Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 79 trang )

Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một hình thái ý thức xã hội, tồn tại
lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Nếu chỉ kể những tôn giáo lớn đang
tồn tại hiện nay, tôn giáo đã có lịch sử tồn tại hàng nghìn năm (Phật giáo 25
năm, Ki Tô giáo 2500 năm, Hồi giáo khoảng 1300 năm). Nếu kể cả những
hình thức tôn giáo sơ khai nguyên thuỷ thì có thể nói (mà không thể cường
điệu rằng) tôn giáo tồn tại gần xuyên suốt lịch sử xã hội loài ngưòi. Tôn giáo
là một bộ phận quan trọng trong đời sống con người, là một bộ phận trong
nền văn hoá của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Thời gian gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có những diễn biến
phức tạp, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa học.
Do đó, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực tiễn.
Nước ta là nước có nhiều tôn giáo và trong lĩnh vực tôn giáo, bên
cạnh những yếu tố tích cực cũng có nhiều yếu tố tiêu cực; bên cạnh những
nội dung, nghi thức lành mạnh, cũng còn không ít những điều mê tín,
những hủ tục. Sự hiểu biết về tôn giáo và những hình thức tôn giáo cụ thể
chưa đầy đủ.
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề về tôn giáo trên thế giới cũng
như ở Việt Nam là việc làm cần thiết, nhằm ứng xử cho đúng đắn với các
hình thức tôn giáo khác nhau ở cấp độ Nhà nước hay trong quần chúng nhân
dân. Các chính sách tôn giáo với những chủ trương, biện pháp của Đảng và
Nhà nước cần được xác định và bổ sung cho đầy đủ, nhằm hạn chế sự lợi
dụng tôn giáo vào những mục đích khác nhau: kinh tế, chính trị, xã hội…

SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
1
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO


I. Định nghĩa và sự ra đời của tôn giáo
I.1. Định nghĩa tôn giáo
I.1.1. Theo nghĩa rộng
Có rất nhiều định nghĩa tôn giáo theo nghĩa rộng được đưa ra, trong đó
định nghĩa của nhà tôn giáo học Haichelin (người Pháp) đã thâu tóm được
nguồn gốc và bản chất của tôn giáo, đó là:
“ Tôn giáo là một sự phản ánh đặc biệt, hoang đường và sai lệch trong
ý thức xã hội, những mối quan hệ giũa con người với nhau và với tự nhiên.
Bởi con người trong xã hội nguyên thuỷ cũng như trong các xã hội được phân
chia thành giai cấp. Xã hội Cổ đại, Phong kiến, Tư bản cũng đều đặt dưới sự
thống trị của những sức mạnh ở bên ngoài mà họ không nhận biết được cũng
như không chi phối và kiểm soát được. Vì thế mà đối với chúng, họ cảm thấy
có sự sợ hãi, bí ẩn. Sự sợ hãi này theo giải thích của các nhà thờ sẽ sản sinh ra
các vị thần”.
I.1.2. Theo nghĩa hẹp
Sự ra đời của một tôn giáo theo đúng nghĩa đầy đủ của nó được gọi là
tôn giáo theo nghĩa hẹp hay còn gọi là đạo. Tôn giáo hẹp ra đời cùng với sự
thiết lập xã hội có giai cấp, các quốc gia dân tộc ra đời. Các nhà nghiên cứu
thường cho rằng một tôn giáo theo nghĩa hẹp cần hội tụ ba hoặc bốn yếu tố
* Y Lam bert: Điều cốt lõi của một tôn giáo là ý thức phản ánh mối
quan hệ giũa cái trần tục và cái siêu nhiên, tác động đến một cộng đồng người
hay một nhóm xã hội có tổ chức cho dù tôn giáo ấy phát sinh ở buổi sơ khai
của nhân loại hay muộn hơn. Hay nói cách khác cái cốt lõi chính là niềm tin
tôn giáo phải có ba yếu tố:
+) Sự tồn tại như giả định của các vật thể các lực lưỡng hay cái thực thể
nằm ngoài những giói hạn khách quan trong điều kiện của con ngưòi.
+) Sự tồn tại của những phương tiện biểu tượng để giao tiếp với những
sức mạnh đó.
+) Sự tồn tại của những hình thức quản lý chung của các cộng đồng.
* Đặng Nghiêm Vạn cho rằng cần có bốn yếu tố :

SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
2
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
+) Có giáo lý phản ánh một thế gii quan rõ rệt
+) Có người sáng lập, có đấng tối cao với một thiên thần
+) Có tổ chức
+) Có lễ thức phức tạp, định kỳ, kiêng cự.
I.2. Sự ra đời của các tôn giáo
Khi nào tôn giáo xuất hiện? Có phải rằng khi con người xuất hiện trên
Trái Đất thì đồng thời tôn giáo cũng ra đời hay không? Thực tế lịch sử đã cho
thấy đã có thời kỳ lịch sử hàng triệu năm con ngưòi tồn tại và phát triển chưa hề
có tôn giáo. Tôn giáo chỉ xuất hiện và tồn tại khi trình độ nhận thức và trình độ
xã hội của con người đến một mức độ nhất định. Trình độ của con người tương
ứng với trình độ sức sản xuất phát triển. Các nhà khoa học cho rằng trong suốt
thời kỳ Bầy người nguyên thuỷ con người chưa hề biết đến tôn giáo. Đến cuối
thời Bầy người đã có một hiện tượng đáng lưu ý đó là ở người Neamđertan đã
xuất hiện mộ táng chứng tỏ con người đã biết chôn đồng loại.
Trước hiện tượng mộ táng có nhiều kiến giải khác nhau. Có người cho rằng
đó là thể hiện một ý tưởng tâm linh nào đó về thế giới bên kia. Một số người khác
lai cho rằng đó chỉ xuất phát từ tình thương hoặc sợ hãi, sự thối rữa…
Nhưng các nhà khoa học đã thống nhất tới hậu kỳ đá cũ khi xuất hiện
người Hômesapien gắn với sự ra đời của Công xã thị tộc thì tôn giáo xuất hiện với
bằng chứng là trong nhiều mộ táng của người chết có chôn theo lương thực, trang
sức, đồ dùng, vũ khí….thể hiện sự bất tử về linh hồn, về thế giới bên kia.
II. Bản chất - cơ cấu, nguồn gốc, tính chất và các bước phát triển của tôn
giáo.
II.1. Bản chất - cơ cấu
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội, là "thế
giới quan lộn ngược" trong giải quyết mối quan hệ giữa con người và siêu
nhiên, cái hiện thực với cái hư ảo, cái trần tục với cái thiêng liêng, cái trần

gian với cái siêu trần gian; là sự phản ánh hư ảo, hoang tưởng những sức
mạnh bên ngoài (cả tự nhiên và xã hội), trong đó sức mạnh trần gian mang
hình thức sức mạnh siêu tưởng, tưởng tượng bằng sức mạnh siêu nhiên chi
phối toàn bộ đời sống con người và cả cộng đồng người.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
3
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
- Tôn giáo với hình thức phát triển hoàn chỉnh, hiện đại của nó bao
giờ cũng bao gồm các yếu tố: quan niệm, niềm tin tôn giáo; tình cảm tôn
giáo; hành vi tôn giáo (gắn với tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo,
của những nhà tu hành chuyên nghiệp, với những cơ sở hạ tầng như: nhà
thờ, thánh thất, chùa chiền, …)
II.2. Nguồn gốc
II.2.1. Nguồn gốc nhận thức:
Ý kiến của Phơ Bách, Mác, E.ghen, Lê Nin đều khẳng định con người
sáng tạo ra tôn giáo.
Tôn giáo nảy sinh trong một xã hội mà trình độ sản xuất hết sức thấp
kém, con người vừa mới thoát khỏi thế giới động vật, còn lệ thuộc vào tự
nhiên. Cho nên, trên cơ sở ban đầu của tôn giáo là sự phản ánh sai lầm của
con nguời về thế giới vật chất trước những hiện tượng bão táp, sấm sét, bão
lụt, động đất,….Còn từ cả những trạng thái của con người như giấc mơ, ốm
đau, bệnh tật,…
Theo E.ghen: từ thời đại nguyên thuỷ, tôn giáo đã sinh ra từ những biểu
tượng hết sức ngu muội, tối tăm và nguyên thuỷ của con người về bản chất
của chính họ nói về tự nhiên bên ngoài bao quanh họ.
II.2.2. Nguồn gốc xã hội:
Bên cạnh các hiện tượng tự nhiên, con người còn luôn phải đối mặt với
những lực lượng tự phát trong quan hệ xã hội, ví dụ như trong xã hội thị tộc,
bộ lạc vấn đề chiến tranh dành đất đai, phân công lao động trong cộng
đồng Trước những vấn đề đó những sức mạnh xã hội này cũng xa lạ, đối

