Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Thức trạng và giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa ở các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.93 KB, 37 trang )

Lời nói đầu
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều
khẳng định: Nền kinh tế nớc ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội
chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh đợc xác định
giữ vai trò chủ đạo.
Xuất phát từ thực trạng kinh doanh kém hiệu quả của hệ thống doanh
nghiệp Nhà nớc và để kinh tế quốc doanh giữ đợc vai trò chủ đạo, cần phải đổi
mới một cách căn bản hoạt động của loại hình doan nghiệp này. Mục tiêu của
quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nớc là từng bớc phát huy có hiệu quả vai
trò của doanh nghiệp Nhà nớc nh một công cụ vật chất quan trọng để Nhà nớc
chi phối điều tiết sự phát triển của nền kinh tế theo định hớng đã vạch ra.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là một giải pháp quan trọng để đổi
mới quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nớc. Cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nớc nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi mới phơng thức quản lý nhà
nớc, tạo động lực cho ngời lao động làm chủ doanh nghiệp. Mặt khác, cổ phần
hoá là một giải pháp quan trọng góp phần hình thành thị trờng chứng khoán ở
nớc ta - một công cụ quan trọng, thiết yếu cho sự vận hành của nền kinh tế thị
trờng.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là một chủ trơng đúng đắn của Đảng
và Nhà nớc ta để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc nhng
đến nay việc thực hiện còn chậm.
Xuất phát từ mục tiêu, lợi ích cũng nh tình hình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc ở nớc ta, với việc nghiên cứu thực trạng cổ phần hoá để tổng
kết những mặt đợc và những mặt còn tồn tại nhằm đa ra những giải pháp đẩy
nhanh hơn, hoàn thiện hơn quá trình này là một việc làm có ý nghĩa rất quan
trọng, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy em đã chọn đề tài Thực
trạng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam .
Mặc dù đã để tâm nghiên cứu đề tài này nhng do còn có những hạn chế
về kinh nghiệm thực tiễn, về nguồn tài liệu nên đề án không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận đợc sự góp ý phê bình của các thầy cô để


có thể hoàn thiện hơn đề án này.
Cũng qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự hớng dẫn của cô giáo
Nguyễn Thu Thủy đã giúp em hoàn thành đề án này.
Hà nội, ngày tháng năm 2000
Sinh viên
Lê Kiên
1
Ch ơng I:
Lý luận cơ bản về công ty cổ phần và cổ phần hoá
1.1. Công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau góp
vốn, cùng nhau chia lợi nhuận, cùng nhau chịu lỗ tơng ứng với phần vốn góp
và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn của
mình góp vào công ty.
Luật công ty nớc ta (bàn hành 21/12/1990) và đợc sửa đổi ngày
22/6/1994 quy định công ty cổ phần là công ty trong đó:
- Số thành viên gọi là cổ đông phải có trong suốt thời gian hoạt động ít
nhất là bảy.
- Vốn điều lệ của công ty đợc nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá
trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu đợc phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là cổ phiếu có ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên có thể tự do chuyển nhợng. Cổ phiếu có ghi
tên chỉ đợc chuyển nhợng nếu có sự đồng ý của hội đồng quản trị.
1.1.2.Ưu điểm của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trờng.
* Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh huy động tập
trung đợc nhanh số vốn quy mô lớn và hiệu quả cao.
Bằng việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu, công ty cổ phần có thể huy

động thu thú đợc những khoản tiền nhỏ bé, tản mạn nhàn rỗi trong xã hội, tập
trung lại thành những khoản vốn lớn đầu t vào những ngành, lĩnh vực đòi hỏi l-
ợng vốn lớn và dài hạn, mà mỗi cá nhân hoặc doanh nghiệp không có khả năng
tích luỹ đợc. Đây là u điểm lớn nhất của công ty cổ phần, khác biệt so với các
loại hình doanh nghiệp khác bởi vì công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp
duy nhất đợc phép phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn. Thông
2
qua việc mua cổ phiếu và trái phiếu, các nhà đầu t sẽ đợc nhận các cổ tức cao.
Các cổ đông mua cổ phiếu còn đợc quyền tham dự đại hội cổ đông, có quyền
biểu quyết các quyết định phơng hớng hoạt động, quyết định việc phân chia lợi
nhuận, bầu và bãi miễn các thành viên của Hội đồng quản trị và nếu điều kiện
và khả năng cho phép có thể đợc đề cử vào ban lãnh đạo của công ty. Cũng
chính vì những lợi ích trên mà việc mua cổ phiếu hấp dẫn hơn gửi tiền vào quỹ
tiết kiệm hoặc các ngân hàng.
* Công ty cổ phần tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng
nhanh.
Vốn đợc tập trung từ nhiều ngời với khối lợng lớn không chỉ có điều
kiện thuận lợi đầu t vào những ngành đòi hỏi vốn lớn, những ngành công
nghiệp sử dụng công nghệ cao mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp phải ra sức
hoàn thiện tổ chức quản lý cho phù hợp với sản xuất kinh doanh kiểu mới, tạo
đợc uy tín thật sự, gây đợc tin tởng đối với ngời góp vốn.
Xét về cơ cấu kinh tế, công ty cổ phần phát triển cũng sẽ làm biến đổi
cơ cấu ấy trên cơ sở sử dụng đồng vốn, khai thác tiềm năng lao động đất nớc
mang lại hiệu quả kinh tế xã hội tốt nhất, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội năng động nhất.
* Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro, nhằm hạn chế
các tác động tiêu cực về kinh tế xã hội, doanh nghiệp lâm vào tình trạng
đình đốn phá sản.
Công ty cổ phần hoạt động theo chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Theo
chế độ này thì có sự phân biệt rõ ràng tài sản của công ty và phần vốn của cổ

đông. Trách nhiệm tài chính của công ty giới hạn trong phạm vi tài sản của
công ty và phần vốn của cổ đông theo tỷ lệ đóng góp của mỗi ngời. Điều đó đã
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại rủi ro, thua lỗ.
Dới hình thức công ty cổ phần, ngời có nhiều vốn muốn đầu t có thể
mua cổ phiếu, trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau, do đó, sự rủi ro và mạo
hiểm của đầu t đợc phân tán vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhiều công ty,
làm giảm bớt đợc thiệt hại của ngời đầu t góp vốn hơn là tập trung vào một
công ty khi công ty bị phá sản. Cơ chế phân bố rủi ro này sẽ tạo điều kiện cho
những ngời có vốn mạnh dạn đầu t theo sự tính toán, cân nhắc lựa chọn vào
3
nhiều công ty mà họ tín nhiệm, làm cho nền kinh tế phát triển và có xu thế ổn
định.
* Công ty cổ phần thúc đẩy quá trình phân công chuyên môn hoá.
Với khả năng tập trung vốn tơng đối lớn, các công ty cổ phần có thể
tranh thủ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, mạnh dạn đầu t vào các
ngành nghề mới, có triển vọng đạt lợi nhuận cao làm biến đổi cơ cấu nền kinh
tế, từ đó tác động đến phân công lao động xã hội. Cơ cấu đội ngũ công nhân
cũng biến đổi không chỉ tăng về số lợng mà còn trình độ lành nghề, các chức
năng của đội ngũ cán bộ quản lý điều hành cũng chuyên sâu và đa dạng hơn.
Trong nội bộ công ty do phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh
doanh nên tạo cho những ngời góp vốn tham gia quản lý thật sự công ty và lựa
chọn những giám đốc, những thành viên Hội đồng quản trị có tài năng và tích
cực, đủ sức đảm nhiệm chức trách, bảo đảm đợc quyền lợi, lợi ích trách nhiệm
của các chủ sở hữu. Với hình thức công ty cổ phần, ngời không thông thạo
kinh doanh cũng yên tâm vì đồng vốn của họ đóng góp vào công ty vẫn đem
lại thu nhập do đã đợc các nhà chuyên nghiệp sử dụng.
Nh vậy, qua nghiên cứu về công ty cổ phần trên đây ta có thể thấy công
ty cổ phần có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. Đó là
mọi loại hình công ty có cấu trúc khá phức tạp - một kết cấu kinh tế tách biệt
quyền sở hữu và quyền sử dụng để chuyên môn hoá kinh doanh nhằm đạt hiệu

