Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.5 KB, 9 trang )

Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
A phần mở đầu:
1/ Cơ sở lí luận:
Văn học Việt Nam là nền văn học mang đậm tính nhân văn. Một trong những
giá trị độc đáo ấy là hình tợng ngời phụ nữ luôn đợc phản ánh sâu đậm và cao đẹp,
đặc biệt là trong văn học trung đại. Học văn học nớc nhà không thể không tìm hiểu
về đề tài chủ yếu và đặc sắc này. Tuy nhiên trong thực tế, văn học trung đại vốn khó
và có phần xa cách về thời gian nên thờng có nhiều hạn chế trong dạy và học. Vì
mỗi thời kì có một đặc trng riêng biệt song vẫn có những giá trị mang tính truyền
thống nên để hiểu hôm nay không thể không quan tâm đến quá khứ. Việc nắm vững
hình tợng ngời phụ nữ giai đoạn trung đại có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ
với giai đoạn đó mà còn là cơ sở để nắm vững các giai đoạn trớc và sau nó. Thời kì
từ TK X đến hết TK XIX là vô cùng quan trọng vì nó có nhiều biến động lịch sử
quyết định sự phát triển của dân tộc, vì thế văn học cũng vô cùng đa dạng, phong
phú và có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Thế nhng trong chơng trình THCS lại chỉ dành cho giai đoạn này một lợng
thời gian không nhiều và nội dung còn hạn hẹp, việc tìm hiểu sâu hơn hoàn cảnh
lịch sử, các vấn đề về ngời phụ nữ có phần quá sơ lợc, thiếu cơ sở. Với các em, nhất
là với học sinh giỏi càng cần thiết phải nắm đợc hoàn cảnh xã hội, những đặc trng
cơ bản để tìm hiểu sâu sắc hơn giá trị cũng nh nét đặc thù mỗi tác phẩm, trong mỗi
trào lu; vì vậy chuyên đề này sẽ phần nào giúp các em, các thầy có kiến thức đầy đủ
toàn diện hơn về hình tơng trung tâm trong giai đoạn văn học quan trọng này.
3/ Mục đích của đề tài:
Nhằm hiểu rõ hơn về những vẻ đẹp tâm hồn và thân phận bi kịch của ngời
phụ nữ, qua đó nắm đợc đặc trng chủ yếu của mỗi trào lu, nắm đợc những giá trị
chủ yếu về nội dung, nghệ thuật của trào lu, của từng tác giả, vận dụng vào một số
vấn đề cụ thể để củng cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng.
4/ Phạm vi nghiên cứu: Các sáng tác văn học VN giai đoạn từ TK X đến hết
TK XIX. Tập trung chủ yếu vào các tác phẩm Truyện Kiều, Chuyện ngời con gaí
Nam Xơng, Thơ Hồ Xuân Hơng Trong mỗi văn bản, chỉ tập trung làm rõ vẻ đẹp và


