Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

CHẤN THƯƠNG NIỆU-SINH DỤC VÀ VÙNG CHẬU (GENITOURINARY AND PELVIC TRAUMA) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.07 KB, 19 trang )

CHẤN THƯƠNG NIỆU-SINH DỤC VÀ
VÙNG CHẬU
(GENITOURINARY AND PELVIC
TRAUMA)

1/ NHỮNG CƠ CHẾ NGUYÊN PHÁT CỦA CHẤN THƯƠNG
THẬN ?
Những thương tổn do chấn thương đụng dập gây nên bởi va chạm trực
tiếp hay giảm tốc nghiêm trọng (>80%) và những chấn thương xuyên
(penetrating injuries) thường là do những vết thương do súng bắn hay dao
đâm (20%). Thương tổn thận nên được nghi ngờ trước sự hiện diện của
những gãy xương sườn ở phần sau dưới của thành ngực, gãy những mỏm
ngang (transverse process fractures) của phần trên của cột sống thắt lưng,
vẹo lưng cấp tính (acute scoliosis), nhạy cảm đau hay bầm tím vùng thắt
lưng, hay tiểu ra máu.
2/ KÊ HAI CẤP CỨU NIỆU-SINH DỤC THẬT SỰ ?
Xuất huyết không cầm được và các thương tổn cuống thận (renal
pedicles) đưa đến thiếu máu cục bộ. Các quả thận di động với một mức độ
giới hạn trên cuống mạch máu. Các nạn nhân với cuống thận bị cắt đứt hoàn
toàn thường chảy kiệt máu tại hiện trường. Những thương tổn giảm tốc
(decelerating injuries) có thể gây nên sự cắt xé của những huyết quản lớn
của thận, dẫn đến huyết khối và thiếu máu cục bộ. Chẩn đoán sớm và can
thiệp phẫu thuật là chủ yếu để cứu quả thận bị thương tổn. Nơi bệnh nhân đa
chấn thương, nên theo các guidelines của chương trình ATLS, khởi đầu tập
trung vào ABCs và vào những thương tổn ngực và bụng đe dọa đến tính
mạng.
3/ MÔ TẢ NHỮNG XẾP LOẠI TỔNG QUÁT CỦA THƯƠNG
TỔN THẬN.
ĐỘ

LOẠI MÔ TẢ


I Đụng dập
Ti
ểu ra máu vi thể hay đại thể, thăm
dò niệu học bình thường

Máu t

(hematoma)

ới bao nang, không lan rộng,
không rách nhu mô
II Máu tụ
Máu t
ụ quanh thận không lan rộng,
giới hạn ở hậu phúc mạc

V
ết rách
(laceration)
Chi
ều sâu nhu mô của vỏ thận < 1cm
không có thoát mạch nước tiểu
III Vết rách
Chi
ều sâu nhu mô của vỏ thận > 1cm
không có v
ỡ hệ ống góp hay thoát mạch
nước tiểu
IV Vết rách
Vết rách nhu mô lan rộng xuy

ên qua
vỏ thận, tủy thận, và hệ ống góp
Huyết quản

Thương tổn động mạch và t
ĩnh mạch
quan trọng với sự xuất huyết được kềm chế

Vết rách
Huy
ết quản
Thận bị vỡ hoàn toàn
Rốn thận bị nhổ bật ra, làm m
ất phân
bố mạch thận
4/ NHỮNG TIẾN TRIỂN LÂM SÀNG CỦA CÁC THƯƠNG
TỔN THẬN NÀY ?
Hầu hết tất cả các đụng dập thận (renal contusions) và những vết rách
nhỏ (minor lacerations) lành một cách ngẫu nhiên với nghỉ ngơi và quan sát
theo dõi. Việc điều trị các vết rách quan trọng nên để cho thầy thuốc niệu
khoa. Có một khuynh hướng gia tăng điều trị bảo tồn tất cả những bệnh nhân
với thương tổn thận ổn định (ngoại trừ những trường hợp thương tổn độ V).
Những thương tổn cuống thận (renal pedicle injuries) và vỏ thận thường đòi
hỏi can thiệp phẫu thuật sớm.
5/ MỘT THƯƠNG TỔN THẬN NHẸ (MINOR RENAL
INJURY) LÀ GÌ ?
Một thương tổn thận nhẹ xảy ra nơi 90% của tất cả các bệnh nhân
chấn thương thận và bao gồm đụng dập thận (renal contusion) và những vết
rách nông (shallow renal lacerations) giới hạn ở vỏ thận.
6/ NHỮNG THƯƠNG TỔN THẬN NHẸ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ

THẾ NÀO ?
Các bệnh nhân với các thương tổn nhẹ (minor injuries), liên kết với
huyết niệu đại thể, cần được nhập viện và cho nằm nghỉ ngơi cho đến khi
nước tiểu trong suốt. Những bệnh nhân với huyết niệu vi thể và một niệu đồ
tĩnh mạch (IVP) bình thường không đòi hỏi phải đánh giá thêm
7/ MỘT THƯƠNG TỔN THẬN QUAN TRỌNG (MAJOR
RENAL INJURY) LÀ GÌ ?
Những thương tổn thận quan trọng có thể được sắp xếp thành những
thương tổn cuống thận (pedicle injuries) và những thương tổn không phải
cuống thận (nonpedicle injuries). Những vết rách thận quan trọng (major
renal lacerations) lan rộng xuyên qua chỗ nối vỏ-tủy thận. Nếu hệ ống góp
(collecting system) bị thương tổn, sự tràn nước tiểu ra ngoài (urinary
extravasion) có thể xảy ra. Nhiều vết rách quan trọng sẽ dẫn đến vỡ thận (a
shattered kidney). Các thương tổn cuống thận gồm có những vết rách hay tắc
của các huyết quản phân đoạn (segmental) hay lớn.
8/ CÁC THƯƠNG TỔN THẬN QUAN TRỌNG ĐƯỢC ĐIỀU
TRỊ NHƯ THẾ NÀO ?
Việc điều trị các thương tổn quan trọng đụng dập thận còn gây tranh
cãi. Hầu hết các bệnh nhân bị nghi ngờ có những thương tổn thận quan
trọng, đuợc thăm khám với CT scan để đánh giá tốt hơn mức độ nghiêm
trọng của thương tổn. Những bệnh nhân ổn định được bù dịch, được đặt nghỉ
ngơi trên giường cho đến khi nước tiểu trong suốt, và được theo dõi sát để
tìm những thay đổi của dấu hiệu sinh tồn chỉ rõ sự xuất huyết vẫn tiến triển.
Truyền máu được thực hiện nếu cần và các kháng sinh có kháng khuẩn phổ
rộng được cho. Những bệnh nhân với tình trạng bất ổn định huyết quản kéo
dài mặc đầu những cố gắng hồi sức thích đáng, phải được thăm dò ngoại
khoa.
9/ SỰ HIỆN DIỆN CỦA TRÀN NƯỚC TIỂU RA NGOÀI CÓ
ĐÒI HỎI CAN THIỆP PHẪU THUẬT KHÔNG ?
Sự hiện diện của sự tràn nước tiểu ra ngoài (urinary extravasion) xác