quả cao nhất. Đồng thời công ty cổ phần giải quyết đợc một cách hợp lý vấn
đề lợi ích tạo động lực kinh doanh có hiệu quả của các nhóm thành viên trong
công ty: cổ đông, Hội đồng quản trị và ngời quản lý (Ban giám đốc). Có thể
nói công ty cổ phần là kiểu tổ chức kinh doanh tiến bộ văn minh nhất, u việt
nhất của xã hội nhân loại so với các kiểu công ty khác. Và đây là loại hình
công ty không thể thiếu đối với các nớc có nền kinh tế thị trờng. ở Việt Nam,
từ khi chuyển sang cơ chế thị trờng đã hình thành một mạng lới các công ty cổ
phần. Tuy số lợng cha phải là nhiều song loại hình doanh nghiệp này đã tỏ rõ
tính hiệu quả của nó. Vì vậy, Đảng và Nhà nớc ta đã chủ trơng phát triển mạnh
hệ thống công ty cổ phần mà một trong các cách để thực hiện việc đó là cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc.
1.2. Cổ phần hoá.
4
* Khái niệm và thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc.
Cổ phần hoá là một khái niệm còn khá mới mẻ ở nớc ta. Về thực chất của
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc có ngời cho rằng đó là việc t nhân hoá
doanh nghiệp nhà nớc. ý kiến này chỉ đúng với một số doanh nghiệp nhà nớc
nhất định. Khi mà các doanh nghiệp ấy xét thấy quốc doanh làm không hiệu
quả có thể cho t nhân mua lại và nh vậy là t nhân hoá doanh nghiệp nhà nớc.
Nhng ý kiến đó không đúng ở nhiều điểm:
Lẫn lộn khái niệm cổ phần hoá với t nhân hoá. T nhân hoá là biến một
tài sản vốn thuộc sở hữu công thành sở hữu t, có thể diễn ra cả đối với doanh
nghiệp nhà nớc và tập thể. Còn cổ phần hoá là đa sở hữu hoá tài sản, tức là
chấp nhận nhiều ngời cùng sở hữu tài sản - sở hữu hỗn hợp.
Phơng pháp t nhân hoá là bán tài sản doanh nghiệp nhà nớc cho t nhân
hoặc thậm chí cho không t nhân tài sản đó. Còn phơng pháp cổ phần hoá là
huy động nhiều chủ thể đầu t thuộc các thành phần khác nhau và cũng có thể
là các chủ thể trong một thành phần kinh tế cùng góp vốn để chuyển từ một
chủ sở hữu sang đa sở hữu. Khi đánh giá phần giá trị tài sản để cổ phần hoá có
thể nhà nớc cũng góp cổ phần vào doanh nghiệp vốn của mình đã cổ phần hoá.

Hình thức cổ phần hoá rất đa dạng:
- Bán cho các t nhân khác nhau cùng góp cổ phần thành một công ty cổ
phần. Hình thức này đồng dạng với t nhân hơn nhng lại khác là đa số hơn.
- Tất cả các thành phần kinh tế cùng góp cổ phần để mua doanh nghiệp
nhà nớc (kể cả quốc doanh) để chuyển sang công ty cổ phần. Hình thức này
vừa đa sở hữu vừa đa thành phần, nói đúng hơn là đa sở hữu đa thành phần.
Trong hình thức này tuỳ thuộc vào phần trăm cổ phần trong doanh nghiệp để
xác định vai trò của ngời chủ sở hữu chủ yếu.
- Chỉ có nhà nớc và t nhân cùng góp vốn cổ phần để mua lại.
- Tập thể và t nhân cùng góp cổ phần để mua lại.
- Các doanh nghiệp khác cùng nhauu góp cổ phần để mua lại, nhà nớc
cũng có thể tham gia một phần.
- Các doanh nghiệp khác nhau cùng góp cổ phần để mua lại.
5
- Công nhân vốn của doanh nghiệp ấy đứng ra góp vốn để mua lại doanh
nghiệp để cổ phần hoá, hoặc Nhà nớc cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp
ấy và chia cổ phần cho công nhân.
- Nhà nớc cùng các công ty nớc ngoài cùng góp vốn để cổ phần hoá.
- Bán hẳn cho các công ty nớc ngoài góp vốn mụa để thành công ty cổ
phần
Nh vậy, không thể quan niệm cổ phần hoá thực chất là t nhânhoá. Mà cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc nên đợc hiểu là quá trình chuyển doanh
nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần với hai nội dung là chuyển toàn bộ hay
một phần vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nớc và các lĩnh vực lâu nay nhà nớc
độc quyền cho các cổ đông.
1.3. Những nguyên nhân dẫn đến phải tiến hành cổ phần hoá.
- Tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nớc. Đây
là nguyên nhân quan trọng khiến hầu hết các chính phủ đi đến quyết định cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc. Do đâu mà có tình trạng này? Một điều
dễ nhận thấy là ngay cả những điều kiện thuận lợi thì hiệu quả của các xí

nghiệp quốc doanh cũng chỉ đạt mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của
khu vực t nhân. Những doanh nghiệp nhà nớc thờng có vị thế độc quyền, đợc
nhà nớc bảo hộ và không có sự cạnh tranh với hàng nhập khẩu, mặc dù về quản
lý đã đợc điều hành không có hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nớc trong
bản thân sở hữu nhà nớc với sự điều tiết trực tiếp của nhà nớc ở các doanh
nghiệp này. Đó là:
+ Hệ thống kế hoạch và tài chính cứng nhắc không có tính chất thích ứng
với cơ chế thị trờng vì đợc quản lý theo hệ thống chính sách từ trên xuống với
nhiều cấp trung gian. Nguồn tài chính đợc sử dụng hoàn toàn theo kế hoạch đ-
ợc duyệt từ đầu năm, không có sự chuyển đổi linh hoạt nhằm sử dụng hợp lý
nguồn vốn và cũng không đợc chuyển sang cho năm sau. Điều này làm cho
các kế hoạch tài chính của doanh nghiệp không có động cơ tiết kiệm vì vậy
không hợp lý hoá đợc sản xuất và giá thành luôn luôn phải cộng nhiều chi phí
so với các doanh nghiệp t nhân.
+ Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp nhà nớc bị hạn chế vì nhiều qui chế liên quan đến quyền sở hữu
của nhà nớc, do đó gây ra những yếu tố làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả
của doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc bổ nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp nhà nớc
đợc quyết định từ cơ quan cấp trên, nên sẽ xuất hiện xu hớng là các nhà quản
lý cao cấp cố gắng thiết lập các mối quan hệ thân thiện với cấp trên hoặc các
6
nhà hoạt động chính trị và tranh thủ tìm những doanh nghiệp ở những vị trí béo
bở hơn là tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hoặc là vì
nhà nớc là chủ sở hữu các doanh nghiệp nên các quyết định kinh doanh về đầu
t, giá cả thị trờng cung ứng và tiêu thụ của doanh nghiệp lại do hệ thống
phức tạp của chủ thể cấp trên điều tiết vừa thiếu thống nhất và không rõ ràng
về trách nhiệm với các quyết định của mình, gây trở ngại tới hiệu quả công
việc của các doanh nghiệp nhà nớc.
+ Tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nớc trên thị trờng đợc
pháp luật của nhà nớc củng cố đã đánh mất những động lực nâng cao hiệu quả