bi kịch của nhân vật ngời phụ nữ và nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật ấy và số
vấn đề tham khảo.
5/ Phơng pháp nghiên cứu:
Dùng phơng pháp thống kê, hệ thống hoá, so sánh đối chiếu.
B. nội dung Chuyên đề
Ngời phụ nữ trong văn học trung đại
Chyên đề ngữ văn
1
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ trớc thế kỉ XVI, nhân
vật phụ nữ đã thoáng hiện trong các tác phẩm văn xuôi tự sự cũng nh trong thơ ca.
Đó là hình ảnh những vị anh hùng dân tộc, nh Bà Trng, Bà Triệu, sống đánh giặc,
chết hoá thành phúc thần tiếp tục giúp dân giúp nớc; hoặc các nhân vật khác nh Mị
Châu, vì ngây thơ mà bị kẻ thù lợi dụng để đến mất nớc tan nhà; nh công chúa Tiên
Dung thích ngao du sơn thuỷ, bất chấp luật lệnh của vua cha, tự ý kết duyên cùng
chàng đánh cá Chử Đồng Tử nghèo khó không một mảnh khố che thân; hay nàng
quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi một đứa vừa xấu vừa đen nhng có
giọng hát mê hồn Trong lĩnh vực thơ ca, ta cũng thấy có một số bài, hoặc ngâm
vịnh về nhân vật lịch sử nh các bài Vịnh Mị Ê, Vịnh nàng Điêu Thuyền, Vịnh Chiêu
Quân, hoặc các bài nói về nỗi buồn thơng của các thiếu phụ, kẻ thì bị tình duyên
dang dở nh bài Chức Nữ nhớ Ngu Lang, Tiên tử mong Lu Nguyễn, Hoàng giang
điếu Vũ Nơng Tuy nhiên, ở giai đoạn này, nhân vật phụ nữ ch a trở thành đối tợng
quan tâm chính của văn học mà chỉ mới xuất hiện lẻ tẻ trong văn xuôi lịch sử, trong
thần phả, trong truyện dân gian, hoặc trong các bài thơ điếu, vịnh,
Đến thế kỉ XVI, đặc biệt là thế kỉ XVIII, phụ nữ đã trở thành một trong
những đề tài lớn của văn học. Các thể loại văn học dờng nh đều xoay quanh việc
phản ánh số phận ngời phụ nữ. Vì vậy, trong văn học giai đoạn này, hình tợng ngời
phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và toàn diện trên nhiều bình diện. Về văn
xuôi, các tác phẩm nổi tiếng viết về đề tài phụ nữ có Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI), Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (1705

1748), Kiến văn lục của Vũ Trinh (1759 1828), Truyện Nôm cũng có rất
nhiều tác phẩm viết về đề tài này, nhng tiêu biểu hơn cả là các truyện Tống Trân
Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa , Quan Âm Thị Kính, và các truyện Song
Tinh Bất Dạ của Nguyễn Hữu Hào(? 1713), Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự
(1743 1790), Truyện Kiều của Nguyễn Du (1766 1820), Sơ kính tân
trang của Phạm Thái (1777? 1813), Thơ ca viết về phụ nữ, nổi bật là thơ của
Hồ Xuân Hơng, Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn
Thị Điểm(?), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 1798),
Nói tóm lại, từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX, trong các thể loại văn học, thơ
ca cũng nh văn xuôi tự sự, tác phẩm viết bằng chữ Hán cũng nh viết bằng chữ Nôm,
d ờng nh nở rộ đề tài viết về ngời phụ nữ và hình tợng ngời phụ nữ nổi bật lên với
hai nét cơ bản:
1. Phụ nữ - hiện thân của cái đẹp.
2. Phụ nữ - hiện thân của số phận bi thơng.
I. Hình tợng ngời phụ nữ trong văn học
việt nam từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX
là hiện thân của cái đẹp.
Chyên đề ngữ văn
2
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
Nhân vật phụ nữ, ở thể loại tự sự hay trữ tình trong văn học trung đại, thờng
đẹp cả ngời lẫn nết, ít thấy có hiện tợng xấu ngời đẹp nết nh trong văn học dân
gian. Chính vì thế, các nhân vật chính diện là những phụ nữ trong văn học từ thế kỉ
XVI đến đầu thế kỉ XIX hầu hết có sự hài hoà giữa cái đẹp về hình thức với cái đẹp
về tâm hồn, họ là hiện thân của cái đẹp: đẹp ngời và đẹp nết.
Điều hầu nh mới lạ: các cô gái khi đi vào văn học giai đoạn này đều là những
giai nhân tuyệt thế.
Hạnh Nguyên trong Nhị độ mai là một cô gái đẹp rực rỡ:
Ngời đâu trong ngọc tráng ngà,
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc rà rà mây.

