Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

HUỚNG DÂN MỚI ĐIỀU TRỊ NHIỄM NẤM Ở PHỔI H pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.42 KB, 5 trang )

HUỚNG DÂN MỚI ĐIỀU TRỊ NHIỄM
NẤM Ở PHỔI


Hội bệnh lồng ngực Hoa-kỳ (ATS) vừa đưa ra hướng dẫn mới về
nhiễm nấm ở phổi thay thế cho hướng dẫn năm 1988, do có nhiều chứng cứ
mới và nhiều thuốc chống nấm hơn trước kia. Hướng dẫn này đăng trên
American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine số đầu năm
2011.
Thuốc chống vi nấm tòan thân:
Amphotericin B, flucytosine và vài thuốc nhóm azole như itraconazol
và fluconazol, là những thuốc chính trong điều trị vi nấm truyền thống. Tuy
nhiên, bây giờ dược điều trị gồm một dàn thuốc triazol mới và mạnh như
ketoconazol, itraconazol, fluconazol, voriconazol và posaconazol, những
polyenes và những thuốc thuốc chống nấm mới gồm echinocandins
(caspofungin, micafungin và anidulafungin) tác dụng bằng cách ức chế sự
thành lập vách tế vào nấm. Những thuốc đại diện mới của nhóm polyenes
gồm amphotericin B deoxycholate; amphotericin B liposomal liên hệ với
lipid ít độc hại cho thận hơn, và amphotericin B phức hợp lipid.
Hướng dẫn điều trị nhắm vào 3 khu vực:
- nhiễm nấm tại địa phương (endemic mycoses) như bệnh nấm
histoplasma, sporotrichum, blastomyces coccidioid.
- nhiễm nấm tăng tỷ lệ lưu hành ở người suy yếu hệ miễn nhiễm và
bệnh nguy kịch (nhiễm nấm cryptococcosis, aspergillus, candida và viêm
phổi pneumocystis)
- nhiễm nấm hiếm gặp và mới xuất hiện.
Bệnh nấm địa phương (endemic mycoses):
Bệnh nấm từ nhẹ đến vừa phải histoplasma, sporotrichum và
blastomyces có thể điều trị với ITRACONAZOL. Tuy nhiên, thuốc chống
nấm không cần thiết cho phần lớn bệnh nhân hệ miển nhiễm còn tốt với
viêm phổi do coccidiodomycosis và không có yếu tố nguy cơ lan tràn, mặc


dầu triazol được khuyên dùng cho tất cả bệnh nhân nhiễm lan tràn.
Nhiễm trầm trọng histoplasma, sporothichum và blastomyces phải
được điều trị bước đầu với AMPHOTERICIN B tiếp theo nếu cần với thuốc
AZOL.
Tùy theo mức nghiêm trọng của aspergillosis, chọn lựa điều trị gồm
prednisone, voriconazol IV, liposomal amphotericin B hay itraconazol.
Catheter đặt ở tĩnh mạch trung ương phải được lấy ra, và khám mắt
phải thực hiện ở bệnh nhân nhiễm nấm candida. Thuốc chỉ định điều trị gồm
fluconazol, amphotericin B, echinocandin, voriconazol, hay kết hợp
fluconazol và amphotericin B.
Nhiễm nấm candida và Aspergillus phổ thông ở môi trường trại chăm
sóc tích cực (ICU). Lời khuyên đặc biệt là tổ chức cụ thể và sẵn sàng ứng
dụng vào thực hành.
Nhiễm nấm ở người suy yếu hệ miễn nhiễm:
Bệnh nhân suy yếu hệ miển nhiễm và bệnh nhân nhiễm HIV phải
nhận thuốc phòng ngừa viêm phổi do Pneumocystis. Uống trimethoprim và
sulfamethoxazol, uống primaquin + clindamycin, hay uống atovaquone được
khuyên dùng cho viêm phổi do Pneumocystis nhẹ đến trung bình, trong khi
bệnh nhân suy yếu hệ miễn nhiễm viêm phổi từ trung bình đến trầm trọng
phải điều trị với trimethoprim và sulfamethoxazol và có thể thêm
prednisone.
Nhiễm nấm hiếm và mới xuất hiện:
Để điều trị nhiễm nấm hiếm hay mới xuất hiện như zygomycose,
hyalohyphomycose, phaeohyphomycose và Trichospiron, bảng hướng dẫn
khuyên giảm những thuốc đàn áp hệ miển nhiễm, điều trị với những thuốc
tăng cường hệ miển nhiễm, và kiểm sóat những bệnh nằm phía dưới. Mô
họai tử, nang hay apxe phải được lóc bỏ và thuốc chống nấm đặc biệt phải
được dùng tại chỗ, tòan thân hay tưới rửa lên vết thương.
Với zygomycose, thuốc khuyên dùng là amphotericin B, với fusariosis
amphotericin B liên hệ với lipid, voriconazol hay posaconazol, với

scedosporiosis voriconazol và với phaeohyphomycose
itraconazol,voriconazol hay posaconazol. Với nhiễm Trichosporon và
Paecilomyces, triazol phổ rộng có thể hữu hiệu.
Nhóm làm việc nhiễm nấm của hội bệnh lồng ngực Hoa-kỳ đang dự
định phát triển một nhận định trong tương lai chỉ nêu chi tiết chẩn đóan dùng
kỹ thuật mới như huyết thanh học, thử nghiệm antigen, khuếch đại nucelic
acid và nhận dạng miễn nhiễm.
Dược sĩ Lê Văn Nhân

×