hoạt động của các doanh nghiệp này, đa đến tình trạng xã hội buộc phải chấp
nhận tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ cho chúng sản xuất ra với chất lợng ít
đợc cải tiến nhng giá cả ngày càng tăng không hợp lý và nếu không tăng giá
thì nhà nớc phải chịu những gánh nặng trợ cấp ngày càng lớn.
+ Các doanh nghiệp nhà nớc đợc thành lập nhờ nguồn vốn của nhà nớc,
không đợc phép phá sản và đợc che chắn từ các khoản trợ cấp từ ngân sách
hoặc đợc sử dụng các nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc đợc u tiên tiếp
cận với các nguồn tài chính nớc ngoài. Vì vậy các doanh nghiệp nhà nớc
không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu quả để tồn taị trong cạnh
tranh đối với các doanh nghiệp t nhân.
+ Động cơ hoạt động của các doanh nghiệp nhà nớc chỉ nhằm củng cố
tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên trớc những sản phẩm và dịch vụ
đối với ngời tiêu dùng cũng nh tránh né sự xung đột trong nội bộ, tránh né
những sự cải tổ đổi mới tổ chức quản lý để nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho xí
nghiệp có điều kiện hoạt động dễ chịu và ổn định. Do đó, mua sắm trang thiết
bị ngày càng d thừa, biên chế ngày càng phình to dẫn đến chi phí quá mức so
với nguồn thu. Đó là cha kể đến chi phí chính trị to lớn để trốn tránh những
cuộc kiểm tra của các cơ quan cấp trên nh quốc hội hoặc bộ chủ quản. Tình
trạng này đã gây ra những ảnh hởng tiêu cực đến việc tiết kiệm các nguồn lực
và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
7
Ch ơng II:
Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc ở
nớc ta hiện nay.
2.1. Thực trạng các doanh nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế nớc ta.
2.1.1. Sự ra đời của doanh nghiệp nhà nớc và hoạt động của nó trong
cơ chế cũ.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nớc ta đã có hơn 40 năm xây dựng và phát
triển. Trong thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta, các xí
nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp nhà nớc) là lực lợng chủ đạo trong nền kinh

tế quốc dân. Chúng đợc hình thành từ 3 nguồn sau:
Thứ nhất, xây dựng bằng nguồn vốn của ngân sách nhà nớc, nguồn viện
trợ hoặc đi vay (của Liên xô cũ, Trung Quốc và các nớc XHCN khác trong thời
kỳ đó).
Thứ hai, quốc hữu hoá xí nghiệp của các nhà t sản mại bản, t sản dân tộc
đã bỏ ra nớc ngoài hoặc xí nghiệp nhà nớc của chế độ cũ. Hình thức này đợc
áp dụng rộng rãi trong những năm 50, 60 đợc tiếp tục trong những năm 70 và
đỉnh cao vào năm 1975, 1976.
Thứ ba, biến các xí nghiệp t nhân của các nhà t sản dân tộc thành các xí
nghiệp công t hợp doanh và sau đó thành các xí nghiệp quốc doanh.
Cũng giống các nớc theo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khác Việt Nam đã
vận dụng học thuyết Mác - Lênin để thực hiện chế độ công hữu về t liệu sản
xuất, coi chế độ công hữu là nền tảng kinh tế để xoá bỏ sự phân hoá giàu
nghèo, bất công xã hội do nền kinh tế thị trờng và chế độ t hữu gây ra, để xây
dựng một chế độ công hữu do nhân dân lao động làm chủ. Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội nớc ta đã nhấn mạnh vào nhiệm vụ và vai trò của kinh
tế nhà nớc, coi đó là hiện thân của chế độ công hữu có sức mạnh toàn năng
trong việc tổ chức mọi hoạt động kinh tế của xã hội đồng thời phủ nhận vai trò
của thị trờng, của kinh tế t nhân.
8
Vì vậy nền kinh tế quốc dân ở nớc ta không phải là một nền sản xuất
hàng hoá mà là một nền kinh tế hiện vật và xã hội hoá đợc quản lý theo cơ chế
kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp: Nhà nớc XHCN vừa tập trung
quyền lực chính trị vừa là chủ sở hữu duy nhất và thống nhất đối với tuyệt đại
đa số các t liệu sản xuất của xã hội. Và nhà nớc vừa là ngời chỉ huy, vừa là ng-
ời tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh.
ở nớc ta, trong thời gian dài trớc đại hội Đảng lần thứ VI (12 - 1986)
doanh nghiệp nhà nớc đã hình thành và phát triển với một cơ cấu tơng đối hoàn
chỉnh, ở tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân nh hàng không, hàng
hải, bu điện, đờng sắt, nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá đến các dịch vụ đơn

giản. Doanh nghiệp nhà nớc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và
nắm 100% các ngành then chốt nh điện, khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy
công cụ, hoá chất, nhiên liệu, xi măng, bu điện viễn thông, giao thông đờng
sắt, đờng thủy, ngoại thơng, ngân hàng, quốc phòng và an ninh. Trong công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, lực lợng doanh nghiệp
nhà nớc cũng chiếm tỉ trọng tuyệt đối lớn hoặc phần lớn đối với các sản phẩm
chủ yếu nh: 100% hàng dệt kim, thuốc chữa bệnh, bia, 90% quạt điện, 85%
giấy viết, 85% vải mặc, 70% xe đạp hoàn chỉnh.
Các doanh nghiệp nhà nớc chiếm khoảng 85% vốn cố định của nền kinh
tế, 90% lao động có kỹ thuật, cán bộ khoa học và quản lý đợc đào tạo của cả n-
ớc. Nhà nớc cũng u tiên dành nhiều nguồn lực để phát triển các doanh nghiệp
nhà nớc. Chỉ tính riêng trong khoảng mời năm, từ 1976 đến 1985, nhà nớc đã
phân bố từ 60 - 70% vốn đầu t của toàn bộ nền kinh tế và trên 90% vốn tín
dụng với lãi suất u đãi cho các doanh nghiệp nhà nớc.
Hàng năm các doanh nghiệp nhà nớc đóng góp khoảng 30 - 40% tổng sản
phẩm xã hội và 28 - 30% thu nhập quốc dân. Phần thu của doanh nghiệp nhà
nớc từ doanh nghiệp nhà nớc thông qua doanh nghiệp nhà nớc là phần thu lớn
nhất, dao động hàng năm trong khoảng 60 - 70%.
Do chúng ta duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp trong khu vực doanh nghiệp nhà nớc nên khu vực kinh tế này đã bộc lộ
những yếu kém nghiêm trọng. Đó là:
- Năng suất, chất lợng và hiệu quả rất thấp. Toàn bộ khu vực doanh
nghiệp nhà nớc không vợt qua ngỡng cửa tái sản xuấta giản đơn. Tính chung
9
trong vòng mời năm 1976 - 1985 tỉ lệ chi của nhà nớc và thu của doanh nghiệp
nhà nớc là 3:1.
- Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động theo cơ chế thực thanh - thực chi, giao
đủ nộp đủ. Nhà nớc bao cấp và quyết định giá đầu vào, đầu ra, nên doanh
nghiệp không phải tính toán hiệu quả kinh doanh. Hoạt động thua lỗ có nhà n-
ớc gánh chịu.