Chị em Thuý Vân và Thuý Kiều thì rõ ràng là khuôn mẫu của sắc đẹp:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cời, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nớc tóc tuyết nhờng màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh .
Sắc đẹp của ngời cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia
Thiều đã đến mức siêu phàm:
Chìm đáy nớc cá lừ đừ lặn,
Lửng lng trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hơng tơi đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.
Hồ Xuân Hơng còn muốn vĩnh hằng hoá sắc đẹp của ngời con gái trong bài
thơ Đề tranh tố nữ:
Hỏi bao nhiêu tuổi hới cô mình.
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa nh in tờ giấy trắng,
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh.
Tuy nhiên, sắc đẹp của đa số nhân vật nữ trong văn học giai đoạn này thờng
gắn liền với một phần phẩm chất không thể thiếu đợc, đó là tài. ở họ, sắc và tài tạo
thành một cặp đặc điểm không tách rời nhau. Theo quan niệm của các tác giả văn
học trung đại, tài gồm bốn mặt sau đây: cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), nghĩa
là: có tài đánh đàn, chơi cờ, làm thơ và vẽ. Có thể coi Thuý Kiều của Nguyễn Du là
nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất nói trên. Tiếng đàn của nàng làm cho Kim Trọng
phải ngơ ngẩn sầu, làm cho Thúc Sinh cũng tan nát lòng và làm cho Hồ Tôn
Hiến nhăn mày, rơi châu. Tài làm thơ của Kiều nhanh đến khó mà tởng tợng nổi:
- Tay tiên một vẫy đủ mời khúc ngâm.

- Tay tiên gió táp ma sa
Đã nhanh, lại hay! Thơ của Kiều có thể cảm thông đợc quỷ thần, khiến hồn
ma Đạm Tiên phải hiện lên, khiến viên quan phủ mặt sắt đen sì phải rủ lòng th-
Chyên đề ngữ văn
3
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
ơng, không những chỉ tha cho Kiều mà còn đứng ra làm lễ tác hợp cho nàng đợc lấy
Thúc Sinh, và cho Hoạn Th, một con ngời tai quái cũng phải thốt lên:
Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thơng
Tuy vậy, ca ngợi tài và sắc của ngời phụ nữ không phải là mục đích của tác
gia văn học thế kỉ XVI - đầu XIX. Tài và sắc chỉ là một phơng diện của cái đẹp và
làm nền để bộc lộ bản chất của cái đẹp: đẹp nết.
Khi nói đến đẹp nết là ta đã đề cập tới phạm trù đạo đức. Trong văn học dân
gian ngời ta cho rằng:
Tốt gỗ hơn tốt nớc sơn
Xấu ngời đẹp nết còn hơn đẹp ngời.
Nhng, nh trên đã nói, trong văn học viết không có sự đối lập giữa hình thức
(xấu ngời) với nội dung (đẹp nết). Hình thức và nội dung thờng có sự hoà quyện
sóng đôi. Vì thế, ở các truyện truyền kì cũng nh truyện Nôm, trong bất cứ hoàn
cảnh nào, nhân vật phụ nữ luôn toát lên một phẩm chất cao đẹp: đức hi sinh, lòng vị
tha và tấm tình chung thuỷ.
Trớc tai biến bất ngờ của gia đình, Thuý Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh
tình yêu của mình:
Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Rơi vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều phải sống một cuộc đời nhơ nhớp. Có lần
nàng đã tự tử để mong thoát khỏi kiếp sống đoạ đày đó. Nhng khi Thúc Sinh ngỏ lời
cầu hôn, Kiều không coi đấy là cơ may phải chớp lấy. Điều đầu tiên Kiều nghĩ đến
là hạnh phúc của Hoạn Th, ngời vợ hiện tại của Thúc Sinh. Nếu nh nàng lấy chàng
Thúc, một hiện thực không thể tránh khỏi cho Hoạn Th là:
Thêm ngời, ngời cũng bớt lòng riêng tây.