nhận chẩn đoán thương tổn thận quan trọng. Sự tràn nước tiểu ra ngoài
(extravasion) riêng rẻ không đòi hỏi phải can thiệp ngoại khoa.
Những bệnh nhân này được theo dõi sát để tìm những dấu hiệu sepsis
hay những dấu hiệu tràn nước tiểu ra ngoài dai dẳng đòi hỏi thăm dò ngoại
khoa và dẫn lưu. Ngoài ra, điều quan trọng là phải nhìn thấy được niệu quản,
bởi vì sự vỡ của chỗ nối niệu quản bể thận có thể xảy ra và đòi hỏi thăm dò
và sửa chữa tức thời.
10/ CHẤN THƯƠNG ĐỤNG DẬP THẬN ?
- Xuất huyết kéo dài (bạn không thể cho phép bệnh nhân xuất huyết
đến chết !).
- Một quả thân bị vỡ tan hay một quả thận với nhiều vết rách nát quan
trọng.
- Thương tổn huyết quản.
11/ CÁC VAI TRÒ CỦA CT SCAN, CHỤP BỀ THẬN TĨNH
MẠCH (IVP : INTRAVENOUS PYELOGRAPHY), CHỤP MẠCH
CHỌN LỌC (SELECTIVE ANGIOGRAPHY), VÀ MRI TRONG
ĐÁNH GIÁ CHẤN THƯƠNG THẬN ?
CT scan ưu việt hơn IVP trong việc xác định độ nghiêm trọng và mức
độ lan rộng của thương tổn và đã trở nên thăm khám chọn lựa để đánh giá
xác định của nhu mô thận. CT với chất cản quang (contrast-enhanced CT)
cũng là một phương pháp chính xác chẩn đoán những thương tổn động mạch
thận, làm giảm sự cần thiết phải chụp động mạch (arteriography). Helical
CT đã cải thiện độ nhạy cảm của CT trong sự nhận diện chấn thương niệu
quản (ureteral trauma). Chụp niệu đồ (hay bể thận) tĩnh mạch (IVP) có thể
được sử dụng như là xét nghiệm thăm dò (screening test) để loại bỏ chấn
thương đụng dập thận quan trọng và thương tổn niệu quản riêng rẻ nếu
không có CT hay nếu bệnh nhân không ổn định. Những thăm khám với IVP
bất thường hay không xác định được, cần những thăm khám thêm để xác
định thương tổn. IVP không đánh giá những thương tổn liên kết trong bụng
(intraabdominal injuries). IVP có thể hữu ích nơi một bệnh nhân không ổn

định đòi hỏi can thiệp phẫu thuật tức thời bởi vì nó có thể được thực hiện
ngoài khoa X quang (thí dụ ở phòng cấp cứu hay phòng mổ). Chụp mạch
thận (renal angiography) có thể được chỉ định khi có một thương tổn mạch
máu được nghi ngờ, mặc dầu phương pháp này được thay thế phần lớn bởi
CT. MRI cho thấy chi tiết cơ thể học tương tự với CT. Tuy nhiên, phương
pháp này bị giới hạn bởi thời gian chụp ảnh, phí tổn gia tăng, và những khó
khăn monitoring. MRI có thể hữu ích nơi những bệnh nhân ổn định với dị
ứng thuốc cản quang.
12/ CÁCH CHỤP HÌNH ẢNH NÀO ĐƯỢC CHỌN LỰA ĐỐI
VỚI MỘT BỆNH NHÂN BỊ NGHI ĐỤNG DẬP THẬN ?
Chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc có chặt cản quang (contrast-enhanced
spiral computed tomography) xác định một cách chính xác mức độ lan rộng
của thương tổn và có thể phân biệt mô thận còn sống được với mô thận mất
phân bố mạch.
13/ CHẤN THƯƠNG NIỆU QUẢN (URETERAL TRAUMA)
ĐƯỢC NGHI NGỜ KHI NÀO ?
Trước sự hiện diện của những chấn thương xuyên (penetrating
injuries), kế cận với niệu quản. Có thể không có tiểu ra máu. Chụp niệu đồ
(hay bể thận) tĩnh mạch (IVP) hay CT scan nhận diện được thương tổn.
Chấn thương đụng dập niệu quản (blunt ureteral trauma) thường được liên
kết với những thương tổn khác trong bụng và thường được chẩn đoán trong
phẫu thuật.
14/ TỶ LỆ BỊ THƯƠNG TỔN NIỆU ĐẠO (URETHRAL
INJURY) TRONG MỘT GÃY XƯƠNG CHẬU ?
Khoảng 10% các gãy xương chậu được liên kết với các thương tổn
của đường tiểu dưới. Những thương tổn niệu đạo (urethral injuries) hiện diện
trong khoảng 3,5 đến 5% các trường hợp.
15/ KHI NÀO NGHI NGỜ MỘT THƯƠNG TỔN NIỆU ĐẠO
(URETHRAL INJURY) ?
Những bệnh nhân với một bệnh sử chấn thương đáy chậu hay xương

chậu, đặc biệt là với sự hiện diện của một gãy xương chậu, nên được nghi
ngờ có một thương tổn niệu đạo. Máu ở lỗ đái (urethral meatus) là một dấu
hiệu thường thấy, và bệnh nhân có thể không đi tiểu được. Tuy nhiên những
dấu hiệu này không luôn luôn hiện diện và cần có một mức độ nghi ngờ cao.
Các thương tổn niệu đạo nghiêm trọng có thể được liên kết với sưng và bầm
tím của dương vật và/hoặc đáy chậu.
16/ NHỮNG CHỐNG CHỈ ĐỊNH THÔNG NIỆU ĐẠO NƠI
BỆNH NHÂN BỊ CHẤN THƯƠNG ?
Thông niệu đạo không nên được thực hiện nơi một bệnh nhân nghi
thương tổn niệu đạo bởi vì một vết rách không hoàn toàn có thể được biến
thành một vết rách hoàn toàn, và những nguy cơ nhiễm trùng và gây thương
tổn thêm gia tăng. Trong số những bệnh nhân với thương tổn niệu đạo, 80%
đến 90% có máu nơi lỗ sáo niệu đạo (urethral meatus). Các khối máu tụ bao
tinh hoàn và đáy chậu (scrotal and perineal hematomas) hay một tuyến tiền
liệt nằm cao lúc khám trực tràng là những dấu hiệu khác của vỡ niệu đạo
(urethral rupture). Không nên thông tiểu những bệnh nhân với các dấu hiệu
này cho đến khi chụp niệu đạo ngược dòng (retrograd urethrogram) được
thực hiện để loại bỏ thương tổn niệu đạo.
17/ CHỤP NIỆU ĐẠO NGƯỢC DÒNG NHƯ THỂ NÀO ?
Chụp niệu đạo ngược dòng (retrograd urerthrogram) được thực hiện,
dùng một catheter đường tiểu cỡ 12F được giữ chắc vào hố lỗ tiểu (meatal
fossa) bằng cách bơm phồng quả bóng khoảng 3 mL. Chất cản quang hòa
tan trong nước (25 đến 30 mL) được tiêm vào dưới áp suất nhẹ khi phim
được chụp theo vị trí trước-sau và nghiêng.
18/ MÔ TẢ NHỮNG PHUƠNG PHÁP ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ
CHẤN ĐOÁN NHỮNG THƯƠNG TỐN BÀNG QUANG.
Chụp bàng quang ngược dòng (retrograde cystography) quy ước từ
lâu đã được xem là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán các thương tổn bàng quang
do chấn thương. Kỹ thuật thích đáng là quan trọng. Bàng quan nên được làm
đầy dưới trọng lượng với 300-400ml chất cản quan qua catheter đặt tại chỗ