- Sự phân phối thu nhập trong doanh nghiệp theo cách bình quân đã làm
suy yếu động lực kích thích lao động, làm việc có năng suất, chất lợng và hiệu
quả.
- Bộ máy doanh nghiệp cồng kềnh, nhiều cấp trung gian với chức năng
chồng chéo. Các cơ quan quản lý thờng can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh ngày ngày của doanh nghiệp.
2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng n-
ớc ta hiện nay.
Trong một thời kỳ dài chúng ta đã mắc sai lầm quá sùng bái kinh tế quốc
doanh, đã thành lập tràn lan các doanh nghiệp nhà nớc. Trong cơ chế cũ các
doanh nghiệp nhà nớc đã bộc lộ các yếu kém nh đã trình bày ở phần trên.
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của nhà nớc, hệ thống kinh tế quốc doanh vẫn đợc xác định vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân cần phải củng cố và phát triển nhất là
trong ngành và lĩnh vực then chốt, quan trọng, có tác dụng mở đờng và tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Doanh nghiệp nhà nớc có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà
nớc đối với nền kinh tế thị trờng. Đây là yêu cầu có tính quy luật chung của sự
phát triển kinh tế xã hội, vì bản thân nền kinh tế thị trờng chứa đựng những
khuyết tật mà muốn khắc phục nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nớc.
Các doanh nghiệp nhà nớc bao gồm các các doanh nghiệp hoạt động hoạt
động kinh doanh và các doanh nghiệp hoạt động công ích đợc củng cố và phát
triển trong các ngành và lĩnh vực then chốt, tạo cơ sở hạ tầng và tiền đề tốt cho
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua doanh nghiệp nhà n-
ớc, nhà nớc tạo ra nguồn dự trữ đủ mạnh để có thể can thiệp vào thị trờng, thực
10
hiện điều chỉnh các cân đối cơ bản của nền kinh tế. Doanh nghiệp thực hiện
việc đầu t có định hớng để khắc phục bản chất vô chính phủ của nền kinh tế
thị trờng, duy trì môi trờng cạnh tranh lành mạnh, chống xu hớng độc quyền

của tập đoàn t nhân, đi đầu trong đổi mới công nghệ thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo xu hớng năng suất - chất lợng - hiệu quả.
Nh vậy, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nớc xuất phát từ yêu cầu
khách quan của nền kinh tế thị trờng nớc ta và đợc ghi thành chủ trơng, chính
sách và pháp luật của nhà nớc. Vai trò luật định này là yếu tố quan trọng chi
phối sự điều chỉnh pháp lý đối với tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà
nớc. Để thực hiện đợc vai trò đó trớc hết phải kiên quyết đổi mới hệ thống
doanh nghiệp này. Việc đổi mới phải đợc đặt trong sự phát triển tổng thể nền
kinh tế quốc dân và phải xuất xứ từ thực trạng doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta.
2.1.3. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc ta hiện nay.
Trong cơ chế cũ, ở nớc ta doanh nghiệp nhà nớc tồn tại với một số lợng
khổng lồ. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tính đến ngày 1 - 9 - 1990 cả n-
ớc có 12.084 doanh nghiệp trong tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân và do nhiều cấp quản lý. Sau khi thực hiện việc tổ chức sắp xếp lại
theo quyết định 315/HĐBT ngày 1 - 9 - 1990 và thành lập lại các doanh nghiệp
nhà nớc theo nghị định 388/ HĐBT và ngày 20 - 11 - 1991 và sau hàng loạt cải
cách, đến nay doanh nghiệp nhà nớc vẫn còn khoảng 5800 doanh nghiệp (theo
số liệu của vụ đăng ký kinh doanh - Bộ kế hoạch đầu t). Trong đó có khoảng
30% là doanh nghiệp nhà nớc do các bộ ngành trung ơng quản lý và khoảng
70% doanh nghiệp do uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng
quản lý.
Đến năm 1995, số lợng các doanh nghiệp nhà nớc vẫn chiếm tỷ trọng lớn
so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trong lĩnh vực công nghiệp là
78,8%; Xây dựng cơ bản: 49%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: 99,6%, giao
thông vận tải, bu điện: 54%; thơng nghiệp, vật t: 46,5%.
Sau 5 năm đổi mới và điều hành, số lợng các doanh nghiệp nhà nớc ở nớc
ta giảm gần song nh vậy vẫn còn quá nhiều. Các doanh nghiệp nhà nớc hiện
nay vẫn còn tồn tại ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực, điều đó là không cần
thiết. Hơn nữa với số lợng doanh nghiệp nhà nớc nhiều nh vậy làm vợt quá khả
năng nguồn lực về vốn và cán bộ quản lý của nớc ta hiện có.

11
Hệ thống doanh nghiệp nhà nớc phân bố còn nhiều bất hợp lý. Các doanh
nghiệp nhà nớc chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nh Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều vùng của đất nớc có nguồn tài
nguyên phong phú, lao động dồi dào ở miền núi phía Bắc hầu nh không có
doanh nghiệp nhà nớc. Sự phân tán của các doanh nghiệp nhà nớc ở các ngành
các lĩnh vực dẫn đến các tình trạng trên cùng một địa bàn lãnh thổ doanh
nghiệp nhà nớc của Trung ơng, địa phơng hoạt động chồng chéo, cạnh tranh
lẫn nhau một cách vô tổ chức, gây khó khăn cho nhau trong việc sản xuất kinh
doanh.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp nhà nớc ta có quy mô nhỏ và hoạt
động kém hiệu quả.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tổng số vốn Nhà nớc tại các
doanh nghiệp nhà nớc là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6
tỷ đồng tơng đơng với vốn một doanh nghiệp loại nhỏ ở các nớc nh Thái Lan,
Inđônêxia, Malaysia.
Đến nay vẫn còn 46,1% doanh nghiệp nhà nớc có số lao động dới 100 ng-
ời và gần 50% doanh nghiệp nhà nớc có mức vốn dới 1 tỷ đồng, trong đó gần
một nửa số vốn dới 500 triệu đồng. Các doanh nghiệp có số vốn lớn từ 100 tỷ
trở lên chỉ chiếm 1,5% tổng số doanh nghiệp. Số doanh nghiệp có từ 1000 lao
động trở lên chỉ chiếm 4% trong tổng số doanh nghiệp.
Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc chỉ bằng 80% vốn hiện
có do kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, tài sản mất mát, kém phẩm chất ch-
a đợc xử lý. Riêng vốn lu động có 14.239 tỷ đồng và chỉ có 50% đợc huy động
vào kinh doanh, 50% còn lại nằm ở lỗ, công nợ khó đòi.
Các doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta hiện nay, do quy mô nhỏ, vốn ít
không có khả năng đầu t trang thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh
nên yếu sức cạnh tranh trên thị trờng.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ cũng ảnh hởng rất lớn đến hiệu quả hoạt
động của hệ thống doanh nghiệp nhà nớc. Trừ một số rất ít (18%) doanh

