoại, hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghóa là sự nghiệp to lớn đòi hỏi một
trình độ nhất đònh về khoa học – công nghệ cũng như về kinh tế – xã hội. Vì vậy,
phải có những tiền đề và điều kiện cần thiết bảo đảm triển khai thuận lợi và thực
hiện thành công sự nghiệp to lớn này, cụ thể là:
1. Phải có sự ổn đònh về chính trò – xã hội
Muốn phát triển kinh tế, muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước
hết phải có môi trường chính trò – xã hội ổn đònh. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng đang đổi mới hệ thống chính trò nhằm củng cố nhà nước của dân, do dân, vì
dân, thực hiện dân chủ rộng rãi, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng
cương lónh, chiến lược ổn đònh và phát triển kinh tế – xã hội. Đây là tiền đề chính trò
bên trong cho công nghiệp hóa.
Môi trường quốc tế và xu hướng phát triển mới của thế giới cũng tạo ra tiền đề
bên ngoài thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa ở nước ta. Trước hết, đó là môi
trường hòa bình, xu hướng hòa hoãn và hợp tác quốc tế cho phép ta mở rộng quan hệ
bạn bè và hợp tác với nhiều nước, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ đa phương của quốc
tế. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới tạo điều kiện và thời cơ cho
những nước kém phát triển, trong đó có Việt Nam có thể sử dụng những thành tựu
mới của cách mạng khoa học và công nghệ, nguồn vốn nước ngoài vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng cách tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc
tế. Sự lớn mạnh của các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ, sự
thức tỉnh của nhân loại về một thế giới mới cũng là hoàn cảnh thuận lợi cho các nước
kém phát triển đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế. Mấy
chục năm qua, một số nước đã biết lợi dụng hoàn cảnh quốc tế đẩy nhanh quá trình
này trong thời gian ngắn, từ một nước lạc hậu kém phát triển trở thành một nước
công nghiệp.
2. Tích lũy vốn là điều kiện có tầm quan trọng bậc nhất
Có hai nguồn để tích lũy vốn:
Một là, tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là, dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ.
Trong hai nguồn đó, nguồn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân xét về lâu dài
là nguồn chủ yếu, có vai trò quyết đònh. Song, nguồn vốn từ bên ngoài cũng rất quan
trọng, nhất là chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội.
Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ sở nâng cao
hiệu quả sản xuất: nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất
cả các thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội.
Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất
lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới, hợp
lý hóa sản xuất, xóa bỏ cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý cũ, chuyển sang cơ chế thò
trường có sự quản lý của nhà nước.
nước ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội, tăng tích lũy, trước hết và
chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt nguồn lao động, tập trung sức phát triển
nông nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu; đẩy mạnh
một số ngành công nghiệp khai thác; phát huy năng lực của công nghiệp hiện có và
xây dựng mới những cơ sở cần thiết, trực tiếp phục vụ chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội; tích cực thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống xa
hoa, lãng phí, triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Cùng với việc tạo vốn, vấn đề quan trọng là phải có phương thức huy động, sử
dụng và quản lý vốn tối ưu, đem lại hiệu quả cao.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân lành nghề
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công nhân
đủ về số lượng và chất lượng, bảo đảm cho việc tổ chức, triển khai và thực hiện
thành công những chủ trương, biện pháp xây dựng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu đội ngũ này phải đồng bộ bao gồm cán bộ khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội, khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong
các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật… Những cán bộ và công nhân này phải
giỏi về chuyên môn, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghóa, tận tụy phấn đấu vì
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân phải tiến hành với tốc độ và quy mô
thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hóa. Đi đôi
với việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ, công nhân, phát
huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để tạo ra
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và tình hình kinh tế – xã hội
Đây là một trong những căn cứ rất quan trọng để hoạch đònh chiến lược, chủ
trương, biện pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, công nghiệp và các ngành
của nền kinh tế quốc dân. Do đó, công tác điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và
tình hình kinh tế – xã hội của đất nước vẫn phải đi trước một bước, phải đạt chất
lượng cao, bảo đảm chính xác, cụ thể, kòp thời… để hoạch đònh đúng và triển khai tốt
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ và sử dụng công
nghệ mới
Công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ cần được xúc tiến mạnh mẽ nhằm
vạch ra phương hướng chính xác cho việc lựa chọn và sử dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học và công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghóa
xã hội.
Khoa học bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật và
công nghệ… phải bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết đònh quan trọng của các cấp
lãnh đạo quản lý, là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
của hoạt động kinh tế – xã hội. Trong việc phát triển nghiên cứu khoa học và công
nghệ hiện nay, cần chú trọng nghiên cứu ứng dụng những công nghệ thích hợp với
điều kiện của nước ta; đồng thời nghiên cứu ứng dụng có trọng điểm một số công
nghệ hiện đại thành những ngành mới với công nghệ cao hơn như công nghệ dầu khí,
hóa dầu, điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, công nghệ gia công chế biến…
6. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Tiến hành quá trình công nghiệp hóa ở các nước kinh tế kém phát triển là nhiệm
vụ vô cùng khó khăn, gian khổ.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và xu hướng toàn
cầu hóa đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc; đồng thời cũng tạo ra khả năng và
điều kiện để các nước tham gia vào phân công hợp tác quốc tế. Đặc điểm đó của
thời đại cho phép các nước chậm phát triển mở rộng các quan hệ kinh tế với nước
ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, đào tạo cán bộ, công
nhân… thông qua việc đa phương hóa các quan hệ và đa dạng hóa các hình thức hoạt
động kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Biết khai thác và sử
dụng khéo léo các nguồn lực bên ngoài để huy động tối đa mọi nguồn lực và lợi thế
bên trong sẽ tạo ra các tiền đề cần thiết để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Song, việc tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài, lại tùy thuộc vào khả năng hấp thụ ở trong nước. Do đó, tự lực tự cường,
chuẩn bò tốt các điều kiện về mọi mặt ở trong nước là yêu cầu cơ bản để thu hút và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Tóm lại, những tác dụng cơ bản của công nghiệp hóa đối với nền kinh tế đất
nước hiện nay có một vai trò quan trọng, nó cải biến nước ta từ nước nông nghiệp lạc
hậu thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. đây, nước công
nghiệp cần được hiểu là một nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp
trở thành phổ biến trong các ngành và các lónh vực của nền kinh tế. Tỷ trọng công
nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP cả về lực lượng lao động đều vượt trội hơn so
với nông nghiệp. Công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa nhằm xây dựng nước ta
theo hướng hiện đại sánh ngang được với các nước phát triển khác trên thế giơí. Đẩy
mạnh công nghiệp hóa sẽ giúp ta khơi dậy được tiềm năng kinh tế của đất nước, giúp
ta phát huy tốt những nguồn lực hạn hẹp của chúng ta một cách có hiệu quả. Thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giúp khơi dậy tiềm năng của lực lượng
sản xuất ở nước ta để xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp dựa trên chế độ công
hữu xã hội chủ nghóa về tư liệu sản xuất. Sau một thời gian chủ trương thực hiện:
bước đầu đã tạo được những chuyển biến tốt về mặt kinh tế - xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân, tạo được những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghóa ở những chặng đường tiếp theo của quá trình đổi mới để tiến lên
chủ nghóa xã hội. Tại Đại hội IX Đảng ta đã chỉ ra: “Chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội 10 năm 2001 – 2010 nhằm: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực
con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa được hình thành về cơ bản; vò thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao”
1
.
MỤC LỤC
MỞ BÀI 1
CHƯƠNG I: CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 2
III. TÍNH TẤT YẾU CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 2
4. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ⅸ , Nxb. Chính trò quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr. 89 – 90.
5. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghóa xã hội ở nước ta 4
6. Tác dụng của công nghiệp hóa 5
IV. NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
NƯỚC TA 6
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của chủ nghóa xã hội, thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và ứng
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ 6
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghóa là quá trình hình thành cơ
cấu kinh tế mới 8
Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo đònh hướng xã hội chủ nghóa 9
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA 10
I. GIAI ĐOẠN TẠO TIỀN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA: TỪ NĂM 1986 ĐẾN
NĂM 1995 10
II. GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA: TỪ NĂM 1996
ĐẾN NAY 12
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 16
1. Phải có sự ổn đònh về chính trò – xã hội 16
2. Tích lũy vốn là điều kiện có tầm quan trọng bậc nhất 16
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân lành nghề 17
4. Điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội 17
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ và sử dụng
công nghệ mới 17
6. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại 18
KẾT LUẬN 19