Rõ ràng, ngời bị thiệt thòi trớc hết là Hoạn Th. Tình cảm vợ chồng của Hoạn
Th sẽ bị chia sẻ. Kiều không đang tâm. Rồi khi đợc quan phủ và Thúc ông tác thành
cho lấy Thúc Sinh, có thể nói, đó là lúc Kiều đợc sống trong hạnh phúc ấm êm. Nh-
ng nàng không giành giật hạnh phúc cho riêng mình. Nàng nghĩ đến sự cô đơn, thiệt
thòi của Hoạn Th, do đó nàng chủ động nài nỉ chàng Thúc trở về thăm vợ:
Xin chàng hãy trở lại nhà.
Trớc ngời đẹp ý, sau ta biết tình.
Làm việc này, Kiều hoàn toàn dự cảm đợc điều gì đang đợi mình sau chuyến
viếng thăm vợ của chàng Thúc. Nàng nói:
Dù khi sóng gió bất bình
Lớn ra phận lớn, tôi đành phận tôi.
Biết hi sinh mình cho ngời là một trong những đức tính của Kiều nói riêng và
của các nhân vật phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI - đầu XIX nói chung.
Cùng với lòng vị tha, tấm tình thuỷ chung son sắt cũng là một trong những
phẩm chất nổi bật của ngời phụ nữ.
Kiều ăn ở với mọi ngời trớc sau nh bát nớc đầy. Bà quản gia, vãi Giác Duyên,
Thúc Sinh là những ng ời đã từng cu mang, cứu vớt Kiều. Sau này, khi đã trở
thành vợ của ngời anh hùng cái thế Từ Hải, Kiều vẫn nhớ tới ơn sâu nghĩa nặng của
họ. Nàng đền ơn chàng Thúc thật là trọng hậu:
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Chyên đề ngữ văn
4
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
Gặp lại Bà quản gia và vài Giác Duyên, Kiều nhắc tới công ơn cứu giúp của
họ bằng lời nói vừa chân thật, vừa cảm động:
Nhớ khi lỡ bớc sảy vời,
Non vàng cha dễ đền bồi tấm thơng.
Nghìn vàng gọi chút lễ thờng,
Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!.

Hình tợng Ngọc Hoa trong truyện Phạm Tải Ngọc Hoa còn đặc sắc hơn.
Có thể nói, đó là hình tợng lí tởng của tình yêu chung thuỷ sắt son. Là con gái Trần
tớng công, một viên quan to và giàu có, nhng Ngọc Hoa lại yêu và kết duyên cùng
Phạm Tải chàng hàn sĩ lỡ thời, không chốn lơng thân, không nơi trú ngụ, phải đi
ăn xin. Vua Trang Vơng ép nàng bỏ Phạm Tải để lấy mình, nàng kiên quyết cự
tuyệt. Phạm Tải bị Trang Vơng sát hại, Ngọc Hoa ôm xác chồng về nhà. Cái chết
không chia lìa đợc tình yêu của họ, suốt ba năm ròng, Ngọc Hoa vẫn gắn bó với ng-
ời chồng đã chết ấy:
Ngày ngày ngồi ở bên ngoài,
Đêm thời mở nắp quan tài vào trong.
Đá vàng khăng khăng thuỷ chung,
Cổ tay lại gói đầu chồng nh xa.
Ba năm nh vậy trôi qua. Lấy cớ nàng mãn tang chồng, Trang Vơng sai ngời
đến bắt Ngọc Hoa về kinh đô, ép nàng làm vợ. Ngọc Hoa không chịu đầu hàng,
nàng tự tử để giữ trọn tình nghĩa với chồng. Xuống đến âm cung, nàng còn tìm gặp
Phạm Tải, cùng đa nhau đến gặp Diêm Vơng để kiện Trang Vơng, bắt tên này phải
đền tội. Tình yêu chung thuỷ đã giúp họ chiến thắng. Cuối cùng Trang Vơng bị bỏ
vào vạc dầu, Phạm Tải và Ngọc Hoa đợc sống lại, trở về dơng thế, Phạm Tải lên
ngôi trị vì thiên hạ,
Mỗi một thể loại văn học, mỗi một tác giả văn học lại có cách biểu đạt riêng
về cái đẹp của ngời phụ nữ. Hồ Xuân Hơng đã hình tợng hoá thẩm chất của ngời
phụ nữ trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Bánh trôi nớc theo kiểu Hồ Xuân Hơng:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nớc non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Dù cuộc đời có bị vùi dập bảy nổi ba chìm thì tấm lòng son của ngời phụ
nữ vẫn đợc giữ gìn trọn vẹn. Đó là nét nổi bật thứ nhất về hình tợng ngời phụ nữ
trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI - đầu XIX.
II. hình tợng ngời phụ nữ trong văn học

thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX là hiện
thân của những số phận bi thơng.
Dới chế độ phong kiến, mọi thế lực xã hội, kể cả gia đình, đều có thể chà đạp
lên thân phận ngời phụ nữ.
Đứng đầu các thế lực xã hội thời bấy giờ là vua chúa. Để phục vụ cho việc
ăn chơi truỵ lạc, bọn chúng đã kén hàng trăm cô gái trẻ trung, xinh đẹp vào cung
Chyên đề ngữ văn
5
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
làm phi tần. Chế độ cung tần dã man đã làm cho tuổi xuân và sắc đẹp của các cô gái
bị chôn vùi trong cung cấm. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là tiếng
oán thán đến rớm máu cho những số phận đau thơng đó. Khi đã vào cung, ngoại trừ
một vài ngời có cái may mắn đợc vua chúa sùng ái, còn hầu hết các cung nữ đều
mau chóng bị ruồng bỏ, lãng quên. Họ chỉ còn biết âm thầm thở than, oán trách:
Hoa này bớm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng.
Dân gian thờng nói:
Vua thì nhiều vợ nhất đời
Ba trăm mĩ nữ, sáu mơi cung tần.
Bởi quá nhiều cung tần mĩ nữ nh vậy, ngời cung phi không thể tìm đợc cho
mình chỗ đứng trong cái gia đình một chồng mà có tới vài ba trăm vợ ấy. Họ
buộc lòng phải thốt lên:
Ngán thay cái én ba nghìn
Một cây cù mộc biết chen cành nào.
Sống âm thầm cô đơn, để cho tuổi xuân tàn tạ và trở thành những ngời không
chồng không con Bỗng không mà hoá ra ngời vị vong (Ngời vị vong: ngời có
chồng bị chết) rồi chết già trong cung cấm, đó là số phận không thể tránh khỏi của
ngời cung nữ.
Chế độ cung tần còn làm cho nhiều gia đình tan nát, cha xa con, vợ lìa chồng.
Ngọc Hoa trong truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa là một ví dụ tiêu biểu cho những

số phận bi ái. Nàng bị vua Trang Vơng ép phải bỏ Phạm Tải ngời chồng mà
nàng hết mực yêu thơng để lấy hắn. ép không đợc, Trang Vơng đã dùng thủ đoạn
độc ác: giết Phạm Tải, Ngọc Hoa đau đớn tuyệt vọng:
Trời cao đất rộng có hay,
Sát phu, kiếp phụ, sự này thấu cha?
Chiến tranh cũng là một trong những tai hoạ giáng xuống đầu ngời phụ nữ.
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm(?) là tiếng kêu khắc
khoải của ngời vợ trẻ có chồng bị cuốn vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ngời chồng
ra trận đối đầu với cái chết. Ngời vợ ở nhà thì mòn mỏi chờ mong, lo âu phấp
phỏng: lo cho chồng nơi chiến địa, lo cho tuổi xuân của mình lặng lẽ trôi qua:
Thiếp rầu thiếp, lại rầu chàng chẳng quên.
Nỗi cô đơn gặm nhấm dần tuổi trẻ, ngời chinh phụ không khỏi lo lắng cho sự
tàn tạ của mình:
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.
Nàng khao khát đợc gặp lại chồng dù chỉ một lần thôi, song chiến tranh đẩy
họ xa nhau, mỗi ngời một phơng biền biệt:
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Sầu chia li giày vò, ngời chinh phụ chỉ còn biết tìm chút hạnh phúc trong
mộng mị:
Duy còn hồn mộng đợc gần,
Đêm đêm thờng tới giang tân tìm ngời,.
Nhng mộng rồi phải tỉnh, và khi tỉnh dậy càng thấy buồn khổ hơn:
Giận thân thiếp lại không bằng mộng
Đợc gần chàng bến Lũng thành Quan,
Khi mơ những tiếc khi tàn
Chyên đề ngữ văn
6
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
Tỉnh trong giấc mộng muôn vàn cũng không.
Còn chiến tranh, ngời phụ nữ còn phải chịu nhiều đau khổ. Tuy nhiên, dẫu