nghiệp nhà nớc mới đợc đầu t (sau năm 1986) còn chủ yếu đợc thành lập từ lâu
có trình độ kỹ thuật thấp, công nghệ lạc hậu. Giá trị còn lại của tài sản cố định
trong doanh nghiệp nhà nớc là 61,4% so với nguyên giá.
12
Theo đánh giá của Bộ khoa học và công nghệ và môi trờng: máy móc
thiết bị của doanh nghiệp nhà nớc lạc hậu với thế giới từ 10 - 20 năm. Theo
điều tra của Tổng cục thống kê: thiết bị của doanh nghiệp nhà nớc lạc hậu từ 2
- 3 thế hệ. Các doanh nghiệp TW có tới 54,3% trình độ thủ công, 41% trình độ
cơ khí và 3,7% trình độ tự động. Doanh nghiệp địa phơng còn lạc hậu hơn; chỉ
có 2% trình độ tự động, 24% trình độ cơ khí và 74% trình độ thủ công.
Nhiều thiết bị trong các doanh nghiệp nhà nớc sau 14 - 15 năm mới đợc
thay đổi, thậm chí trong một số ngành vẫn sử dụng thiết bị từ năm 1938 - 1940
trong khi đó thời gian đổi mới thiết bị ở các nớc khác trung bình là 5 năm.
Các báo cáo về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc cho thấy chỉ có
khoảng 15% sản phẩm công nghiệp của ta đạt tiêu chuẩn xuất khẩu: 65% số
sản phẩm đạt mức dới trung bình để tiêu dùng nội địa, 20% số sản phẩm kém
chất lợng. Hiện tợng hàng hoá ứ đọng với khối lợng lớn và chiếm hơn 10% số
vốn lu động của toàn xã hội. Chính do công nghệ lạc hậu nên năng suất, chất l-
ợng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nớc kém. Theo kết quả điều tra xét về mặt
hiện vật, năng suất lao động của ta về chế biến dầu thực vật chỉ bằng 10% mức
thế giới, về sản xuất các sản phẩm dệt, giấy, may chỉ bằng 30% đến 40% mức
của thế giới, về thi công cầu đờng chỉ bằng 1/20 mức của Pháp.
Hiện nay, việc quản lý của Nhà nớc đối với doanh nghiệp nhà nớc cha
hợp lý. Một mặt các cơ quan chủ quản vẫn can thiệp khá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác trong nhiều lĩnh vực hoạt động
đặc biệt là quản lý tài chính lại bị buông lỏng. Điều này hạn chế quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời làm cho Nhà nớc mất
vai trò thực sự là ngời chủ sở hữu và tạo cơ hội cho nhiều cá nhân lạm dụng,
chiếm đoạt tài sản công để làm giàu cá nhân, hoặc làm ăn phi pháp. Trong một
số doanh nghiệp nhà nớc, đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ chuyên môn và

tổ chức quản lý cha đủ tiêu chuẩn vì không đủ sức giải quyết các vấn đề phát
sinh trong sản xuất kinh doanh. Nhiều giám đốc, kế toán trởng đã phải vào tù
vì tham ô tài sản của Nhà nớc, vi phạm chế độ quản lý tài chính.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nớc còn thấp. Mấy
năm gần đây, sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nớc bắt đầu đợc phục hồi
và phát triển, nhng nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp, thấp nhất là ở các ngành
sản xuất vật chất. Trong các doanh nghiệp nhà nớc đang hoạt động chỉ có
13
11,28% doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận từ 15%/năm trở lên trong ngành sản
xuất vật chất và 4,3% doanh nghiệp nhà nớc có tỷ suất lợi nhuận từ 20%/năm
trong các ngành dịch vụ.
Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế
nhà nớc cao gấp 2 lần so với kinh tế t nhân. Hệ số sinh lời của khu vực doanh
nghiệp nhà nớc rất thấp. Hệ số sinh lời của vốn lu động tính chung chỉ đạt
7%/năm trong đó ngành giao thông vận tải 2%/năm, ngành công nghiệp
khoảng 3%/năm, ngành thơng nghiệp đạta 22%/năm.
Các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động thu lỗ chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể ở
thời điểm 1997 chỉ có 76% hoạt động có lãi ở mức thấp, 22% doanh nghiệp bị
thua lỗ, bình quân mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ đồng/năm, 2% doanh nghiệp
hoạt động không thua lỗ, nhng không có lãi. Các số liệu đó cho thấy việc làm
ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nớc đã gây ra tổn thất lớn cho ngân sách
nhà nớc và là một trong những nguyên nhân đa đến việc bội chi ngân sách.
Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế đã thực sự bớc sang hoạt động theo cơ
chế thị trờng. Các chính sách kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp nhà nớc
đã đợc thay đổi theo hớng tự do hoá giá cả, chi phí ngân sách nhà nớc cho bù
lỗ, bù giá, bổ sung vốn lu động cho khu vực này đã giảm đáng kể. Nhng t tởng
bao cấp trong đầu t vẫn còn nặng nề. Hàng năm 85% vốn tín dụng với lãi suất -
u đãi đợc dành cho doanh nghiệp nhà nớc vay. Hầu hết các doanh nghiệp nhà
nớc không bảo toàn đợc nguồn vốn nhà nớc đầu t. Theo báo cáo của Tổng cục
thống kê, nhìn chung các doanh nghiệp nhà nớc mới chỉ bảo toàn đợc vốn lu