(indwelling catheter). Một hình chụp bụng tư thế trước sau nằm ngửa được
thực hiện sau khi cho vào chất cản quang và sau khi tháo đi. Phim chụp sau
khi chất cản quang tháo đi cho phép nhận diện những đường nứt nhỏ không
được thấy lúc chụp phim khởi đầu với bàng quang căng phồng.
Chụp bàng quang cắt lớp vi tính (CT cystography) đã xuất hiện như
một phuơng pháp chính xác và đáng tin cậy để nhận diện những thương tổn
bàng quang và đã thay thế chụp bàng quang quy ước nơi nhiều trung tâm y
tế. Mức độ chính xác của mỗi phương pháp tùy thuộc vào sự căng phồng
thích đáng của bàng quang. Những công trình sơ khởi đánh giá CT
cystography đã báo cáo mức độ nhạy cảm bị giảm do bàng quang không
được làm đầy thích đáng. Sự làm đầy ngược dòng bàng quang đảm bảo sự
căng phồng thích đáng và ít tốn thời gian. Khi được chỉ định, CT
cystography có thể được thực hiện như là một bổ trợ cho CT bụng-chậu
dùng thường quy trong khung cảnh chấn thương, tiết kiệm thời gian và loại
bỏ sự cần thiết phải xê dịch thêm một bệnh nhân với một gãy xương cột
sống tiềm tàng không ổn định hay gãy xương chậu. Chụp bàng quang cắt lớp
vi tính (CT cystography) cũng có thể nhận diện những lượng nhỏ dịch nội
hay ngoại phúc mạc với mật độ của nước, gợi ý nước tiểu tràn ra ngoài.
Những khuyết điểm của CT cystography là sự tiếp xúc phóng xạ và phí tổn
gia tăng.
19/ NHỮNG CHỈ ĐỊNH CỦA CHỤP BÀNG QUANG NGƯỢC
DÒNG ?
Chụp bàng quang ngược dòng quy ước (conventional retrograde
cystography) hay Chụp bàng quang cắt lớp vi tính (CT cystography) được
chỉ định nếu nghi vỡ bàng quang. Những khuyến nghị hình ảnh bàng quang
trong chấn thương đụng dập vẫn còn tranh cãi. Sự kết hợp của tiểu ra máu
đại thể và gãy xương chậu là một chỉ định tuyệt đối của chụp bàng quang.
Những chỉ định tương đối gồm có tiểu ra máu đại thể (gross hematuria)
không có gãy xương chậu và gãy xương chậu với tiểu ra máu vi thể. Chấn
thương xuyên với bất cứ mức độ tiểu ra máu vi thể nào đều nên được đánh

giá tìm thương tổn niệu-sinh dục. Nếu vết thương ở gần bàng quang, bất kể
sự hiện diện của tiểu ra máu hay không, một hình chụp bàng quang
(cystogram) nên được thực hiện.
20/ NHỮNG CHỈ ĐỊNH ĐÁNH GIÁ BÀNG QUANG NƠI
NHỮNG BỆNH NHÂN VỚI CHẤN THƯƠNG ĐỤNG DẬP BỤNG
DƯỚI ?
Một hình chụp bàng quang (cystogram) được chỉ định nơi tất các bệnh
nhân với tiểu ra máu đại thể (gross hematuria). Nếu bệnh nhân không thể đi
tiểu, có máu nơi lỗ sáo (urethral meatus), hay có đáy chậu bị sưng và bầm
tím hay một tuyến tiên liệt không sờ đuợc, thì một hình chụp niệu đạo
(urethrogram) nên được thực hiện trước khi thực hiện hình chụp bàng quang.
21/ TỶ LỆ VỠ BÀNG QUANG NƠI CÁC BỆNH NHÂN VỚI
GÃY XƯƠNG CHẬU ?
Vỡ bàng quang (bladder rupture) xảy ra nơi khoảng 5-10% các bệnh
nhân với gãy xương chậu. Thủng có thể là ngoại phúc mạc (50-85%), nội
phúc mạc (15-45%), hay hiếm hơn cả hai ( 0-12%).
22/ NHỮNG BỆNH NHÂN VỚI GÃY XƯƠNG CHẬU VÀ VI
HUYẾT NIỆU CÓ ĐÒI HỎI ĐÁNH GIÁ BÀNG QUANG KHÔNG ?
Các công trình nghiên cứu đã cho thấy một tỷ lệ bị thương tổn bàng
quang thấp nếu không có tiểu ra máu đại thể, và do đó sự đánh giá niệu khoa
không được thực hiện nếu không có những dấu hiệu khác gợi ý một thương
tổn niệu khoa.
23/ NHỮNG DẤU HIỆU LÂM SÀNG LIÊN KẾT TRONG
THƯƠNG TỔN BÀNG QUANG LÀ GÌ ?
Khoảng 10% các gãy xương chậu được liên kết với vỡ bàng quang
hay niệu đạo. Nén ép bụng dưới, như được thấy với chấn thương do dây an
toàn bụng (lap belt injuries) và do bánh lái (steering wheel injuries), có thể
làm vỡ bàng quang căng đầy mà không gây thương tổn đai chậu (pelvic
girdle).Tiểu ra máu đại thể hiện diện nơi hơn 95% các bệnh nhân với vỡ
bàng quang sau chấn thuờng đụng dập.