sao những nỗi bất hạnh mà ngời cung nữ, nàng Ngọc Hoa, ngời chinh phụ, phải
gánh chịu đều do hoàn cảnh khách quan gây nên. Còn có những nỗi bất hạnh làm
cho phụ nữ đau đớn hơn nhiều, đó là những tai hoạ bởi chính ngời thân trong gia
đình giáng xuống đầu họ.
Đối với ngời phụ nữ, gia đình là tất cả, vì gia đình là tổ ấm, là chốn nơng
thân, là nơi có thể tìm thấy niềm vui sự an ủi. Nhng biết bao kiếp ngời phụ nữ đã
gặp cảnh gia đình ngang trái, nhất là khi lấy phải ngời chồng chẳng ra gì. Bài thơ
Khóc tổng Cóc của Hồ Xuân Hơng nh tiếng thở dài của ngời vợ khi đã trút đợc
gánh nặng về ông chồng:
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Ngàn vàng xin chuộc dấu bôi vôi!
Có lẽ tiêu biểu hơn cả những số phận cay đắng do ngời chồng gây ra là nhân
vật Vũ Thị Thiết trong truyện Ngời con gái Nam Xơng của Nguyễn Dữ.
Nh tất cả các cô gái nông thôn, Vũ Nơng thuỳ mị nết na, lại thêm có t dung
tốt đẹp. Nhng số phận nàng thật hẩm hiu: lấy phải ngời chồng vũ phu lại có tính
hay ghen. Khi chồng đi lính, nàng đã một mình vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc
mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nhng rồi, nh mẹ chồng đã nói: Dầu khan, bấc hết, số
tận mệnh cùng, bà đã qua đời. Vũ Nơng lại một mình lo liệu ma chay tế lễ rất là
chu đáo. Có thể nói, Vũ Nơng là mẫu mực về ngời con dâu hiếu thảo đối với mẹ
chồng.
Suốt ba năm xa chồng, nàng một lòng giữ gìn trinh tiết chờ đợi. Sau ba năm,
chồng đã trở về bình yên, hạnh phúc tởng nh cầm chắc trong tay. Nhng mà, cha
vui sum họp đã sầu chia phôi. Vì hiểu lầm lời nói của đứa con thơ, cơn ghen trong
lòng Trơng Sinh bùng lên không sao dập đợc. Niềm vui đoàn tụ mau chóng bị tiêu
tan, chỉ còn sự giận giữ đến phũ phàng của ngời chồng: Sinh thờng mắng mỏ,
nhiếc móc và đánh đuổi đi. Chồng là chỗ dựa duy nhất mà còn ruồng bỏ thì nàng
biết nơng tựa vào đâu? Nỗi oan của nàng ai hay? Danh dự bị sỉ nhục, trinh tiết bị
nghi ngờ! Cuối cùng, Vũ Nơng đành phải đâm đầu xuống sông Hoàng Giang tự tử.

