Tiêu chí và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
Như chúng ta đã biết, nhãn hiệu hàng hoá là một tài sản trí tuệ quý giá,
có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và
phát triển thị trường của một doanh nghiệp, dù doanh nghiệp đó thực
hiện sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ. Theo thời gian, cùng với
sự phát triển kinh doanh, uy tín của nhãn hiệu ngày càng được bồi đắp,
dẫn đến giá trị của nó ngày càng tăng tiến, nhất là khi nhãn hiệu trở
thành nổi tiếng và được đông đảo người tiêu dùng biết đến. Vậy tiêu chí
để xác định, những quy định pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng hiện nay
như thế nào? Bài viết dưới đây của ông Trần Việt Hùng - Phó Cục
trưởng Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) sẽ giúp các
doanh nghiệp hiểu rõ hơn những vấn đề nêu trên.
Hàng năm có hàng trăm ngàn nhãn hiệu được đăng ký mới trên toàn thế
giới, tạo nên một tập hợp hàng chục triệu nhãn hiệu đang tồn tại và lưu
thông trên toàn cầu. Ví dụ: Tính đến cuối năm 2003, Hoa Kỳ có khoảng
1.600.000 nhãn hiệu đang tồn tại, Pháp có khoảng 1.000.000, Thái Lan
có khoảng 250.000 và Việt Nam có hơn 100.000 nhãn hiệu đã đăng ký.
Trong tập hợp nhãn hiệu, thương hiệu rất khổng lồ và đa dạng của các
hãng, công ty trên thế giới thì có một số xác định nhãn hiệu do được sử
dụng lâu dài, liên tục; do luôn gìn giữ chất lượng, uy tín; do có chính
sách quảng cáo xúc tiến thương mại mạnh mẽ và hiệu quả đã trở nên
nổi tiếng với rộng rãi người tiêu dùng hoặc với một bộ phận người tiêu
dùng chuyên về một lĩnh vực xác định. Vì vậy, từ cuối thế kỷ XIX đã
xuất hiện thuật ngữ quốc tế “nhãn hiệu nổi tiếng” (Well-known Mark).
Một kết quả tất yếu đối với các nhãn hiệu nổi tiếng là sự thu hút của
khách hàng lớn hơn, thị phần cũng lớn hơn so với các nhãn hiệu bình
thường, vì vậy sự xâm phạm quyền (dù vô tình hay hữu ý) đối với các
nhãn hiệu nổi tiếng sẽ trở nên thường xuyên và khốc liệt hơn. Ngoài ra
những hành vi nhái lại hay lợi dụng các nhãn hiệu nổi tiếng cho công
việc kinh doanh ở các ngành, hàng khác với các nhãn hiệu đó cũng sẽ
gây tổn thất về uy tín cho các nhãn hiệu này. Do đó, vấn đề bảo hộ hữu
hiệu nhãn hiệu nổi tiếng và coi việc tạo cho chúng sự bảo hộ đặc biệt
hơn đã trở thành mối quan tâm cũng như sự đồng thuận của các quốc gia
từ cuối thế kỷ XIX khi Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
(SHCN) cho tận đến ngày nay.
Việt Nam là quốc gia đang từng bước đi vào nền kinh tế thị trường và
trong những năm gần đây đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Việc quan tâm đến bảo hộ các nhãn hiệu nổi tiếng cũng trở thành vấn đề
quan trọng trong nhu cầu hoàn chỉnh khung pháp lý về sở hữu trí tuệ
(SHTT) phục vụ cho bản thân sự phát triển của nền kinh tế đất nước và
thu hút đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, Việt Nam là thành viên của Công
ước Paris về bảo hộ SHCN và đang thực hiện các quy định của Hiệp
định TRIPS/WTO nên có trách nhiệm phải thực hiện các cam kết về bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng quy định trong hai điều ước quốc tế này.
Thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng?