động, còn vốn cố định thì mới bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai
ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thơng nghiệp (72,52%) lại là
ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ nần
vòng vo mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng
quản lý của nhà nớc về tài chính còn lỏng lẻo, từ đó nạn tham nhũng lãng phí
diễn ra mức báo động.
Từ sự phân tích trên ta có thể rút ra kết luận về thực trạng của doanh
nghiệp nhà nớc ở nớc ta hiện nay.
- Số lợng các doanh nghiệp quá nhiều và bố trí không hợp lý.
- Quy mô của doanh nghiệp nhà nớc còn nhỏ bé.
14
- Kỹ thuật và công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nớc còn lạc hậu.
- Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp nhà nớc còn yếu kém.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc còn thấp.
Từ bản chất cũng nh thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc,
chúng ta có thể thấy một vấn đề lớn trong cơ chế quản lý hiện nay làm cho
doanh nghiệp nhà nớc hoạt động cha có hiệu quả là:
Cơ chế thực hiện quyền sở hữu toàn dân trong các doanh nghiệp nhà nớc
là cha rõ ràng. Ngời đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nớc cha đợc
xác định cụ thể do đó dẫn đến tình trạng vô chủ hoặc quá nhiều chủ trong các
doanh nghiệp Nhà nớc. Do không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu Nhà n-
ớc và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể ngời lao động trong
doanh nghiệp nên tài sản của doanh nghiệp Nhà nớc không đợc sử dụng có
hiệu quả. Ngời lao động cha thực sự gắn bó, làm việc hết sức vì doanh nghiệp.
Một số nhà quản lý doanh nghiệp đã lợi dụng chức quyền bòn rút tài sản của
Nhà nớc làm giàu cho cá nhân.
2.2. Chủ trơng của nhà nớc ta về quá trình cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nớc.
Xuất phát từ tình trạng hoạt động yếu kém của hệ thống doanh nghiệp
Nhà nớc và những đòi hỏi cấp bách phải có một giải pháp thích hợp cho khu

doanh nghiệp Nhà nớc. Đây là một chủ trơng lớn của Đảng và Nhà nớc ta
trong lĩnh vực cải cách doanh nghiệp Nhà nớc.
Giải pháp chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần lần đầu đ-
ợc đề cập trong Quyết định số 143 - HĐBT ngày 10 - 5 - 1990 của Hội đồng
bộ trởng về việc tổng kết thực hiện Quyết định 217 - HĐBT ngày 14 - 11 -
1987, các nghị định 50 - HĐBT ngày 22 - 3 - 1988 về làm thử việc tiếp tục đổi
mới quản lý xí nghiệp quốc doanh. Văn bản này đề cập việc nghiên cứu và làm
thử về mô hhình chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần. Việc
chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần trong giai đoạn này là hết
sức mới mẻ ở nớc ta vì lúc đó luật công ty cha đợc ban hành. Quyết định 143 -
HĐBT ngày 5 - 10 - 1990 chỉ quy định một vài vấn đề liên quan đến cổ phần
hoá hoá doanh nghiệp nhà nớc nh: mục đích của việc làm thử, điều kiện các xí
nghiệp quốc doanh đợc chọn để tổ chức thành công ty cổ phần. Có thể nói chủ
15
trơng của Đảng và Nhà nớc ta về cổ phần hoá các doanh nghiệp đã có từ rất
sớm, chỉ sau vài năm khi nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng. Nó chứng tỏ sự
nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nớc ta về vai trò của công ty cổ phần
trong nền kinh tế thị trờng, đánh giá đúng thực trạng hoạt động của các doanh
nghiệp quốc doanh và chọn đúng hớng đi đúng trong việc cải cách các doanh
nghiệp này. Chủ trơng đó còn đợc thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 2 - Ban hành Trung ơng khoá VII (11/1991):Chuyển một số doanh nghiệp
quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành một số công ty quốc
doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu
đáo trớc khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.
Ngày 8 - 6- 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng (nay là Thủ tớng Chính
phủ) ban hành quyết định 202/CT về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số
doanh nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần áp dụng tại các doanh nghiệp đ-
ợc chọn làm thí điểm. Quyết định và đề án này sẽ quy định tơng đối rõ vè mục
tiêu, đối tợng, cách thức tiến hành cổ phần hoá cũng nh cách thức xác định giá
trị doanh nghiệp, quyền lợi của ngời lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá.

Cũng trong ngày 8 - 6 - 1992, Chủ tịch HĐBT đã ban hành quyết định 203/CT
kèm theo danh sách của 7 doanh nghiệp nhà nớc đợc chọn để Chính phủ chỉ
đạo thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Theo điều 2 QĐ 202/CT, Chủ tịch HĐBT
uỷ quyền cho Bộ trởng Tài chính xem xét và ra quyết định về danh sách các
doanh nghiệp nhà nớc đợc phép làm thí điểm cổ phần hoá do các bộ và uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng đề nghị. Tuy nhiên, quyết định
202/CT và chỉ thị 84/TTg của Thủ tớng chính phủ cha có những quy định hợp
lý về quyền lợi của ngời lao động và doanh nghiệp đợc tiến hành cổ phần hoá
cũng nh cha có quy định rõ ràng chặt chẽ về quy trình thực hiện. Để khẳng
định quyết tâm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, các văn kiện của Đảng ban
hành trong các năm 1994, 1995, 1996, 1997 đều đề cập đến vấn đề này. Cụ
thể: Nghị quyết hội nghị toàn quốc ban chấp hành TW khoá II, Nghị quyết số
10 NQ/TW của Bộ chính trị đều khẳng định tầm quan trọng của cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII (tháng 7/1996) khẳng định: Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh
khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc nhằm tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động vốn
thêm cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nớc. Trong
16
quá trình cổ phần hoá, tiền thu đợc do bán cổ phần của doanh nghiệp phải đầu
t lại để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Các văn kiện của đảng nêu trên đã thể hiện quyết tâm đẩy nhanh tốc độ
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc với quy mô và trên lĩnh vực rộng lớn hơn.
Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết đó, ngày 7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 28/CP về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nớc sang công ty cổ phần.
Có thể nó Nghị định 28/CP là một mốc quan trọng đánh dấu bớc chuyển từ
giai đoạn thí điểm sang giai đoạn thực sự triển khai chong trình cổ phần hoá.
Và mới đây chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 về
chuyển doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần thay thế cho Nghị định
28/CP, trong đó các vấn đề nh mục tiêu cổ phần hoá, điều kiện để lựa chọn

doanh nghiệp cổ phần hoá, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, hình thức
cổ phần hoá, việc tổ chức thực hiện đã quy định rõ ràng và cụ thể hơn Nghị
định 28/CP trớc đó.
2.3. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc và kết quả bớc
đầu.
Quá trình cổ phần hoá ở nớc ta về cơ bản có thể chia làm hai giai đoạn:
2.3.1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm 1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trởng (nay là Thủ tớng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số
doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần, các Bộ, ngành đã hớng dẫn
doanh nghiệp nhà nớc đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ
phần. Trên cơ sở số lợng doanh nghiệp nhà nớc đã đăng ký, Chủ tịch hội đồng
Bộ trởng (nay là Thủ tớng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nớc do
Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)
3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông
nghiệp).
4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty vật t tổng hợp Hải Hng (Bộ Thơng mại).
17
6. Xí nghiệp sản xuất bao bì (thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp dệt da may Lagamex (thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp nhà nớc đợc Chính phủ chọn
làm thí điểm đều xin rút lui, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá
nh Legamex, nhà máy xà phòng Việt Nam
Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực hiện
cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp nhà nớc xin chuyển thành công ty trách nhiệm
hữu hạn theo chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nớc đợc phép chuyển
sang công ty cổ phần, đó là:

1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số lợng các
doanh nghiệp nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần còn ít song giai đoạn thí
điểm đã đem lại một số kết quả đáng chú ý:
Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động đợc một lợng vốn quan
trọng trong nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nớc đã thu đợc 14,165 tỷ đồng
tiền mặt nộp vào ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở
hữu nhà nớc để đầu t vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nớc.
Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân viên
tham gia mua cổ phiếu. Khi ngời lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ
gắn với lợi ích công ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của
mình; mặt khác họ cũng yêu cầu hội đồng quản trị và giám đốc điều hành phải
chỉ đạo và tổ chức để công ty hoạt động có hiệu quả.
Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế nh
doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp ngân sách
tăng 89%/năm; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.
18
Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn
của các doanh nghiệp mỗi năm tăng 45%.
Ngời lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của
ngời lao động tăng 20%/năm.
Nhà nớc vẫn giữ đợc vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ
phiếu chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ
hoạt động phù hợp với quy định của nhà nớc.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số

doanh nghiệp nhà nớc đợc chuyển sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp.
Dới đây là danh sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của
các doanh nghiệp đó sau thời gian cổ phần hoá.
19
Sau đây là tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể ở một số doanh nghiệp
thí điểm cổ phần hoá:
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Chỉ tiêu ĐVT Trớc CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.120 16.530 24.134 47.538 65.046
2. Nộp NS Tr.đồng 3.336 3.750 8.700 16.530 25.117
3. Lãi Tr. đồng 3.400 3.700 8.800 15.200 23.000
4. Thu nhập
bình quân ng-
ời/tháng
1000 đồng 850 900 1.200 1.400 2.000
5. Lao động Ngời 56 320
Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ
kho của ngời gửi đến kho cuả ngời nhận bằng các phơng tiện đờng bộ, đờng
thuỷ, đờng biển tới các cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh
nghiệp đầu tiên ở nớc ta đợc tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp
này đợc chính thức chuyển sang công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng
số vốn điều lệ của công ty sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng đợc chia
thành 31.038 cổ phiếu với mệnh giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà n-
ớc là 18%, của cán bộ công nhân viên chức trong công ty là 77%, của cổ đông
ngoài là 5%. Sau 3 năm hoạt động kể từ ngày chuyển sang công ty cổ phần, số
lao động của công ty tăng từ 56 ngời (năm 1993) lên 320 ngời (năm 1996).
Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần 4 lần so với năm 1993, nộp ngân sách của
công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117 (1996) tức khoảng 6,6 lần, thu

nhập ngời lao động tăng từ 900.00 (năm 1993) lên 2. 000.000 (năm 1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE).
Công ty điện lạnh đợc thành lập năm 1987 trên cơ sở công ty liện hợp
thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ mới
thành lập, công ty đã tổ chức lại bộ máy gọn nhẹ, hoạt động theo nguyên tắc
hạch toán duy nhất, năng động trong quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã
mạnh dạn nhập các thiết bị lạnh với phơng thức trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng
20
nhập, thanh toán kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho bên nớc ngoài. Cũng
chính từ thành công trong hoạt động ngoại thơng, tích tụ và tập trung t bản đợc
hình thành, công ty đã thành lập 2 công ty liên doanh:
Công ty liên doanh CERVICO (liên doanh với công ty MEKONG - một
công ty Việt kiều ở Đức) nhằm lắp ráp thiết bị lạnh trong nớc, vốn đầu t là
820.000 USD.
Công ty liên doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty BOUYONG
của Nam Triều Tiên) chuyên sản xuấta túi sách xuất khẩu, vốn đầu t 1.600.000
USD.
Trong những năm trớc cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự có hiệu
quả. Công ty luôn dự đoán đúng nhu cầu của thị trờng trong nớc nên đã tạo đ-
ợc một số lợng hàng hoá, thiết bị vật t dự trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của
khách hàng, tạo đợc niềm tin và giữ đợc uy tín với khách hàng.
Tháng 11/1993 theo quyết định số 1707/QĐ - UB của Uỷ ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh, công ty cơ điện lạnh chính thức đợc chuyển sang
công ty cổ phần. Tổng số vốn điều lệ mới thành lập của công ty là 16 tỷ đồng
đợc chia thành 160.000 cổ phần với mệnh giá một cổ phiếu là 100.000 đồng,
nhà nớc chiếm tỷ lệ cổ phần là 30% (gồm 4 đại diện cổ đông), cán bộ công
nhân viên chức trong công ty là 50% (gồm 212 cổ đông), các cổ đông ngoài
công ty là 20% (gồm 238 cổ đông). Cổ đông là cán bộ công nhân công ty đợc
mua không quá 5% tổng số cổ phiếu, cổ đông ngoài công ty không đợc mua
quá 0,5% tổng số cổ phiếu. Nh vậy cổ đông là cán bộ công nhân viên công ty

không đợc mua cổ phần quá 800 triệu đồng, cổ đông ngoài công ty không đợc
mua cổ phần quá 800 triệu. Ngoài ra, các cổ đông là nhân viên công ty còn đợc
vay tiền với lãi suất u đãi, đợc chia quỹ khen thởng và phúc lợi còn lại để có
thể mua cổ phiếu.
Ba năm sau khi cổ phần hoá, tổng số vốn của công ty tăng từ 16 tỷ đồng
(năm 1993) lên 30 tỷ đồng (năm 1996), doanh thu năm 1996 tăng gấp 5 lần so
với năm 1993. Số lao động năm 1996 tăng hơn 3 lần so với những năm công ty
cha đợc cổ phần hoá. Tổng thu nhập của ngời lao động đạt 1.800.000/cổ phần.
Công ty đang nghiên cứu sẽ bán tiếp cổ phần u đãi cho 2/3 số công nhân mới
đợc tuyển vào làm, nhằm thu hút thêm số ngời có tay nghề cao. Năm 1996,
công ty đợc nhà nớc cho phép phát hành thử trái phiếu chuyển đổi bằng ngoại
21
tệ và bán cho các nhà đầu t nớc ngoài với tổng giá trị 5 triệu USD, lãi suấta
4,5%/năm. Các trái phiếu đợc chuyển đổi thành cổ phiếu trong quý 3/1996,
trái chủ đợc chuyển thành cổ đông sẽ không đợc tham gia Hội đồng quản trị.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trớc CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 42.000 45.000 77.000 214.000 277.000
2. Nộp NS Tr. đồng 2.570 54.370 13.126 48.000 61.000
3. Lãi Tr. đồng 6.800 7.300 11.300 21.300 5.000
4. Thu nhập
bình quân ng-
ời/tháng
1000đồng 774 1.200 1.400 1.500 1.800
5. Lao động Ngời 200 800
Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính
Công ty cổ phần giầy Hiệp An.
Công ty giầy Hiệp An là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại giày dép
phục vụ thị trờng trong nớc và xuất khẩu. Công ty đợc chuyển sang công ty cổ
phần tháng 8/1994 với tổng giá trị doanh nghiệp là 4,793 tỷ đồng. Trong đó

nhà nớc giữ 30% vốn cổ phần, cán bộ công nhân công ty giữ 35,5%, cổ đông
ngoài doanh nghiệp giữ 34,8%. Doanh thu năm 1996 tăng xấp xỉ gấp 2 lần với
năm 1993, nộp ngân sách năm 1996 tăng 5,3 tỷ đồng so với năm 1993. Thu
nhập ngời lao động tăng từ 420.000đ/ngời/tháng lên 1.200.000/ngời/tháng. Dới
đây là một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của công ty.
22
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trớc CPH Sau CPH
1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.200 13.493 18.624 25.639
2. Nộp ngân sách Tr. đồng 2.100 2.800 5.200 8.100
3. Lãi Tr. đồng 2.718 3.152 5.412 7.918
4. Thu nhập bình
quân ngời/tháng
1000 đồng 420 470 850 1.200
5. Lao động Ngời 380 400
Nguồn: Ban cổ phần Bộ tài chính
2.3.2. Thời kỳ sau thí điểm (từ cuối năm 1996 đến nay)
Thực hiện Nghị định 28/CP (7/5/1996) về chuyển các doanh nghiệp nhà
nớc sang công ty cổ phần, thời kỳ sau thí điểm cổ phần hoá (từ cuối năm 1996
đến tháng 2 năm 1999) đã có 134 doanh nghiệp đợc chuyển sang công ty cổ
phần, tính chung cả thời kỳ thí điểm hiện nay có tất cả 146 doanh nghiệp (theo
báo cáo của Ban cổ phần hoá, bộ tài chính). Từ bảng danh sách (phụ lục),
chúng ta thấy tốc độ cổ phần hoá diễn ra còn chậm, số các doanh nghiệp nhà
nớc chuyển sang công ty cổ phần nhỏ giọt trong các năm 1993 - 1997, cụ
thể năm 1993: 2 donah nghiệp; năm 1994: 1 doanh nghiệp; năm 1995: 2 doanh
nghiệp; năm 1996: 7 doanh nghiệp và năm 1997: 4 doanh nghiệp. Sang năm
1998 đã có sự tiến bộ: 102 doanh nghiệp. Nh vậy số doanh nghiệp chuyển sang
công ty cổ phần năm 1998 lớn hơn nhiều so với số doanh nghiệp chuyển sang
công ty cổ phần của các năm trớc công lại. Song kế hoạch đề ra: thực hiện cổ
phần hoá thành công 150 doanh nghiệp trong năm 1998 thì con số 102 công ty

cổ phần cha đạt đợc mục tiêu đề ra.
Bớc sang năm 1999, Chính phủ đặt ra kế hoạch sẽ thực hiện cổ phần hoá
thêm khoảng 400 doanh nghiệp. Theo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung
ơng thì từ đầu năm đến nay đã có thêm 42 doanh nghiệp nhà nớc chuyển sang
công ty cổ phần với tổng số vốn điều lệ gần 180 tỷ đồng. Trong số đó có gần
23 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp xây dựng, 10 doanh nghiệp dịch vụ th-
ơng mại, 3 doanh nghiệp giao thông vận tải và 5 doanh nghiệp nông - lâm -
thuỷ sản. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chỉ có 3 doanh
23
nghiệp có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên là công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn
thuộc Tổng công ty xi măng (38 tỷ đồng), công ty cổ phần điện cơ thuộc Tổng
công ty điện lực Việt Nam (25 tỷ đồng) và công ty cổ phần xuất nhập khẩu
Tân Định thuộc thành phố Hồ Chí Minh (10 tỷ đồng). Các địa phơng và ngành
triển khai cổ phần hoá tích cực nhất là tỉnh Bình Định (4 doanh nghiệp), thành
phố Hồ Chí Minh (4 doanh nghiệp), Tổng công ty cà phê (3 doanh nghiệp),
Tổng công ty xi măng Việt Nam (2 doanh nghiệp) Trong số 34 doanh nghiệp
hoàn thành thủ tục bán cổ phiếu đã có 12 doanh nghiệp không có cổ phần của
Nhà nớc và 27 doanh nghiệp có cổ phần của cổ đông ngoài doanh nghiệp. Nh
vậy, theo kế hoạch đặt ra cho năm 1999 là sẽ cổ phần hoá từ 400 - 600 doanh
nghiệp thì con số 42 doanh nghiệp nhà nớc mới đợc cổ phần hoá từ đầu năm
đến nay chỉ bằng 1/10 kế hoạch. Và từ giờ đến cuối năm, chúng ta phải cổ
phần hoá thêm hơn 300 doanh nghiệp nữa.
Kết quả bớc đầu.
Về phía doanh nghiệp, nhìn chung hoạt động của công ty cổ phần sau
khi cổ phần hoá đều có hiệu quả, các chỉ tiêu tăng nhiều lần so với khi còn là
doanh nghiệp nhà nớc, biểu hiện trên cả 3 mặt lợi ích của: lao động - doanh
nghiệp - Nhà nớc. Việc huy động vốn của công ty cổ phần chủ yếu đầu t chiều
sâu, đổi mới công nghệ nên năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn
trớc, đem lại lợi nhuận cao hơn.
Cơ câú vốn sở hữu trong các công ty cổ phần, tỷ lệ vốn sở hữu nhà nớc

chiếm tỷ lệ cao nhất so với các sở hữu khác. Nhà nớc nắm từ 18% đến 51%
(Bình quân 41%) cổ phần công ty; cổ đông là ngời lao động từ 18% đến 50%
cá biệt có doanh nghiệp trên 70% (bình quân 30%) cổ phần công ty; số cổ
phần còn lại là thuộc cổ đông ngoài xã hội nắm giữ (bình quân 29%).
Về phía nhà nớc, ngoài việc nhà nớc tăng thu các khoản thu từ doanh
nghiệp nh thuế lợi tức do doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhà nớc còn thu đ-
ợc một lợng vốn từ các nguồn phát sinh trong quá trình cổ phần hoá nh số thu
về tiền bán cổ phiếu. Ví dụ số thu về cổ phần hoá tính đến hết năm 1997 nh
sau:
Tiền thu về bán cổ phiếu: 30. 207 triệu đồng
Lợi tức của Nhà nớc tại các công ty cổ phần: 6.995 triệu đồng
24
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần Nhà nớc: 522 triệu đồng.
Tổng công: 37. 724 triệu đồng.
Về phía ngời lao động: ngời lao động đã gắn đợc kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình với lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp, đồng
thời đợc tạo điều kiện làm chủ doanh nghiệp.
Thu nhập của ngời lao động cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nớc từ
1,5 - 2 lần, bên cạnh đó ngời lao động còn nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng
22% - 24%/năm.
Việc làm của ngời lao động đợc đảm bảo, hơn thế ngoài số lao động cũ,
các công ty cổ phần còn thu hút thêm nhiều lao động ngoài xã hội vào làm
việc.
Trong một số công ty cổ phần, ngời lao động đã đề cử đại diện của mình
tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp. Theo kết quả khảo sát của chơng
trình hỗ trợ phát triển dự án Mêkông (Mekong Project Development Facility -
MPDF) năm 1998 trong 13 doanh nghiệp đợc khảo sáta đã thành lập Hội đồng
quản trị; 3 công ty ngời ngoài đại diện cho cán bộ công nhân viên đảm nhận
chủ tịch hội đồng và giám đốc điều hành, 2 công ty khác giữ 1 trong 2 trọng
trách trên.

2.2. Những thuận lợi, những vấn đề còn tồn tại của quá trình cổ phần
hoá doanh nghiệp ở nớc ta.
2.2.1. Về các yếu tố thuận lợi.
- Điều kiện và môi trờng pháp lý về cơ bản đợc xác lập đặt tất cả các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trờng. Việc thực hiện thơng mại hoá
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là
tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bớc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nớc.
- Chính phủ đã nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nớc và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban
hành các văn bản luật và dới luật nhằm thực hiện chơng trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc, nh luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại
sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nớc, Nghị định 388 - HĐBT về thành lập và
25

×