Đấy là kết cục của một kiếp ngời phụ nữ đã làm trọn phận sự của ngời dâu thảo và
làm hết nghĩa vụ của ngời mẹ hiền, ngời vợ trinh tiết thuỷ chung. Còn biết bao cô
gái chịu số phận bi thơng nh vậy! Cuộc đời nàng Nhị Khanh trong truyện Ngời
nghĩa phụ ở Khoái Châu của Nguyễn Dữ cũng kết thúc bi ai nh Vũ Nơng. Nhị
Khanh phải thắt cổ tự tử vì ngời chồng đã đem nàng ra làm món hàng gán nợ trong
một canh bạc. Truyện của tác giả Vũ Trinh sau này cũng đề cập tới nhiều số phận
đau khổ của ngời phụ nữ do gia đình gây ra. Vì sự ngăn cách đẳng cấp, cô gái làm
nghề hát rong bị chàng Tiến sĩ họ Vũ bỏ rơi (truyện Ca nữ họ Nguyễn). Vì tham
giàu, ngời bố ép gả cô gái dệt vải cho tên trọc phú (truyện Sống lại). Rồi phú ông
họ Trần chối từ mối tình của Đào sinh, chàng lái đò nghèo khó với con gái ông
khiến nàng phải ôm mối hận tình (Chuyện tình ở Thanh Trì), Tất cả những cuộc
ép duyên trên đều dẫn đến cái chết bi thảm. Cô gái dệt vải bị ngời chồng vũ phu
dùng cuốc phang chết, con gái phú ông vì không lấy đợc chàng lái đò nên khắc
khoải buồn đau thành bệnh qua đời, Còn nhiều và rất nhiều những kiếp ng ời nh
Chyên đề ngữ văn
7
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
vậy. Song, có lẽ, điển hình cho nhân phẩm và tài sắc bị vùi dập vẫn là nhân vật
Thuý Kiều.
Tài sắc của Kiều, nh Nguyễn Du đã nói:
Sắc đành đòi một, tìa đành hoạ hai.
Hơn nữa, Kiều lại có lòng vị tha, có trái tim đôn hậu. Vậy mà, đời nàng là
một chuỗi dài những bi kịch hết hoạ nọ đến nạn kia. Mới 15 tuổi đầu, Kiều đã
phải bán mình chỉ vì thằng bán tơ vu oan giá hoạ cho gia đình. Bán mình đã là điều
đau khổ. Nhng cái chính là, tài sắc nh Kiều mà phải đem thân bán cho tên ô trọc
Mã Giám Sinh tuổi ngoại tứ tuần. Nỗi đau đớn bất ngờ ấy khiến Kiều không thốt
lên đợc một lời nào. nàng chỉ còn biết khóc:
Thềm hoa một bớc lệ hoa mấy hàng.
Từ đây, nớc mắt của nàng sẽ nhỏ theo từng bớc chân nàng trong suốt 15 năm
trời lu lạc. Khi mới bán mình, Kiều cha hình dung đợc thân phận mình sau này sẽ ra

sao. Nàng chỉ biết rằng:
Từ đây góc bể chân trời
Nắng ma thui thủi quêngời một thân.
Oái oăm thay, con ngời tài sắc đáng giá nghìn vàng nh Kiều, sau khi qua
tay Mã Giám Sinh, lại rơi vào lầu xanh bẩn thỉu của Tú Bà. Kiều quằn quại khi phải
sống cuộc đời nhơ nhớp của gái lầu xanh:
Khi tỉnh rợu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thơng mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác nh hoa giữa đờng.
Mặt sao dày gió dạn sơng,
Thân sao bớm chán ong ong chờng bấy thân!.
Đợc Thúc Sinh cứu khỏi lầu xanh của Tú Bà, Thuý Kiều lại bị Bạc Bà, Bạc
Hạnh đẩy vào lầu xanh lần thứ hai.
Tài sắc lẽ ra phải đợc nâng niu trân trọng. Song, dới chế độ phong kiến, ngợc
lại, tài sắc trở thành nguyên nhân để nhân phẩm bị chà đạp. Thoạt tiên, tài sắc của
Thuý Kiều bị biến thành món hàng trong tay những phờng bán thịt, quân buôn
ngời:
Đắn đo cân sắc cân tài,
ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Sau này, Hoạn Th đem tài đàn của Kiều ra để hành hạ nàng, bắt nàng hầu đàn
Thúc Sinh. Và cuối cùng, Hồ Tôn Hiến cũng dùng tiếng đàn của Kiều để nhục mạ
nàng. Nh chúng ta đã biết, trong đời Kiều, Từ Hải là ngời duy nhất giúp nàng ngẩng
cao đầu cả cời và ân oán rạch ròi. Đối với Kiều, Từ Hải là ân nhân (cứu Kiều ra
khỏi lầu xanh, giúp nàng đền ơn báo oán, đa Kiều từ thân phận gái lầu xanh lên bậc
mệnh phụ phu nhân ), là ng ời tri kỉ, là chồng, Từ Hải là tất cả cuộc đời Kiều.
Vậy mà, vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến quan trọng thần, đại diện triều đình Kiều đã
khuyên Từ Hải ra hàng để dẫn đến cái chết của Từ. Đời Kiều rất nhiều nỗi đớn đau,
nhng nỗi đớn đau lớn nhất vẫn là là việc Từ Hải chết. Kiều đã khóc, khóc suốt 15
năm, nhng cha bao giờ nàng khóc nhiều nh khi Từ Hải chết. Nàng khóc cho chồng,

khóc cho mình, khóc cho đời, khóc cho ngời tri kỉ mà mình vô tình làm hại. Nỗi
đau đớn đó làm cho Kiều nh bị tan ra thành nớc mắt:
Dòng thu nh giội cơn sầu.
Chyên đề ngữ văn
8
Lê Quỳnh Giang Trờng THCS Phúc Đồng
Đang trong cơn tuyệt vọng nh vậy, Kiều lại phải dùng tài đàn của mình để
mừng công Hồ Tôn Hiến, kẻ vừa giết Từ Hải. Đó là là sự sỉ nhục lớn nhất trong đời
Kiều. Tiếng đàn mà Hoạn Th bắt Kiều hầu rợu Thúc Sinh đã não nùng:
Bốn dây nh khóc nh than
Tiếng đàn hầu rợu Hồ Tôn Hiến còn não nùng hơn! Đó không chỉ là tiếng
khóc, tiếng than, mà là tiếng máu bật ra từ trái tim đau khổ:
Một cung gió thảm ma sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!.
Sự chà đạp nhân phẩm đã lên đến cùng cực. Kiều không còn lí do gì để sống.
Nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đờng, kết thúc một kiếp tài hoa bị đoạ đày.
Ngày nay, đọc lại văn học trung đại Việt Nam, từ Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, từ Truyền kì tân phả của Đoàn
Thị Điểm đến thơ Hồ Xuân Hơng, từ Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều
đến Kiến văn lục của Vũ Trinh, ta thấy hình t ợng ngời phụ nữ nổi bật lên hai
nét lớn: phụ nữ hiện thân của cái đẹp và phụ nữ hiện thân của những số phận bi th-
ơng. Đấy là một trong những thành công lớn của các tác gia văn học Việt Nam thế
kỉ XVI - đầu thế kỉ XIX. Nó đã góp phần vào trào lu nhân đạo chủ nghĩa, góp phần
vào tiếng nói đòi giải phóng con ngời, nhất là giải phóng phụ nữ.
C- Kết luận:
Nảy sinh và phát triển trong giai đoạn có nhiều biến động lớn lao của lịch sử
nhà nớc phong kiến Việt Nam, văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XIX có nhiều đóng góp lớn cho Văn học nớc nhà, đặc biệt là xây dựng hình tợng
ngời phụ nữ mang đậm nét truyền thống dân tộc và thấm đợm cảm hứng nhân văn
cao đẹp, góp phần tô đậm truyền thống nhân đạo và thành tựu nghệ thuật cho văn

học giai đoạn này. Nó là sự kế thừa và khẳng định truyền thống yêu nớc, nhân đạo
đã có trong VH thời viễn cổ, tạo những nền móng quan trọng cho VH Việt Nam
hiện đại phát triển và hoàn thành sứ mệnh tơng xứng với tầm vóc dân tộc.
Chyên đề ngữ văn
9

×