24/ GÃY DƯƠNG VẬT (PENILE FRACTURE) LÀ GÌ ?
- Một sự rách đột ngột của lớp trắng (tunica albuginea) với vỡ thể
hang (corpora cavernosa). Thường chỉ xảy ra khi dương vật cương và
thường được liên kết với những té ngã hay những chuyển động đột ngột bất
ngờ trong lúc giao hợp. Cũng được báo cáo với chấn thường đụng dập trực
tiếp. Một cơn đau dữ dội đột ngột liên kết với một tiếng động tách và mất
cương máu tức thời thường xảy ra. Hầu hết các tác giả gợi ý can thiệp ngoại
khoa hỗ trợ trong mục đích tái lập chức năng bình thường và ngăn ngừa sự
gập góc. Không thể tiểu tiện, xuất huyết ở lỗ đái, hay tràn nước tiểu ra ngoài
có thể chỉ rõ thương tổn thể xốp (corpora spongiosum) và niệu đạo, thường
xảy ra trong khoảng 20% các trường hợp.
- Một dương vật bị gãy (fractured penis), do vỡ thể hang (corpus
cavernosum) gây nên bởi chấn thương, được xử trí bằng dẫn lưu ngoại khoa
máu đông và sửa chữa lớp trắng (tunica albuginea) bị rách và bất cứ thương
tổn niệu đạo nào được liên kết.
25/ MÔ TẢ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ ĐỐI VỚI DƯƠNG VẬT BỊ CẮT
CỤT (AMPUTED PENIS).
Sự cắt cụt dương vật (penile amputation) có thể xảy ra do chấn thương
tai nạn hay cắt xẻo tự ý (deliberate mutilation). Da của dương vật không thể
sống còn được sau hai giờ thiếu máu cục bộ ấm. Nhìn toàn bộ, tỷ lệ sống sót
ghép là khoảng 18 giờ. Phần bị cắt cụt nên được nhúng vào dung dịch
Ringer’s lactate chứa heparin và các kháng sinh, có thể kéo dài thời gian
sống còn trong khi chờ hội chẩn tiết niệu. Đánh giá tâm thần được chỉ định
trong trường hợp cắt xẻo cố ý (intentional mutilation).
26/ NHỮNG LOẠI CHẤN THƯƠNG NÀO XẢY RA NƠI TINH
HOÀN ?
Có lẽ mọi người trên 18 tuổi đều đã kinh qua một dạng chấn thương
tinh hoàn nào đó. Mặc dầu hầu hết các trường hợp không đủ nghiêm trọng
để đòi hỏi thăm khám. Chấn thương đụng dập là nguyên nhân thông thường
nhất của chấn thương tinh hoàn, theo sau là các chấn thương xuyên, chấn

thương tự ý gây nên, và cuối cùng các chấn thương gây trật. Chấn thương
tinh hoàn đã được báo cáo xảy ra khi đẻ ngôi ngược, nhưng hầu hết các
trường hợp đều xảy ra nơi các thiếu niên và những người trưởng thành trẻ
tuổi dưới 40. Hầu hết là những chấn thương tinh hoàn đơn độc, mặc dầu một
vài, nhất là những chấn thương gây nên bởi một vật xuyên, có thể ảnh hưởng
lên tinh hoàn đối diện hay dương vật và niệu đạo.
27/ HÀNH ĐỘNG NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN KHI MỘT
BỆNH NHÂN BỊ MỘT CHẤN THƯƠNG ĐỤNG DẬP TINH HOÀN ?
Nếu có thể, một bệnh sử chính xác nên được thực hiện để xác định
nguyên nhân của chấn thương và do đó cho phép một sự đánh giá đầy đủ
hơn mức độ nghiêm trọng của biến cố. Chấn thương đụng dập gây nên vỡ
tinh hoàn (testicular rupture) khi một cú đánh khá mạnh ép tinh hoàn đột
ngột vào xuong mu. Nếu tinh hoàn còn có thể ấn chẩn được và sự phù nề
không quá mức, sự thăm khám nhẹ nhàng tinh hoàn, mào tinh hoàn, và sau
cùng, các thừng tình nên được thực hiện. Bất cứ một sự khuyết nào có thể sờ
thấy trong lớp trắng (tunica albuginea) đều đủ lớn để đòi hỏi sửa chữa ngoại
khoa. Thường một sự thăm khám kỹ bao tinh hoàn và các cơ quan bên trong
là khó khăn, bởi vì vùng này có thể rất bị sưng và rất nhạy cảm. Nếu sự sưng
tinh hoàn rõ rệt và tinh hoàn không thể ấn chẩn được, và nếu tình trạng bệnh
nhân ổn định, một thăm khám siêu âm là cần thiết để xác định mức độ của
thương tổn. Với một mức độ nghi ngờ cao rằng lớp trắng đã bị vỡ, dầu có
xác nhận bởi siêu âm hay không, can thiệp ngoại khoa nên được xét đến.
28/ VAI TRÒ SIÊU ÂM TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤN THƯƠNG
TINH HOÀN ?
Siêu âm là một công cụ quý giá trong việc đánh giá sự toàn vẹn của
các tinh hoàn. Sự ấn chẩn thích đáng có thể bị cản trở do sự hình thành khối
máu tụ. Siêu âm có thể phân biệt giữa máu tụ đơn thuần và gãy vỡ nhu mô.
Việc không nghi ngờ và chẩn đoán vỡ tinh hoàn có thể dẫn đến sự mất tinh
hoàn.
29/ PHƯƠNG THỨC CHẮN ĐOÁN ĐỐI VỚI VI HUYẾT NIỆU

(MICROHEMATURIA) NƠI BỆNH NHÂN VỚI CHẤN THƯƠNG
ĐỤNG DẬP ?
Bất cứ bệnh nhân chấn thương nào có tiểu ra máu thấy rõ, vi huyết
niệu và choáng, hay các chấn thương xuyên và bất cứ mức độ huyết niệu nào
đều phải đòi hỏi đánh giá X quang thêm. Tuy nhiên, những công trình
nghiên cứu những bệnh nhân chấn thương đụng dập trưởng thành hay nhi
đồng cho thấy rằng vi huyết niệu không có triệu chứng không phải là một
yếu tố tiên đoán tốt về thương tổn đường niệu sinh dục. Lượng máu trong
nước tiểu không tương ứng với mức độ nghiêm trọng của chấn thương. Tỷ lệ
tương đối thấp của những thăm dò dương tính đòi hỏi phẫu thuật không biện
minh một sự đánh giá X quang sâu rộng. Theo dõi sát những bệnh nhân này
và xét nghiệm nước tiểu lập lại được khuyến nghị, với những thăm dò bổ
sung chỉ khi huyết niệu tồn tại dai dẳng. Vẫn còn tranh cãi trong sự đánh giá
các bệnh nhân nhi đồng với huyết niệu vi thể không triệu chứng
(asymptomatic microhematuria). Những bệnh nhân nhi đồng khả dĩ hơn bị
thương tổn thận đáng kể với các cơ chế tương đối hiền, và do đó nhiều người
chủ trương thăm dò hình ảnh với bất cứ mức độ huyết niệu nào, bất kể có
triệu chứng hay không.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

×