Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Quá trình hình thành cuộc cách mạng công nghệ trong nền kinh tế đang trên đà phát triển part5 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.88 KB, 8 trang )


33

Yêu cầu bảo toàn vốn đợc thể hiện trớc hết trong công tác tổ
chức tài chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phơng án tối u
trong tạo nguồn tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và
phát triển vốn trớc hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quản
lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh, xuất phát
từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải
đảm bảo tính hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả
kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải
bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

chơng III : Thực trạng KH- CN Việt Nam

1. Thành công
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trờng. Đã áp dụng các công nghệ và
phơng pháp nghiên cứu tiên tiến: viễn thám, địa vật lý vào
công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều kết

34

quả nghiên cứu môi trờng đợc đánh giá cao : nghiên cứu
chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng
sinh thái và xử lý ô nhiễm nớc, không khí ở các khu công
nghiệp tập trung, các thành phố lớn các biện pháp trồng
rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên
và công nghệ cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của


ta đợc đánh giá cả ở nớc ngoài. Công nghệ thông tin đã
phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống ngân hàng,
quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công
nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá
đã từng bớc đợc quan tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng
những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật
thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển
chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh
thái khác nhau, tạo mức tăng trởng quan trọng. Nghiên cứu
và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao,
thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 20 năm qua, năng suất lúa
bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lợng lơng thực 2004
đạt hơn 39,12 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu
vi sinh, chất kích thích tăng trởng thực vật đã đợc sử dụng
vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây lơng thực. Cơ cấu

35

cây trồng đã đợc thay đổi cơ bản. Trớc năm 1989, từ chỗ
còn thiếu lơng thực, Việt Nam đã trở thành nớc xuất khẩu
gạo đéng thứ 2 thế giới sau Thái Lan.
Về thuỷ sản nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay
năng suất cao. Tháng 5 năm 2006 sản lợng khai thác thuỷ sản
ở Việt Nam đạt 166500 tấn đa tổng sản lợng khai thác 5
tháng đầu năm 2006 ớc đạt 799.500. Trong đó sản lợng nuôi
trồng tháng 5 năm 2006 đạt 135.000 tấn. Theo ớc tính của Bộ
Thuỷ




sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu tháng 5 năm 2006 đạt 250
triệu USD, nâng giá trị kim ngạch xuất khẩu 5 tháng. Đặc biệt
kỹ thuật nuôi tôm đã đợc ứg dụng khắp nơi, tạo công ăn việc
làm cho 350000 ng dân ven biển góp phần cải thiện và tăng
kim ngạch xuất khẩu các ngành thuỷ sản.Việc nuôi trồng thuỷ
sản đã có sự đầu t khoa học thích đáng trong việc tận dụng

36

mặt nớc ao, hồ, nớc biển mà sản lợng khai thác,nuôi trồng
,xuất khẩu tăng đáng kể.
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến đợc áp
dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lợng cao : hàng may mặc,
thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử Công nghiệp
tăng trởng bình quân khoảng 23% năm 2004 đạt 2,1 tỷ USD,
công nghiệp viễn thông đạt 200 triệu USD, máy tính 1 triệu
USD, điện tử 730 triệu USD, công nghệ phần mềm 170 triệu
USD.
Trong lĩnh vực năng lợng, nhiều công trình, nghiên cứu
KH- CN đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý
các nguồn năng lợng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy
thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phơng pháp giảm tổn
thất năng lợng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống
năng lợng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu
vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan
trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lới, đờng bộ,
đờng sắt, đờng thuỷ, đờng sông đã xây dựng một số công
trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển


37

trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân
Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào,
Campuchia với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng
và thi công mặt đờng.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ
tinh, cáp sợi quang đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin
quốc tế và khu vực. Viễn thông nớc ta hiện đợc xếp vào một
trong những nớc có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên
cạnh mạng lới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các
loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di động, máy
sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, đợc các tổ chức
kinh tế, cơ quan trong và ngoài nớc sử dụng. Thị trờng tin
học nớc ta những năm qua, có tốc độ tăng trởng trung bình
hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ
đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lu giữ
nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh
tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng
máy vi tính ở nớc ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng
riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện
rộng.

38

Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ
ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh
nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi Kết hợp y
học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng

thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán
bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật
Bản
Đến nay nớc ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn
800.000 ngời trình độ đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần
3.000 giáo s- phó giáo s, hơn 45.000 cán bộ nghiên cứu triển
khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000
nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trờng
đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực
sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH, đợc đào tạo từ
nhiều nguồn khác nhau .
2. Hạn chế
Đầu t cho khoa học công nghệ còn ở mức
thấp

39

Việt Nam cha có chính sách khoa học dông nghệ nhất
quán thể hiện bằng hệ thống pháp luật nh các quốc gia khác.
Thời gian qua Đảng và Nhà nớc đã có nhiều cố gắng tạo
nguồn tài chính để đầu t cho khoa học và công nghệ nhng
cha thể đáp ứng đợc nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống
kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu t tài chính từ ngân sách nhà
nớc dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ
0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới,
nớc ta đạt đợc những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng
kinh phí đầu t cho khoa học và công nghệ đợc nâng lên dần,
nhng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn
đầu t không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trờng
thì đầu t tài chính cho kha học công nghệ cha vợt quá 1%

ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm
cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nớc
khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới
hiện là 55.324 USD và kếm các nớc trong khu vực châu á .
Mức đầu t thấp nhng lại phân tán và không ít trờng hợp sử
dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nớc đã có nhiều chủ trơng,
nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công
nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế
giới, nhng mức đầu t cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả
năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi

40

vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu
khoa học có mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi
trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân
sách nhà nớc trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi
cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu t kinh phí
cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của ngời
lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nớc. Rốt cục quy
định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân sách
hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn không
thực hiện đợc.
Với mức đầu t nh vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết
bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu cơ
quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động cầm chừng,
chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt mà không thể tạo ra
đợc thành quả khoa học có tầm chiến lợc. Nếu không có các
chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc
chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên

cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc chuyên môn
mà lâu nay họ tâm huyết.
Lực lợng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu

×