Cho đến nay các nước trên thế giới chưa có một bộ tiêu chí thống nhất
để công nhận nhãn hiệu nổi tiếng và cũng chưa có một bản danh sách các
nhãn hiệu nổi tiếng của thế giới. Tuy vậy, Tổ chức SHTT Thế gới
(WIPO) đã chủ trì thông qua Bản khuyến nghị chung cho các quốc gia
thành viên trong việc xác định và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Theo Bản khuyến nghị này cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia khi
đánh giá một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không cần dựa vào các tiêu chí
(có thể còn các tiêu chí khác): Mức độ nhãn hiệu được biết đến hoặc
thừa nhận của một bộ phận công chúng liên quan; thời gian và vùng địa
lý của việc sử dụng nhãn hiệu; thời gian và vùng địa lý của các hoạt
động xúc tiến nhãn hiệu (bao gồm quảng cáo, xuất bản hoặc giới thiệu
các sản phẩm tại hội chợ, triển lãm); thời gian và vùng địa lý mà nhãn
hiệu được đăng ký hoặc đã nộp đơn đăng ký nhằm chứng minh việc sử
dụng hoặc thừa nhận nhãn hiệu; các kết quả về chống vi phạm quyền đối
với nhãn hiệu (bao gồm cả các quốc gia đã công nhận nhãn hiệu đó là
nhãn hiệu nổi tiếng); giá trị được đánh giá của nhãn hiệu.
Các quy định quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
Điều 6 bis của Công ước Paris về bảo hộ SHCN (1883) đã quy định
“Các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm từ chối hoặc huỷ bỏ
đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự sao
chép, bắt chươc, biên dịch và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã
được cơ quan thẩm quyền của nước đăng ký hoặc sử dụng coi là nhãn
hiệu nổi tiếng tại nước đó cho hàng hoá giống hoặc tương tự ”. Theo
Điều 6 bis: Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu của các doanh nghiệp thuộc
các nước thành viên Công ước Paris; có thể đã đăng ký hoặc chưa đăng
ký bảo hộ; được cơ quan có thẩm quyền ở nước đăng ký hoặc sử dụng
công nhận. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm các hoạt động: Từ
chối việc đăng ký một nhãn hiệu tương tự cho người khác để sử dụng
cho cùng sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự; huỷ bỏ đăng ký một nhãn
hiệu tương tự đã cấp cho người khác cho cùng sản phẩm hoặc sản phẩm
tương tự; yêu cầu chấm dứt việc sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự
với nhãn hiệu nổi tiếng.
Điều 16 của Hiệp định TRIPS/WTO (1994) có nội dung tóm tắt như sau:
Để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không phải xem xét danh
tiếng của nhãn hiệu đối với một bộ phận công chúng có liên quan, kể cả
danh tiếng có được nhờ quảng cáo
Điều 6 bis Công ước Paris phải được áp dụng cả đối với những hàng hoá
hoặc dịch vụ không tương tự với hàng hoá, dịch vụ của nhãn hiệu nổi
tiếng, nếu việc sử dụng như vậy có thể gây hiểu lầm về mọi liên quan
đến nhãn hiệu nổi tiếng và gây tổn hại đến lợi ích của chủ nhãn hiệu nổi
tiếng.
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của các nước trên thế giới
Hầu hết các nước trên thế giới là thành viên của Công ước Paris hoặc
thành viên của WTO đều có quy định và thực tiễn bảo hộ các nhãn hiệu
nổi tiếng, nhưng nội dung và cách thức công nhận và bảo hộ có khác
nhau. Định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng không đồng nhất ở các nước,
nhưng đa phần các nước áp dụng theo các tiêu chí đánh giá do WIPO
đưa ra. Đa số các nước đều sử dụng một khái niệm “nhãn hiệu nổi
tiếng”, riêng Cộng đồng châu Âu sử dụng hai khái niệm “nhãn hiệu nổi
tiếng” và “nhãn hiệu rất nổi tiếng”. Cơ quan quốc gia có thẩm quyền
công nhận nhãn hiệu nổi tiếng thường là cơ quan SHCN quốc gia và toà
án, tại một số nước chỉ là cơ quan SHCN hoặc toà án. Nói chung, các
nước không lập một danh mục các nhãn hiệu nổi tiếng của mình mà giải
quyết theo từng vụ việc một trong quá trình cấp đăng ký nhãn hiệu hoặc
xét xử tranh chấp tại toà. Chỉ có Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan là lập
danh sách nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng chỉ là của các doanh nghiệp trong
nước, nhằm phục vụ cho mục đích xúc tiến thương mại hoặc trao đỏi
thông tin với nước khác.
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam
Là thành viên của Công ước Paris về bảo hộ SHCN, Việt Nam đã áp
dụng các điều khoản để bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Trong Nghị định
63/CP ngày 24.10.1996 của Chính phủ quy định chi tiết về SHCN nhằm
hướng dẫn thi hành các quy định về bảo hộ quyền SHCN tại Chương II,
Phần thứ VI của Bộ Luật Dân sự (1995); tại Điều 6, khoản 1e quy định:
Không chấp nhận bảo hộ là nhãn hiệu hàng hoá các dấu hiệu trùng hoặc
tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác
được coi là nổi tiếng.