lập với con người và trước những sức mạnh xã hội người ta không tìm ra lối
thoát, trong thực tế phải tìm lối thoát bằng ảo tưởng, bằng tôn giáo, đặc biệt
trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Ngoài sự bất lực của con người trước
những hiện tượng xã hội diễn ra tự phát đa dạng, còn có sự áp bức bóc lột giai
cấp mà trong đó quần chúng nhân dân lao động là người phải gánh chịu
những bất công. Những người bị bóc lột không những bị bóc lột về kinh tế, lệ
thuộc về chính trị mà còn bị nô dịch về tinh thần, tình trạng sống thiếu thốn,
lao động cưỡng bức, o ép về tinh thần buộc họ phải tìm lối thoát nhưng không
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
4
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
thể tìm được lối thoát trong cuộc sống trần gian nên đành phải hy vọng vào
một cuộc sống nơi thiên đường, thế giới bên kia.
II.2.3. Nguồn gốc tâm lý
Lòng biết ơn những người khám phá, tấn công vào cường quyền cũng
đẻ ra tôn giáo. Từ lòng biết ơn, ngưỡng mộ đó, họ tôn sùng những người có
tính cách siêu phàm, xuất chúng có công đức to lớn.
II.3. Tính chất
- Tính chất lịch sử.
- Tính chất quần chúng: biểu hiện ở số lượng các tín đồ tôn giáo chiếm
tỉ lệ cao trong dân số thế giới và tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của một
bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
- Tính chất chính trị.
II.4. Các bước phát triển của tôn giáo (các hình thức tôn giáo trong lịch sử)
II.4.1. Các hình thức tôn giáo sơ khai trong thời kì xã hội nguyên thuỷ
Đây là dạng tôn giáo thứ nhất gắn với xã hội thị tộc, bộ lạc. Bao gồm:
• Bái phật giáo (thờ vật)
• Tôtem giáo (thờ vật tổ)
• Ma thuật giáo (phù thuỷ)
• Vật linh giáo

• Tục thờ cúng tổ tiên
• Saman giáo (là hình thức lên đồng của các thầy phù thuỷ)
II.4.2. Các dạng thức tôn giáo trong thời kì xã hội có giai cấp và nhà nước
- Tôn giáo quốc gia dân tộc: là kiểu tôn giáo thứ hai trong lịch sử xã hội
loài người, gắn liền với sự ra đời xã hội có giai cấp nhà nước đầu tiên và
chiếm nô. Đặc trưng của tôn giáo này là tính chất quốc gia nhà nước của nó,
sức mạnh cuả các vị thần vượt ra ngoài biên giới quốc gia dân tộc. Ví dụ:
Bàlamôn, Hinđu, Do thái, Sintô, Khổng, Lão.
- Tôn giáo thế giới: là kiểu tôn giáo thứ ba trong lịch tôn giáo loài
người. Đó là những tôn giáo vượt ra khỏi khu vực mang tính thế giới. Tôn
giáo thế giới ra đời gắn với giao lưu văn hoá, xung đột quốc gia, bành trướng
của các đế chế.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
5
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
III. Vai trò (tác động) của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Trước đây các nhà khoa học thường chỉ thấy mặt tác hại, xu hướng đi về
đánh giá mặt hạn chế của tôn giáo mà không thấy ở tôn giáo sự tích cực nào.
Gần đây các nhà nghiên cứu đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh sự phê phán những
hạn chế đã thấy được những tiến bộ, đóng góp của tôn giáo với xã hội.
Thế giới là một hình thái ý thức xã hội nằm trong kiến trúc thượng tầng
nên luôn tác động trở lại hạ tầng đã sản sinh ra nó. Nhưng tôn giáo khác với
các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, … ở chỗ tôn giáo nó ở xa cơ sở
hạ tầng hơn. Vì vậy nhiều khi nó tác động trở lại cơ sở hạ tầng thông qua các
yếu tố trung gian chứ không tác động trực tiếp. Do vậy, tác động của tôn giáo
ở nhiều lĩnh vực khác nhau và hết sức phức tạp. Có những tác động lớn, sâu
sắc nhưng cũng rất khó lường hậu quả của nó.
III.1. Tác động tiêu cực:
Theo Mac: Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái
tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của

những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
- Tôn giáo là “thuốc phiện" của nhân dân - chức năng đền bù hư ảo. Tôn
giáo cho rằng con người khổ đau là một tất yếu và con người muốn tho¸t khổ thì
không có phương thuốc nào mà chỉ bằng cách là thực hiện những hiện những lời
dạy của tôn giáo. Trong lúc con người muốn giải thoát mình khỏi nỗi khổ trần
thế thì tôn giáo vẽ ra cho mình một tương lai sáng sủa nơi thiên đường, vẽ ra một
hy vọng trong thất vọng. Mỗi khi con người gặp sự bất hạnh, trắc trở, khổ đau
trong trần thế tôn giáo lại khuyên họ có thần thánh phù hộ.
- Tính chất tiêu cực của tôn giáo được thể hiện đặc biệt rõ nét khi có sự
sóng đôi của chính trị và tôn giáo. Khi tôn giáo bị lợi dụng trở thành công cụ
của giai cấp thống trị.
- Mỗi một tôn giáo có một hệ thống giáo lý, lễ nghi riêng và tôn giáo
nào cũng có niềm tự hào riêng. Các tín đồ của tôn giáo đều coi tôn giáo của
mình là ưu việt, chính thống, độc tôn. Chính tính cứng rắn, bảo thủ của các
tôn giáo và niềm tự kiêu của các tín đồ tôn giáo là nguồn gốc cho các xung
đột sắc tộc kéo theo xung đột chính trị.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
6
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
- Bất kì một giáo lý, nội dung tôn giáo nào dù là tôn giáo sơ khai hay
phát triển, tôn giáo với tư cách là một hệ thống đều bao hàm trong nó nhiều
yếu tố bảo thủ, những sức ì không theo kịp thời đại, nhiều điều mê tín, nhiều
yếu tố ý thức hệ đối lập với chủ nghĩa khoa học, ít nhiều mang tính hoang
tưởng cho nên nó kìm hãm sự phát triển của khoa học, chống đối khoa học ở
một số thời kì lịch sử.
III.2. Tác động tích cực:
- Sự ra đời của mỗi tôn giáo là sự phản ứng, chống đối lại cái trật tự xã
hội đương thời, nó thể hiện khát vọng được giải phóng của quần chúng bị áp
bức. Bởi vì trong các cuộc đấu tranh của quần chúng, tôn giáo cũng là công
cụ, là phương tiện.

- Tính hướng thiện: trong mọi thời kì lịch sử, mọi chế độ xã hội con người
luôn mong muốn sống trong xã hội bình đẳng, công bằng, nhân ái. Sự xuất hiện
của một tôn giáo nào đó là biểu hiện của sự khát vọng của con người. Trong mọi
tôn giáo, đều chứa đựng mọi đạo đức, luân lý tôn giáo. Đạo dức đó được thể
hiện trong các điều răn, cấm trong tôn giáo. Trong những điều răn cấm đó có
những điều không hề liên quan tới tôn giáo mà nó biểu hiện của các mối quan hệ
thuần tuý trần thế. Ví dụ: không giết người, không trộm cắp,
- Tôn giáo góp phần vào sự phát triển của các ngành khoa học cơ bản
và khoa học thực nghiệm. Con người một khi có niềm tin, cảm xúc, đạo đức,
tôn giáo thì trở thành động lực cực mạnh thúc đẩy con người, biểu lộ nhiệt
thành của mình bằng các hành động cụ thể được biểu hiện ra qua các công
trình kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, thơ văn, nghệ thuật,… Tôn giáo tạo ra nhiều
di sản văn hoá to lớn, vĩ đại, không kém gì những công trình văn hoá xuất
phát từ nhu cầu phục vụ đời thường.
- Chức năng giao lưu văn hoá: các tôn giáo trong quá trình phát triển,
truyền lan trên bình diện thế giới không chỉ đơn thuần là sự truyền tải niềm tin
với vị thế là một sự kiện văn hoá, một bộ phận trong nền văn hoá mỗi quốc
gia. Qua quá trình giao lưu tiếp xúc với nhau tôn giáo có vai trò truyền tải,
hoà nhập văn hoá, văn minh giữa các dân tộc, quốc gia, châu lục.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
7
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
IV. Sự biến động của tôn giáo trên thế giới.
IV.1.Thực trạng, nguyên nhân biến động của tôn giáo
IV.1.1. Thực trạng
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể
ý thức xã hội. Kể từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn biến động phản ánh
sự biến đổi của lịch sử. Một tôn giáo cụ thể ở một quốc gia nhất định có thể
suy tàn, hưng thịnh, thậm chí tiêu vong, song tôn giáo nói chung, từ khi ra đời
cho đến nay chưa có khi nào vắng bóng trong xã hội loài người. Vị trí vai trò

của mỗi tôn giáo ở từng khu vực, ở từng quốc gia trong các thời kỳ lịch sử
khác nhau cũng không như nhau.
Việc đánh giá thực trạng tôn giáo trên thế giới hiện nay đang còn nhiều ý
kiến khác nhau, nhưng tựu trung lại có mấy cách đánh giá sau đây:
- Tôn giáo đang khủng hoảng và suy tàn
- Tôn giáo ở Tây Âu suy tàn nhưng tôn giáo ở các nước, các châu lục
còn lại đang có xu hướng phát riển.
- Tín ngưỡng, tôn giáo đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều
quốc gia, châu lục.
IV.1.2. Nguyên nhân:
- Những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gay gắt
- Khủng hoảng niềm tin về mô hình xã hội tương lai.
- Những hậu quả tiêu cực của sự phát triển kinh tế - xã hội và công nghệ mới.
IV.2. Các xu hướng biến động của tôn giáo.
IV.2.1. Toàn cầu hoá tôn giáo
Hiện nay hầu hết các tôn giáo đều mong muốn trong thiên niên kỷ mới
sẽ là thời đại của tôn giáo mình (trừ tôn giáo dân tộc)
Vấn đề toàn cầu hoá tôn giáo chủ yếu phụ thuộc vào chính sách cường
quốc muốn gắn nhân quyền với tự do tôn giáo cho từng dân tộc, từng tộc
người. Muốn thông qua đó, can thiệp nội bộ các nước, bắt các nước đi theo
con đường chúng vạch sẵn.Ngay trong tổ chức của một tôn giáo đã không hợp
nhất được với nhau, phân rẽ thành nhiều phái kể cả chính trị và tôn giáo: Bảo
thủ cực đoan, Ôn hoà cải cách, Tiến bộ
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
8
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
IV.2.2. Đa dạng hoá tôn giáo
* Nguyên nhân: Dân trí toàn cầu nâng cao, không gian xã hội của từng cá
nhân không bị bó hẹp trong một quốc gia, khu vực mà đã mở rộng toàn cầu.
Do đó con người không chỉ tiếp xúc với một hoặc một số tôn giáo truyền

thống mà còn với nhiều tôn giáo khác. Người ta tiếp cận với tôn giáo không
thụ động mà có phê phán, chọn lọc. Nếu các tôn giáo truyền thống không có
sự cải cách, cách tân, đổi mới, ….mà cứ giữ sự lỗi thời, khắt khe lễ nghi, mê
tín, hũ tục thì sẽ mất dần vị thế.
*Biểu hiện:
-Trong từng tôn giáo có sự phân rẽ tín đồ để thành ba loại: khô đạo, nhạt
đạo, tâm đạo.
- Sự song hành nhiều tôn giáo trong một con ngưòi. Một người cùng một
lúc tin theo nhiều tôn giáo khác nhau ngay cả ở các nước có truyền thống tôn
giáo độc thân.
- Ở từng tôn giáo có tổ chức cũng bị phân rẽ thành nhiều giáo phái, nhiều
nhánh, đặc biệt là Tin Lành có tới khoảng 30 hệ phái.
- Ở mỗi cá nhân muốn thờ trực tiếp Chúa của mình, muốn hiểu Chúa và
giáo lý theo cách hiểu riêng của mình. Đặc biệt từ khi chủ nghĩa cá nhân cực
đoan nảy sinh hiện tượng phổ biến ở Mỹ và Tây Âu có rất nhiều giáo phái
mới đi theo những tôn giáo với giáo lý riêng.
- Sự xuất hiện phong trào tôn giáo mới - bắt nguồn từ phong trào thời đại
mới ở Mỹ (1967 -1968), sau đó lan rộng ra châu Âu và các nước đang phát
triển. Đây là một phong trào xuất hiện những con người tự nhận là nhà tiên tri
có phép màu đứng ra lập đạo mới.
* Nguyên nhân ra đời tôn giáo mới: Mỗi khi xã hội khủng hoảng niềm tin
chưa tìm ra lối thoát; vào lúc khủng hoảng cả hai ý thức hệ Tư bản chủ nghĩa và
Xã hội chủ nghĩa; khi niềm tin vào các tôn giáo cổ truyền bị suy giảm do tín đồ bị
gò bó vào các lễ giáo khắt khe, cứng nhắc, nghi thức rườm rà, lỗi thời;…
* Khuynh hướng tôn giáo mới:
- Phân rẽ từ một tôn giáo, nhiều khi vượt xa giáo lý ban đầu hoặc
rút ra một đặc điểm trong giáo lý để tôn thờ.
- Xoay quanh trục một tôn giáo có sẵn rồi nhào trộn, lắp ráp
những yếu tố của tôn giáo khác vào và tạo ra một tôn giáo mới.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội

9
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
- Có thể dựng lên từ một nhu cầu trần tục và gắn vào đó một
hương thơm tôn giáo tạo thành một phong trào.
* Đặc điểm của hình thức tôn giáo mới:
- Mang tính toàn cầu, giáo phái lớn có chi nhánh ở nhiều nước, chỉ đạo
sát sao, tín đồ cuồng tín, nội dung giáo lý nửa tục, nửa thiêng. Nhiều giáo phái
tham gia tích cực vào kinh tế, văn hoá.
- Lan toả rất nhanh, thu hút tín đồ của các tôn giáo có sẵn, phá vỡ tổ
chức của các tôn giáo, gây mất ổn định cho nhiều nước, thậm chí lũng đoạn
chính phủ bằng cách thành lập các chính Đảng, chính trị, quân đội.
IV.2.3. Thế tục hoá tôn giáo:
Là một xu thế nổi trội trong giai đoạn hiện nay, biểu hiện đa dạng
phong phú, đó là:
- Nhập thể của các tôn giáo bằng cách tham gia vào các hoạt động trần
tục, phi tôn giáo như: tham gia hoạt động xã hội, giáo dục, y tế,….
- Vai trò tôn giáo giảm sút ở các nước công nghiệp phát triển, nhất là
cư dân thành thị và thanh niên.
- Con người dường như ra khỏi những tôn giáo nhất định nhưng trở lại
với một tâm thức bàng bạc. Qua những lời cầu khấn, những cuộc hành hương
mà không hẳn theo giáo lý, giáo luật đã quy định sẵn hoặc có khi lại gửi niềm
tin vào nội dung, hành vi vào các tôn giáo khác.
- Không nhưng dẫn đến việc thể chế chế tục hoá của các nhà nước, làm
mềm dẻo các thể chế thoả hiệp, thay quốc giáo bằng việc để cho các tôn giáo
khác cùng hoạt động với việc đăng ký với nhà nước. Đồng thời hướng các
hoạt động tôn giáo gắn với hoạt động thế tục.
IV.2.4. Dân tộc hoá tôn giáo
- Nguyên nhân: Có một số cường quốc có thế lực kinh tế, quân sự,….
Có âm mưu toàn cầu hoá, muốn áp đặt nền văn hoá của mình trong đó có tôn
giáo đối với các dân tộc, các quốc gia trên thế giới. Đứng trước xu thế toàn

cầu hoá, nhiều quốc gia dân tộc đối phó lại sự uy hiếp của tôn giáo ngoại lai
bằng việc trở lại với tôn giáo dân tộc, muốn bảo vệ văn hoá sắc thái dân tộc,
không muốn tự đánh mất mình, không muốn hoà tan trong một trào lưu văn
hoá thế giới.
Bốn xu thế trên đan xen lẫn nhau, xu thế này là hệ quả của xu thế kia,
trong đó xu thế thế tục hoá chiếm chủ đạo.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
10
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
I. ĐẠO HỒI (ISLAM)2
Đặng Thị Hiền
I.1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO HỒI
Đạo Hồi là theo cách gọi của người Trung Hoa. Tên gốc là Islam, có
nghĩa là “Phục tùng Thượng Đế”. Vì Đạo Hồi theo chân người Hồi Hột (một
bộ lạc ở Tây Á xưa) truyền bá vào Trung Hoa nên Trung Hoa gọi là Đạo Hồi.
Sự xuất hiện của Đạo Hồi ở bán đảo A Rập vào thế kỷ VII sau Công nguyên
là một sự kiện tinh thần quan trọng, một biến cố lạ lùng ở thời Trung Cổ.
Trước khi Đạo Hồi ra đời, bán đảo A Rập là một khu vực đa dạng, phong phú
và đầy huyền thoại, là xứ sở “Nghìn lẻ một đêm”…Cuộc sống tạo cho cư dân
A Rập đầu óc mê tín, sợ hãi thần linh. Tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” biểu
hiện rõ nét ở việc thờ rất nhiều thần như: Thần Mặt Trăng, thần Mặt Trời,…
Người A Rập có tục thờ các phiến đá thiêng, nhất là các thiên thạch rơi xuống
sa mạc. Trung tâm thờ đá là thánh địa Mecca - nơi có điện Kasba với hơn 300
ngẫu tượng.
Bán đảo A Rập thời “tiền Hồi giáo” đang ở trong thời kì tan rã của xã hội
thị tộc, sự phân biệt giàu nghèo bắt đầu nảy sinh. Dân nghèo đang có xu
hướng ngày càng bị phụ thuộc vào tầng lớp thống trị. Chiến tranh liên miên,
các cuộc chinh phục lẫn nhau giữa các bộ lạc. Trong lúc đó sự đe doạ xâm
lược của 2 quốc gia lớn là Bigiăngtin và Iran diễn ra thường xuyên. Sự phân

tán về chính trị, kinh tế – xã hội của bán đảo A Rập đến thế kỷ VI đã nảy sinh
nhu cầu cấp bách phải được mở mang, thống nhất để tạo điều kiện phát triển.
Trước tình hình đó, Mohamed (570 - 632) - một thanh niên thông minh, là
thương nhân ở Mecca - đã nhạy bén phát hiện ra nhu cầu này và khởi xướng
một đức tin mới với tham vọng thống nhất tất cả các bộ lạc, thị tộc trên đất A
Rập thành một khối với một tôn giáo duy nhất và một vị thần tối cao duy
nhất.
Theo truyền thuyết, khi Mohamed vừa ra khỏi bụng mẹ đã đứng bật dậy
và kêu to: “Ta đây là Mohamed ”, và ngay từ nhỏ Mohamed đã ham mê
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
11
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
nghiên cứu tôn giáo. Tương truyền khi 40 tuổi (năm 610) Mohamed đã từng
một mình vào trong hang nhỏ ở núi Hira, ngoại thành Mecca, tu luyện, trầm
ngâm suy tưởng
Trong một đêm, Thánh Ala – chân chủ đã cử
thiên sứ Gabriel đến truyền đạt Thần dụ và lần
đầu tiên “Khải thị ” cho ông chân lý của Kinh
Coran, khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh”.
Từ đó về sau, ông tự xưng là tiếp thụ “sứ
mệnh” của chân chủ trao cho, bắt đầu truyền
bá đạo Islam. Đầu tiên, ông bí mật truyền
giáo, một số bạn bè thân thiết trở thành những
tín đồ sớm nhất, về sau dần dần chuyển sang
công khai, đối tượng truyền đạo mở rộng tới
quần chúng Mecca nói chung.
Mohamed - người sáng lập Đạo Hồi
Trong thời kỳ đầu truyền giáo, Mohamed đã khuyên bảo mọi người từ
bỏ việc sùng bái đa thần và sùng bái thờ tượng thần, đồng thời cũng từ bỏ
thuyết tam vị nhất thể của Đạo Cơ Đốc, yêu cầu mọi người thờ Thánh Ala độc

nhất vô nhị. Ông cũng không ngừng tuyên giảng quan niệm về ngày phán xét
cuối cùng và sống lại sau khi chết, cảnh cáo các giáo đồ đa thần nếu không
thay đổi phương pháp và thái độ thì sau ngày phán xét cuối cùng sẽ bị trừng
phạt nghiêm khắc của Ala, ngược lại sẽ có thể được ban thưởng vào đời sau.
Hoạt động sáng lập Đạo Islam của Mohamed, tất sẽ dẫn tới sự phản ứng
của các giai tầng trong xã hội, từ lúc mới bắt đầu đã không thuận buồm xuôi gió
vì nó đe doạ trực tiếp tới đặc quyền và thu nhập kinh tế của quý tộc Corai nắm
quản Kasba. Các hoạt động đả kích và bức hại đã giáng xuống đầu Mohamed và
Muslim. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy ở Mecca, Mohamed truyền đạo
được 13 năm (610 - 622). Mùa thu năm 622, Mohamed đưa những người ủng
hộ mình đến thành phố Iaxrip (sau này là thành phố Međina). Cuộc di chuyển
này mang tên Hijra, đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên Hồi giáo. Do đó năm
622 được coi là năm mở đầu kỷ nguyên Đạo Hồi , là năm thứ nhất của lịch Đạo
Hồi (một thứ lịch riêng ít có tính khoa học).
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
12
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Ở Iaxrip, Mohamed có điều kiện thuận lợi để truyền bá tín ngưỡng của
ông. Vì vậy tín đồ Đạo Hồi theo Mohamed tăng lên nhanh. Sau nhiều cuộc
giao tranh, cuối cùng Mohamed cùng tín đồ trở về Mecca một cách hoà bình
vào năm 630. Thắng lợi này là tiền đề cho Mohamed phát huy ảnh hưởng của
Đạo Hồi, đến cuối năm 630 phần lớn bán đảo A Rập đã nằm dưới quyền kiểm
soát của “sứ giả Thánh Ala”. Ở Mecca, Mohamed cho vứt bỏ hết các ngẫu
tượng trong đền Kasba, chỉ để lại một phiến “đá đen” được ông coi là báu vật
của Ala ban cho Đạo Hồi để cho Muslim triều bái. Từ đó Kasba trở thành
chùa Đại Thanh chân của Đạo Hồi. Mohamed tuyên bố tha thứ cho tất cả mọi
người ngoại trừ một số nhỏ những kẻ thù cũ của ông, và ông bắt đầu mở rộng
Đạo Hồi ra ngoài vùng đất A Rập. Năm 632, ông qua đời ở tuổi 62, sau khi
truyền lại toàn bộ những điều đã được Thượng Đế khải truyền.



Bức hoạ về cảnh Mi’raj – sự lên trời của Mohamed
I.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO HỒI
I.2.1. Vấn đề kế vị Mohamed
Sau khi Mohamed chết, cộng đồng Hồi giáo có nguy cơ tan rã. Các vị thân
cận của Giáo chủ Mohamed hiểu rõ nguy cơ này nên quyết tâm bảo vệ cộng
đồng Hồi giáo, tức là thay thế Mohamed để lãnh đạo tôn giáo và chính trị.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
13
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Người đầu tiên kế vị Mohamed là Abu Bahr, một cha vợ của Mohamed,
chức vụ lãnh đạo đó được gọi là Calife. Abu Bahr tại vị được 2 năm (632 -
634) đã duy trì được nền thống nhất của cộng đồng Hồi giáo.
Kế đó là Omar, một cha vợ khác của Mohamed, ông cầm quyền được 10
năm (634 - 644), Omar dốc toàn lực vào các cuộc bành trướng Hồi giáo bằng
đoàn Thánh quân chinh phục các nước: Xiri, Ba Tư, Ai Cập,…làm chủ vùng
Địa Trung Hải. Sau đó, Omar bị một tên nô lệ ám sát chết.
Lên thay Omar là Othman, một người con rể của Mohamed, nhưng Othman
bất tài làm nội bộ Hồi giáo chia rẽ trầm trọng, các phe nhóm được lập ra để
chống đối nhau. Năm 656, Othman bị một đám đông vây và giết chết.
Ali lên thay, Ali cũng là một con rể của Mohamed. Tình trạng phân tán
trong nội bộ vẫn tiếp tục. Đến năm 661, Ali bị ám sát chết. Người lên thay là
Muawiya – sáng lập ra triều đại Omayyade.
I.2.2. Triều đại Omayyade (661 - 750)
Trung tâm của thế giới Hồi giáo lúc bấy giờ di chuyển đến Damas, thủ đô
của Xiri. Các Calife của triều đại này chế tạo được nhiều khí giới lợi hại nên đã
tấn công vào đế quốc Bigiăngtin, chinh phục Bắc Phi, tấn công nước Pháp và
Tây Ban Nha. Phía Châu Á, quân Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ, đe doạ Trung
Quốc, tiến về lưu vực sông Ấn Hằng ở phía Nam. Đến năm 750, một cuộc nổi
loạn xảy ra ở Damas lật đổ triều đại Omeyyade, thay thế bằng triều đại Abbas.

I.2.3. Triều đại Abbas (750 - 1258)
Trung tâm của Đế quốc Hồi giáo bấy giờ được di chuyển đến Batđa, thủ
đô của Iraq. Đế quốc Hồi giáo bành trướng mạnh sang miền Đông Châu Phi,
các xứ ở Ấn Độ Dương và ở Đông Nam Á.
Văn minh của Hồi giáo trong thời đại này đạt đến đỉnh cao nhất.
Về sau, triều đại Abbas suy yếu, các Calife của các nước nhỏ tách ra lập
một nước riêng, đối nghịch với Calife ở Batđa. Cuối cùng thì uy quyền của
Calife Abbas ở Batđa bị thu hẹp trong lãnh thổ Iraq, Ba Tư và miền Lưỡng Hà.
I.2.4. Người Mông Cổ chiếm Batđa
Năm 1357, cháu của Thành Cát Tư Hãn (vua Mông Cổ) là Hốt Tất Liệt
đem quân Mông Cổ viễn chinh tấn công Iraq, chiếm thủ đô Batđa, chấm dứt
triều đại Abbas.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
14
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Người Châu Âu lúc đó muốn dùng thế lực Mông Cổ để tiêu diệt Hồi
giáo, nhưng người Mông Cổ lại bị Hồi hoá nên người Mông Cổ nối tiếp các
công trình bành trướng Hồi giáo.
Trong lúc đó, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman trở nên hùng mạnh, tạo thành
một đế quốc rộng lớn ở phía Đông Nam Châu Âu và Tây Châu Á, nên Hồi
giáo cũng được phát triển mạnh trong đế quốc Ottoman này.
Như thế, cộng đồng Hồi giáo đã chia làm 2: Đế quốc Mông Cổ và Đế
quốc Ottoman. Nhờ đó mà Hồi giáo đã truyền bá được một vùng rộng lớn từ
Châu Phi sang Trung Đông, Nam Á và Đông Nam Á.
Số tín đồ Hồi giáo lúc đó lên đến 500 triệu người, nhưng phần lớn kém
văn minh còn trong vòng bán khai.
I.2.5. Hồi giáo thế kỷ XVIII đến nay
Các nước Châu Âu, nhờ văn minh cơ khí sớm trở nên hùng mạnh. Trong
vòng chưa đầy một thế kỷ, các nước Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nga đánh
chiếm hầu hết các lãnh thổ của đế quốc Hồi giáo làm thuộc địa. Các nước

Châu Âu văn minh hùng mạnh chia cắt đế quốc Hồi giáo thành manh mún, để
sau cùng chịu sự ảnh hưởng về kinh tế và chính trị giữa hai khối thế lực hùng
mạnh nhất trên thế giới là: Tư bản và Cộng sản.
Các nước Hồi giáo dần dần tranh đấu giành lại độc lập. Nhưng từ đó, ý
thức quốc gia trở nên mạnh mẽ, làm cho các nước Hồi giáo đánh chiếm lẫn
nhau, tạo nên những Chi phái Hồi giáo thù nghịch nhau.
Một điều quan trọng là giáo lý Hồi giáo không còn thích hợp nữa, nhất là
giáo lý này đưa con người đến cảnh chết chóc luôn luôn, trái với bản tính
thiên lương của con người, nên làm cho con người dần dần chán ghét. Vì thế
Đạo Hồi phải đứng trước một sự lựa chọn: hoặc phải thích nghi hoặc phải bị
biến đổi. Song không như đạo Kito và đạo Phật, Đạo Hồi vẫn giữ được bản
sắc tôn giáo đặc trưng, cố gắng tồn tại trong một thế giới đã có nhiều chuyển
biến với những thế hệ tín đồ phát triển hơn trước về khả năng nhận thức.
I.3. GIÁO LÝ ĐẠO HỒI
Phần chính của giáo lý Hồi Giáo xuất phát từ giáo lý của Do Thái Giáo
và của Thiên Chúa Giáo, nhưng Hồi giáo có quan niệm độc thần cứng rắn hơn
và khắt khe hơn, nhưng lại đơn giản hơn hai tôn giáo kia.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
15
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Đối với tín đồ Hồi giáo, chỉ có một Đức Chúa Ala và Mohamed là sứ
giả do Chúa sai xuống. Tín đồ Hồi giáo là phải phục tùng Chúa một cách
hoàn toàn và tuyệt đối, không thắc mắc, không bàn cãi.
Quan niệm độc Thần cứng rắn kể
trên đã đưa tín đồ Hồi giáo đến chỗ
lẫn lộn giữa đạo và đời. Theo họ, tất
cả mọi vật ở trên trời hay trên mặt
đất đều là của Chúa và do Chúa tạo
nên. Bàn tay Chúa hiện hữu khắp
mọi nơi và Thánh hiện hoá tất cả. Tất

cả mọi người đều bình đẳng trước
Chúa, không ai có địa vị ưu tiên hơn
ai, trừ Mohamed. Một tầng lớp Giáo
sĩ trung gian giữa Chúa và tín đồ thì
không cần thiết.
Trăng lưỡi liềm biểu tượng của Hồi giáo
Trong xã hội Hồi giáo, người ta không phân biệt những gì là của đền
thờ và những gì không phải của đền thờ. Do đó, tất cả những lãnh tụ của Hồi
giáo đều là những lãnh tụ chính trị.
Giáo luật của Hồi giáo rất đơn giản, nhưng cũng rất khắc nghiệt. Người
tín đồ Hồi giáo có 5 bổn phận chính phải tuân theo. 5 bổn phận này được gọi
là Ngũ Trụ (5 cây cột), gồm:
I.3.1. Xác tín: Xác nhận sự tin tưởng tuyệt đối của mình vào Đức Chúa
Trời. Mọi tín đồ Đạo Hồi phải tin rằng Ala là Thượng đế tối cao và Mohamed
là vị tiên tri của Người.“Lailakailallaha, Muhammadunrasulullah” là công
thức được lặp đi lặp lại nhiều lần trong kinh Coran và là câu cầu nguyện cửa
miệng của tín đồ Hồi giáo.
I.3.2. Cầu nguyện: Tín đồ Đạo Hồi có nghĩa vụ thiêng liêng là đọc
kinh cầu nguyện. Mỗi ngày, tín đồ phải làm lễ cầu nguyện 5 lần:
- Lần 1 trước khi Mặt Trời mọc, gọi là Cobh.
- Lần 2 vào buổi trưa, gọi là Zohr.
- Lần 3 vào buổi chiều, gọi là Acr.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
16
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
- Lần 4 vào lúc Mặt Trời lặn, gọi là Maghrib.
- Lần 5 vào lúc ban đêm trước khi đi ngủ, gọi là Iha.
Buổi cầu nguyện quan trọng nhất là trưa ngày thứ 6 hàng tuần tại thánh
đường địa phương.
I.3.3. Ăn chay ban ngày trong tháng Ramadan

Tín đồ Đạo Hồi phải sống chay tịnh trong tháng Ramadan (tháng 9 Hồi
lịch). Chay tịnh nghĩa là phải nhịn ăn, nhịn uống, không quan hệ nam nữ,
không hút thuốc… từ khi Mặt Trời mọc tới khi Mặt Trời lặn. Còn ban đêm
ngoài việc cầu nguyện thì được ăn uống, sinh hoạt thoải mái. Riêng trong đời
sống hàng ngày, tín đồ Hồi giáo không uống rượu và ăn thịt lợn, bò, chó.
I.3.4. Bố thí
Tín đồ Đạo Hồi phải thực hành bố thí vì quan niệm giàu có là tội ác nên
phải chia bớt cho người khác để giảm tội ở kiếp sau. Bổn phận bố thí về sau
trở thành một thứ thuế thân gọi là Kakat.
I.3.5. Hành hương đến Mecca một lần trong đời:
Mecca ở nước Ả Rập Xêút là Thánh địa của Hồi giáo. Mỗi tín đồ Hồi
giáo, không phân biệt nam hay nữ, phải có ít nhất một lần trong đời, đi hành
hương tới Thánh địa Mecca, trừ trường hợp bệnh hoạn, nghèo khó, hay đường
sá nguy hiểm. Các nô lệ, các phụ nữ không chồng đưa đi thì được miễn.
Thánh địa Mecca - Ả Rập Xêút
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
17
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Trước khi đi hành hương, tín đồ phải giữ mình cho thanh tịnh, phải cạo
râu, cắt móng tay, mặc Ihram, đi dép, không được sát sinh, săn bắn, chặt nhổ
cây cỏ. Ai đã hành hương đến Mecca trở về đều được cộng đồng kính trọng,
trở thành người cao quý. Vì thế được hành hương đến Mecca là mơ ước của
mọi tín đồ Đạo Hồi.
Giáo lý Đạo Hồi cho phép đàn ông được lấy 4 vợ. Người phụ nữ bị coi
thường như một loại hàng hoá. Ngoài ra, tôn giáo này còn có một số luật lệ hà
khắc mà cho đến nay, nhiều nước Hồi giáo vẫn sử dụng để điều hành nhà
nước và xã hội. Ví dụ kẻ ăn cắp bị chặt tay, kẻ giết người phải đền mạng, phụ
nữ ngoại tình hoặc có con ngoài giá thú bị ném đá đến chết.
Toàn bộ kinh sách Đạo Hồi tập trung trong kinh Coran. Kinh Coran
được coi là “cuốn sách vĩ đại nhất, thông thái nhất”, là cuốn sách “vạn năng”

của người Hồi giáo mà trong đó có đầy đủ mọi “chân lý, tri thức” của loài
người. Bản gốc của kinh đang được giữ gìn cẩn thận dưới ngai vàng của Ala.
Mọi sự kiện quan trọng trong đời người đều gắn với kinh Coran. Kinh Coran
được đưa vào trường học, được viết vào mảnh da cho binh lính Đạo Hồi đeo
bên mình khi lâm trận…
Về sự ra đời của kinh Coran, tương truyền một đêm vào tháng
Ramadan năm 610, Mohamed sau mấy ngày nhịn ăn, trầm tư tụng niệm trong
một cái hang tại chân núi Hira, ông thấy một linh báo về sự ra đời của Đạo
Hồi: thiên sứ Gabriel (thiên sứ đã xuất hiện trong đạo Kito) hiện ra, chỉ cho
Mohamed lời “khải thị” đầu tiên của Ala viết trên một tấm chăn phủ gấm thêu
và nói: “Này Mohamed, con là sứ giả của Ala và ta là Gabriel đây”. Trở về
nhà, Mohamed tuyên bố về sứ mệnh truyền giáo của mình. Mohamed nói
rằng ông nhiều lần được linh báo như vậy. Sau mỗi lần “linh báo” như thế,
Mohamed đọc lại lời “khải thị” mà ông nói là do Ala gửi tới cho tín đồ chép
từng đoạn…Những giai thoại thần bí này đã xây dựng nên nguồn gốc thần
thánh của kinh Coran.
Cho đến nay, khoa học đã chứng minh được rằng kinh Coran chỉ có thể
ra đời từ đầu thế kỷ VIII từ nhu cầu thống nhất luật pháp, bộ máy hành chính,
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
18
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
các tín điều tôn giáo…của thế giới Đạo Hồi rộng lớn. Kinh Coran là một cuốn
sách khá phức tạp.
Toàn bộ kinh được chia làm 114 chương, nguyên tắc sắp xếp các
chương khá kỳ lạ, chương dài xếp trước, chương ngắn xếp sau; thông thường
chương ngắn có tuổi lịch sử cao hơn, nên kinh Coran như bị đảo ngược về
trình tự thời gian. Tuy tính chất thiếu khoa học, thiếu thống nhất trong hành
văn, nội dung vay mượn, trí tưởng tượng nghèo nàn…nhưng kinh Coran vẫn
mang tính chất linh thiêng đối với tín đồ Đạo Hồi và vẫn là cuốn kinh duy
nhất và linh thiêng nhất của Đạo Hồi.

Đạo Hồi có 5 đức tin cơ bản, do đó hệ thống lễ nghi, ngày lễ cũng đều
xoay quanh 5 đức tin này. Ngày lễ quan trọng nhất của Đạo Hồi là lễ Hiến tế
(Kurban-bairam); thứ hai là 3 ngày cuối cùng tháng Ramadan trong đó đêm
ngày thứ 27 là quan trọng nhất vì đó là ngày được Đạo Hồi cho rằng nguyên
bản kinh Coran được thiên thần mang từ ngai vàng của Ala xuống tầng trời
thứ 7 gần mặt đất nhất, từ tầng trời này nội dung kinh Coran được truyền đạt
cho Mohamed trong 22 năm liền. Ngoài ra còn có các ngày lễ kỉ niệm sinh
nhật Mohamed, lễ mãn chay, lễ về trời…Nổi bật là ngày lễ Sesay Vasoa kỉ
niệm Husein (cháu nội Mohamed đã chết khi tranh giành quyền bính). Trong
ngày lễ này có những tín đồ tự hành xác bằng kiếm, đao nhọn trên cơ thể để
trần trước sự cổ vũ cuồng nhiệt của đám đông. Họ cho rằng sự đau đớn càng
tăng thì càng chứng tỏ được lòng nhiệt thành của mình.

SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
19
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Hành hương về Thánh địa Mecca
Mùa hành hương của tín đồ Hồi giáo bắt đầu vào tháng 12 hàng năm theo
lịch Hồi giáo. Đầu tiên Mecca được coi là đất thánh duy nhất nhưng sau đó
Medina và Jêrusalem cũng được coi là thánh địa. Nhưng Mecca vẫn là trung tâm
hành hương chủ yếu vì ở đây Mohamed với tư cách là người sáng lập tôn giáo
mới, là người đầu tiên tới viếng đền Kasba và hôn lên viên đá đen trong đền, mở
đầu cho tục hành hương. Từ hàng chục thế kỷ nay, dòng người hành hương đến
Mecca không bao giờ ngừng nghỉ với hi vọng được ở gần Thượng Đế, được Ala
che chở trong “ngày phán xử cuối cùng” sau khi đã hôn lên phiến đá đen.
I.4. CÁC CHI PHÁI CỦA HỒI GIÁO
Đặc tính đầu tiên và căn bản của Hồi giáo là sự liên hệ mật thiết đến độ
lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị, tức là giữa đạo và đời. Lý do là vì Thánh kinh
Coran chứa đựng lý thuyết tổ chức xã hội bao gồm cả tôn giáo và chính trị của
Cộng đồng Hồi giáo. Chính vì thế mà ngay sau khi Mohamed chết, sự chia rẽ

xảy ra ngay giữa các đồng đạo, tạo thành các nhóm chính trị chống đối nhau,
đưa đến sự hình thành nhiều Chi phái Hồi giáo.
Có 2 chi phái lớn:
I.4.1. Chi phái Chính Thống hay Sunni
Chi phái này lấy sách Sunni làm căn bản bên cạnh Thánh kinh Coran
và sách Hadith, nhất là những quyết định của 4 vị Calife đầu tiên liên tiếp kế
vị nhau sau khi Mohamed qua đời.
I.4.2. Chi phái Shiai
Chi phái này chủ trương đích truyền, chỉ công nhận một mình ông Ali
trong số 4 vị Calife đầu tiên, còn 3 vị kia là thoán nghịch, đồng thời họ cho
rằng chỉ có những người nào dòng dõi của Ali mới có thể làm Imam được.
Về tổ chức, Chi phái này do 12 vị Imam lần lượt cầm đầu, đều là dòng
dõi của Ali.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
20
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
Chi phái Shiai về sau lại phân ra làm nhiều Chi phái nhỏ nữa như:
Notawal, Zaid, Ismail, Tân Ismail.
Các tín đồ của Chi phái Shiai rất cuồng tín, một số đã lập ra những tổ
chức khủng bố hoạt động rất mạnh trong thời Trung Cổ ở Iran (Ba Tư) và Xiri
dưới danh hiệu là: Hachichin hay Assassin.
I.5. PHÂN BỐ
Hiện nay, trên thế giới có trên 1 tỷ tín đồ Đạo Hồi, tập trung đông nhất ở
Tây Nam Á và Bắc Phi (chiếm 35,3% tổng số tín đồ), Nam Á (chiếm 29,7%),
Đông Phi (chiếm 15,6%), một vài nước Đông Nám Á (chiếm 16,6%)…
Ở một số nước trên thế giới, Đạo Hồi được coi là quốc đạo, dân số
phần lớn theo Đạo Hồi.

Biểu đồ: Một số quốc gia có tỷ lệ tín đồ Đạo Hồi lớn
I.6. ĐẠO HỒI Ở VIỆT NAM

Ở Việt Nam, Đạo Hồi du nhập vào nước ta khoảng thế kỷ XII – XIII do
thương nhân người Malaixia thông qua con đường buôn bán và được cộng
đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận đón nhận. Lịch sử hình thành
Đạo Hồi ở nước ta không gắn liền với chiến tranh mà bằng con đường hoà
bình, giao lưu kinh tế – văn hoá. Từ vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, một bộ
phận người Chăm xuống vùng Châu Đốc – An Giang hình thành nên vùng
Hồi giáo lớn thứ hai của Việt Nam.
Đạo Hồi ở nước ta thực chất là tôn giáo của người Chăm, hiện nay có
trên 63 nghìn tín đồ. Đó là một cộng đồng tương đối thuần nhất, nhưng cũng
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
21
90% 95% 100%
80% 85%
Iran
Pakixtan
Ả Rập Xêút
Irắc
Angiêri
Xiri
Thổ Nhĩ Kỳ
Baren
Tuôcmênixtan
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
không hoàn toàn giống nhau. Ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, người Chăm
Hồi giáo gọi là Chăm Bà Ni, họ theo Hồi giáo không chính thống, vì có sự
pha trộn tín ngưỡng Bàlamôn. Còn ở vùng An Giang, Thành phố Hồ Chí
minh, Đồng Nai và Tây Ninh, người Chăm theo Hồi giáo gọi là Chăm Islam,
họ theo Hồi giáo chính thống, có đi hành hương ở Mecca.
Hiện nay, với diễn biến phức tạp của Đạo Hồi trên thế giới, vì thế cần
đề phòng những ảnh hưởng xấu của nó đến Đạo Hồi ở nước ta. Ngoài ra, từ

phương diện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, cần có sự quan tâm đến các
vấn đề Hồi giáo ở Việt Nam hiện nay.
Chùa Chăm - An Giang Chùa Tây An – An Giang
* Tóm lại
Tuy là một tôn giáo có tuổi lịch sử ít hơn so với đạo Kitô và đạo Phật
nhưng Đạo Hồi vẫn có thể sánh ngang hàng với các tôn giáo trên trong ảnh
hưởng đối với thế giới. Hình ảnh Mohamed đối với tín đồ sâu sắc hơn Giêsu
và Thích Ca Mâu Ni vì Mohamed đã kết hợp chặt chẽ hai yếu tố đạo và đời,
tôn giáo và chính trị. Đây là một yếu tố đặc trưng của Đạo Hồi, quyết định
vai trò và ảnh hưởng của Đạo Hồi trong lịch sử cũng như hiện nay. Xuất
phát từ ý thức phục tùng tuyệt đối đức Ala và xây dựng một thế giới Đạo
Hồi phồn vinh, Đạo Hồi đã mê hoặc được cư dân A Rập đang còn ở trình độ
phát triển thấp về văn hoá và nhanh chóng bành trướng, phát huy thanh thế
của mình trong sự thống nhất giữa đạo và đời.
Với tính chất là một tôn giáo lớn trên thế giới, ngày nay Đạo Hồi cũng
đang có nhiều diễn biến phức tạp, tuy vậy Đạo Hồi vẫn giữ được bản sắc tôn
giáo đặc trưng.
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
22
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
II. ĐẠO CƠ ĐỐC(1)
Đào Kim Quế
II.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN:
Đạo Cơ Đốc là một trong ba đạo lớn nhất thế giới với số lượng tín đồ
lớn nhất và phân bố rộng khắp. Đây là một giáo phái của Do Thái giáo, ra đời
vào thế kỉ I trước công nguyên ở vùng Palextin thuộc các tỉnh miền Đông của
Đế quốc Roma cổ đại. Vùng đất Palextin luôn bị các nước xâm chiếm, từ 20
thế kỉ trước công nguyên đã bị người Acmêni, người Xích, người Ai Cập rồi
người Hêbrơ (Ixraen) xâm lược và sau cùng đến thế kỉ I TCN thì là một bộ
phận của đế quốc Roma. Nh÷ng người Do Thái ở đây đã tiến hành các cuộc

đấu tranh nhưng đều thất bại. Vì vậy, họ trông chờ vào sự giúp đỡ của các lực
lượng siêu nhiên, trông vào sự cứu vớt của Đức Chúa. Vì vậy, “Kitô giáo là
tôn giáo của những người nô lệ, của những người tự do, của những người
nghèo khổ và những dân tộc không có quyền, bị nô dịch hay bị Roma hoá”.
Do người Do Thái là một dân tộc phương Đông nên mang những đặc
điểm tâm lý, văn hoá phương Đông nên đạo Kitô cũng mang màu sắc phương
Đông. Nhưng do sự thống trị của ngoại lai và sự tiếp xúc với các nền văn hoá
ngoại lai nên dần dần đạo Kitô có sự hoà trộn giữa phương đông và phương
tây, giữa tinh thần Hy Lạp, La Mã và tinh thần Do Thái nên nó là tôn giáo của
cả phương đông và phương tây. Có thể nói, đạo Kitô đời trong hoàn cảnh “thế
giới lúc đó, chính trị là của người La Mã, văn hoá là của Hy Lạp, xã hội là của
dị giáo, tôn giáo là của phương đông đã Hy Lạp hoá”.
Theo truyền thuyết Kitô giáo thì người sáng lập ra là Giêsu Cơrit,
con của Đức bà Đồng Trinh được Chúa Trời đầu thai vào người. Năm 30
tuổi ông bắt đầu đi truyền giáo sau khi đã tự nhận mình là Đấng Cứu Thế.
Những bài truyền đạo đó đáp ứng được nguyện vọng được giải phóng của
nhân dân lao động và người nô lệ nên nó được đông đảo quần chúng nhân
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
23
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
dân tham gia. Ông bị chính quyền Roma kết tội và hành hình, đóng đinh
trên thánh giá chữ thập tại Jêrusalem.
Buổi đầu, Kitô giáo được đông đảo quần chúng tham gia nên lực
lượng thống trị truy nã, tàn sát tín đồ Kitô giáo rất dã man. Nhưng càng bị
sát hại, tín đồ càng tăng. Sau hai thế kỉ, thế lực Kitô giáo bành trướng khắp
Đế Quốc Roma. Nửa sau thế kỉ III, Đế Quốc Roma có hơn 1800 thánh
đường. Khi không thể thắng được thế lực của Kitô giáo thì giai cấp cầm
quyền bắt đầu quay sang thoả hiệp và dùng Kitô giáo làm vũ khí chính trị
cho mình.
Năm 325, C«ngxtantinốp trở thành trung tâm Kitô giáo lớn thứ hai ở

Đế Quốc Roma thì Kitô giáo trở thành một tôn giáo thống trị ở Roma và
nhanh chóng được truyền bá rộng khắp thế giới. Kitô giáo phát triển nhanh
nhờ vào sự nỗ lực của nhà truyền giáo Paul. Hy Lạp và Roma có ý nghĩa quan
trọng trong việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Kitô giáo. Sự truyền bá Kitô
giáo trong thời kì này được thực hiện theo ba con đường:
+ Thông qua Ai Cập để vào Bắc Phi và vùng Suđan
+ Thông qua vùng Lưỡng Hà đến Ba Tư, Nội Á, Ấn Độ.
+ Thông qua vùng Hy Lạp, La Mã để vào Châu Âu.
Nhìn vào lịch sử phát triển của Kitô giáo theo lãnh thổ (chủ yếu ở Tây
Á, Bắc Phi và Châu Âu), có thể thấy rằng từ hạt nhân sớm nhất của nó ở
Jêrusalem (Tây Á) hoặc Cônxtantinốp (Makêđônia), tôn giáo này thâm nhập
vào Italia, Tây Ba Nha. Toàn bộ khu vực Tây Âu và một phần Tây Nam Á
chịu ảnh hưởng của Kitô giáo vào khoảng năm 600. Vào thế kỷ XV- XVI nhờ
các cuộc phát kiến địa lý ở Châu Âu để tìm kiếm thị trường, nguyên liệu và
nguồn nhân công rẻ mạt chủ nghĩa thực dân đã tìm thấy ở Giáo hội một người
bạn trung thành và hữu hiệu. Hai nước đi đầu phong trào phát kiến địa lý với
cái vỏ bề ngoài là đi mở rộng nước thánh là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Sang thế kỉ XVII, XVIII hai nước này suy yếu đi và vai trò truyền giáo
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
24
Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học Vấn đề tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
chuyển sang các nước Pháp, Anh, Hà Lan… nên nhờ đó mà đạo Thiên chúa
đựơc truyền giáo đến nhiều nước Châu Phi, Châu Á, và Mĩ La Tinh.
* Các cuộc phân ly trong Giáo hội Cơ đốc giáo: cùng với sự phát triển
của tiến trình lịch sử thì đạo Cơ đốc cũng bị phân chia thành các dòng khác
nhau. Trong đó đáng nói đến là hai cuộc phân ly lớn nhất trong lịch sử Cơ đốc
thành ba dòng lớn như ngày nay:
Trong thời kì cổ đại, giữa giáo hội Kitô giáo và chính quyền luôn có sự
đấu tranh tranh giành quyền lực. Nửa đầu thế kỉ VI, Justinianus lên ngôi
Hoàng Đế La Mã tự phong mình là nguyên thủ giáo hội, trực tiếp quản can dự

vào công việc tổ chức nhân sự và thẩm định giáo nghĩa của giáo hội. Do đó
giáo hội phụ thuộc vào chính quyền, chấm dứt cuộc chiến tranh giành quyền
lực giữa giáo hội và chính quyền nhưng đây lại là mầm mống của sự phân ly
trong giáo hội. Giáo hội phương đông được sự nâng đỡ của Hoàng Đế không
thừa nhận Giáo hoàng La Mã là thủ lĩnh tối cao. Sự mâu thuẫn lên đến đỉnh
cao dẫn đến cuộc “đại phân liệt của giáo hội” vào năm 1054. Đó là cuộc
tranh giành về giáo nghĩa và lễ nghi mà kì thực như một nhà sử học đã chỉ ra:
“ đằng sau sự phân biệt về vấn đề giáo nghĩa và lễ nghi còn ẩn tàng những
quan hệ trần tục sâu sắc, mối quan hệ quả là rất gay gắt”. Sự phân ly lần đầu
làm cho Kitô giáo chia thành hai nhánh lớn: Công giáo (hay Thiên Chúa
Giáo) ở phương tây và Chính Thống giáo ở phương đông.
Cuộc phân ly tôn giáo diễn ra lần thứ hai khi sang thế kỷ XV, do sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ ở Tây Âu, giai cấp tư sản
đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội được mở đầu bằng phong
trào văn hoá phục hưng và tiếp theo là phong trào cải cách tôn giáo diễn ra
rầm rộ ở nhiều nước Châu Âu. Mục tiêu của cuộc cải cách là nhằm thay đổi,
cải tổ giáo hội thiên chúa, xoá bỏ những tín điều hoang đường và những giáo
luật khắt khe. Kết quả của phong trào cải cách tôn giáo là sự phân ly lần thứ 2
của Kitô giáo. Xuất hiện một tôn giáo mới tách ra từ đạo thiên chúa là tân
giáo hay còn gọi là đạo tin lành. Ngay từ khi mới ra đời, đạo Tin lành lan
SV: Hà Quang Thích - Khoa Địa lí - Trường ĐHSP Hà Nội
25

×