Điều khoản này đã được Cục SHTT (trước đây là Cục SHCN) áp dụng
để: Từ chối bảo hộ các nhãn hiệu xin đăng ký trùng hoặc tượng tự tới
mức gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu nổi tiếng (cả trong các trường hợp
các nhãn hiệu nổi tiếng này chưa đăng ký bảo hộ tại Việt Nam); huỷ bỏ
các đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trùng hoặc tương tự với các nhãn hiệu
nổi tiếng khi có khiếu nại của chủ các nhãn hiệu đó. Các trường hợp này
được xem xét theo từng trường hợp cụ thể, căn cứ trên cơ sở các tài liệu
chứng minh của bên khiếu nại hoặc trên cơ sở thông tin có được của Cục
về sự nổi tiếng của nhãn hiệu.
Các căn cứ chính để xác định nhãn hiệu là nổi tiếng gồm: Thời gian sử
dụng nhãn hiệu; phạm vi địa lý sử dụng nhãn hiệu; doanh thu; phạm vi,
tuần suất và chi phí cho quảng cáo; số lượng các quốc gia mà nhãn hiệu
đã được đăng ký bảo hộ; giá trị nhãn hiệu (nếu có); số nước công nhận
nhãn hiệu nổi tiếng (nếu có).
Trên cơ sở các quy định pháp luật và tiêu chí trên, Cục SHTT đã giải
quyết một số vụ việc cụ thể:
Năm 1992, Cục đã bác bỏ đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
“McDonald’s” của một công ty Australia cho các sản phẩm đồ ăn nhanh,
dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm khác. Cục có đủ thông tin để
khẳng định nhãn hiệu “McDonald’s” là nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới
cho đồ ăn nhanh và dịch vụ ăn nhanh của Công ty McDonald’s
Corporation (Hoa Kỳ) mặc dù Công ty này chưa từng đăng ký và sử
dụng nhãn hiệu trên tại Việt Nam.
Năm 1993, Cục SHCN đã xem xét và quyết định huỷ bỏ Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá số 4854 cấp cho OPHIX GROUP
(Australia) đối với nhãn hiệu “Pizza Hut” trên cơ sở đơn khiếu nại của
Công ty Pizza Hut International, LLC (Hoa Kỳ). Công ty Hoa Kỳ đã
chứng minh được sự nổi tiếng của các nhãn hiệu của mình, mặc dù chưa
được đăng ký bảo hộ cũng như chưa từng sử dụng ở Việt Nam.
Năm 1998, Cục SHCN đã từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu “MILIKET”
của một cơ sở thuộc thành phố Hồ Chí Minh cho sản phẩm vở học sinh
vì dễ dàng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu mì “MILIKET” của Công ty thực
phẩm quận 5.
Để tăng cường bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, ngày 1.2.2001
Chính phủ đã ban hành Nghị định 06/CP, sửa đổi, bổ sung Nghị định
63/CP ngày 24.10.1996, trong đó đã đưa vào các quy định mới nhằm bảo
hộ hiệu quả hơn nhãn hiệu nổi tiếng. Để được công nhận nhãn hiệu nổi
tiếng, chủ nhãn hiệu có thể nộp đơn yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi
tiếng cho Cục SHTT. Cục sẽ xem xét đơn và ra Quyết định công nhận
nhãn hiệu nổi tiếng đối với nhãn hiệu liên quan. Nhãn hiệu được công
nhận sẽ được bảo hộ theo Quy chế nhãn hiệu nổi tiếng và được đưa vào
Danh mục các nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Chủ các nhãn hiệu nổi
tiếng có quyền yêu cầu xử lý các vi phạm liên quan đến nhãn hiệu của
mình ngay cả trong trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng chưa được đăng ký
bảo hộ ở Việt Nam. Khi xét một nhãn hiệu có khả năng vi phạm một
nhãn hiệu nổi tiếng thì không chỉ so sánh với các sản phẩm trùng hoặc
tương tự với sản phẩm của nhãn hiệu nổi tiếng mà có thể xem xét với cả
các sản phẩm khác loại nếu trong thực tế tồn tại nguy cơ gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng.