Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chủ chốt part7 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.04 KB, 8 trang )


Trang 49
Theo họ, vấn đề quan trọng không phải là DNNN hay
DN tư nhân, và là sản xuất có hiệu quả hay không, vì quy
cho đến cùng thì sẽ hữu thi là phương tiện, tăng trưởng kinh
tế mới là mục tiêu.
Hai là: Chỉ chủ tư nhân – là chủ sở hữu tài sản một cách
chính đáng mới quan tâm chăm lo cho DN của mình, quản
lý chi phí hợp lý, tiết kiệm đồng thời có khả năng nhanh
nhạy, linh hoạt trong cơ chế thị trường.
Ba là: DNNN có chủ sở hữu là nhà nước nên có một bộ
phận không nhỏ cán bộ quản lý lấy tài sản tài sản ra sử dụng
lãng phí, mặt khác, DNNN bị chi phối bởi nhiều cơ quan
quản lý nên hạn chế nhiều khả năng kinh doanh dẫn đến
hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém.
Trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả DNNN cũng gặp những trở ngại, bởi sự
bất đồng về các giải pháp, về yêu cầu và vị trí của KTNN
hay DNNN trong nên kinh tế, điều đó dẫn đến chia ra những
chính sách thiếu tính khả thi.

Trang 50
* Thứ 2: Chất lượng đội ngũ quản lý có nhiều sai sót hạn
chế về phẩm chất cũng như khả năng quản lý. Công tác tổ
chức quản lý và khuyến khích sản xuất chưa hợp lý.
-Một bộ phận không nhỏ cán bộ công nhân nhân viên bị
thoái hoá, biến chất đã vi phạm chính sách, pháp luật gây
thất thoát tài sản, tiền vốn và làm tổn hại cho nhà nước và
tập thể rất nhiều.
-Một bộ phận không nhỏ các cán bộ quản lý từ khối kinh
tế cũ bảo thủ ỷ lại, thiếu năng động nhưng vẫn giữ các chức


vụ quản lý, lãnh đạo quan trọng trong DN. Số cán bộ quản
lý thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh doanh, quản lý
chưa được đào tạo, bồi dưỡng lại dẫn đến những sai sót gây
hậu quả không nhỏ cho nền kinh tế như: thua thiệt trong liên
doanh với những chủ đầu tư nước ngoài, kinh doanh kém
hiệu quả, lãng phí tài sản nhà nước.
-Số lượng công nhân viên chức trong các DNNN tuy lớn
nhưng trình độ học vấn văn hoá, kỹ thuật còn thấp, công
nhân thiếu tay nghề do đó không đáp ứng được yêu cầu chất
lượng sản phẩm, trong khi giá thành cao, sức cạnh tranh yếu
và phục vụ nhu cầu công cộng không tốt.

Trang 51
-Các DNNN còn chậm đổi mới công nghệ, còn nhiều bất
cập trong việc tổ chức sản xuất, bố trí xây dựng dây chuyền
sắp xếp cán bộ, công nhân viên chưa đúng chức năng, Trong
khi đó bộ máy quản lý DN còn nặng nề, cồng kềnh số lượng
lao động còn dư thừa chưa được giải quyết nên năng suất
thấp.
-Việc quản lý, sử dụng tài sản và tiền vốn hiện có trong
các DN còn thiếu chặt chẽ, chính xác, hiệu quả sử dụng vốn
thấp dẫn đến tình trạng thiếu vốn tăng lên. Tình trạng tiền
lương, khen thưởng phân phối cho người lao động chưa
công bằng, chưa đúng với năng lực làm việc của mỗi người,
do đó chưa khuyến khích phát triển tài năng và nâng cao
năng suất lao động.
-Công tác kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà
nước đối với các hoạt động của các DN và thủ trưởng của
các đơn vị sản xuất còn bị buông lỏng.
* Thứ ba: Quản lý của nhà nước đối với KTNN vòn

nhiều thiết sót.
-Một là: Chưa có chiến lược quy hoạch dài hạn đầy đủ về
phát triển các ngành kinh tế, kinh doanh, đặc biệt là quy

Trang 52
hoạch phát triển DNNN trên các vùng kinh tế, khu kinh tế
trọng điểm trong các ngành kinh tế, dịch vụ then chốt mũi
nhọn. Do vậy mà hệ thống DNNN chưa có cơ cấu hợp lý,
chưa có chiến lược kinh doanh và phát triển DN một cách
đầy đủ và đúng. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức sản
xuất, kinh doanh chưa có hiệu quả. Hoặc do cơ quan quản lý
không đầu tư đúng hướng dẫn đến sản phẩm làm ra không
tiêu thụ được đưa DN đến làm ăn thua lỗ, phá sản.
-Hai là: Chính sách đổi mới công nghệ, phương pháp,
phương tiện trong sản xuất – kinh doanh và quản lý chậm
được thực hiện. Trong những năm đổi mới, công nghệ thiết
bị, phương tien trong sản xuất kinh doanh và quản lý tuy có
hiện đại hơn trước nhưng lại nhập từ các nước khác nhau
dẫn đến thiếu đồng bộ, khi muốn thay thế đòi hỏi chi phí rất
lơn do đó mà công nghệ rất chậm được cải tiến. Mặt khác,
do thiếu trình độ mà một số DNNN khi đã có kinh phí để đổi
mới công nghệ thì lại mua về “rác thải công nghiệp” là
những máy móc lạc hậu của các nước tiên tiến về mình, làm
cho công nghệ nước ta vốn đã lạc hậy thì nay vẫn cứ lạc hậu.
-Ba là: một số chính sách vốn để phát triển doanh nghiệp
và kinh doanh chưa hợp lý và đồng bộ khi chuyển sang cơ

Trang 53
chế mới, DN cần phải lo cho cả ba loại vốn: vốn cho đầu
vào, vốn cho sản xuất, vốn cho tiêu thụ, khác với trước đây

nhà nước chỉ lo vốn mỗi khâu đầu vào, do đó nhà nước
không cung cấp đủ vốn cho DN sản xuất – kinh doanh, dẫn
đến hoạt động sản xuất bị trì trệ.
-Bốn là: Hệ thống pháp luật cơ chế ban hành và thực hiện
chưa cơ bản. Luật pháp nước ta còn rất nhiều bất cập ,
thương mang tính tình thế, thay đổi liên tục.Diều đó gây trở
ngại cho các nhà hoạt động kinh tế trong việc hoạch định kế
hoạch sản xuất lâu dài cho DN. Hiệu quả thực thi pháp luật
còn rất chậm, chưa nghiêm túc. Một điều bất ổn đó là các
chính sách còn chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các cấp
làm cho các DN khó nắm bắt để thực hiện. Môi trường pháp
luật như vậy cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hợp tác
với các nước trên thế giới.
-Năm là: Quy định về trách nhiệm hoạt dông cụ thể của
từng đại diện chủ sở hữu chưa được thực hiện đầy đủ.
* Thứ 4: Do nguyên nhân lịch sử
Nhiều DNNN phải gánh chịu hậu quả do quá trình lịch sử
hình thành và phát triển: cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu,

Trang 54
giá trị sử dụng của số tài sản, thiết bị thấp, nhưng tính giá trị
để bảo toàn vốn và khấu hao vốn. Cơ chế bao cấp để lại một
đội ngũ lao động quá lớn trình dộ thấp, sức khoẻ yếu, không
đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hiện nay.
Mặc dù chủ sở hữu DNNN là nhà nước song phải thông
qua nhiều đại diện chủ sở hữu gián tiếp - trách nhiệm bị
phân tán một cách không đồng bộ dẫn đến rất phức tạp khi
cần quyết định một vấn đề kinh tế cần thiết.
DNNN còn vai trò rất lớn là thực hiện những nhiệm vụ
xã hội công cộng làm cơ sở xây dựng nền tảng cho chế độ

xã hội mới. Vì lẽ đó mà ngoài hoạt động kinhdoanh, DNNN
còn hoạt động trong các lĩnh vực công ích, điều đó có tác
động đến tốc độ tăng trưởng của KTNN sẽ chậm hơn so với
các thành phần kinh tế khác chỉ hoạt động vì mục đích lợi
nhuận.
Những tồn tại yếu kém:
+ Xét chung tất cả các thành phần của KTNN thì bộ phận
nào cũng có hạn chế:
-Quản lý còn chưa chặt chẽ và thiếu rõ ràng về tài chính,
ngân sách.

Trang 55
-Làm ăn còn kém hiệu quả do tính chất là KTNN được
nhà nước bao cấp một số mặt, do đó còn thiếu năng động
trong cạnh tranh trên thị trường, rất ít DN làm ăn có hiệu
quả và thực sự đứng vững độc lập để cạnh tranh với các DN
thuộc các thành phần kinh tế khác nếu không có sự bảo trợ
của nhà nước.

III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai
trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân.
1. Một số giải pháp:
Một là: Thực hiện chính sách đầu tư thích đáng cho các
bộ phận KTNN nhằm vừa đảm boả hoạt động của chúng vừa
tạo tính tự lực, năng động của chúng trong kinh tế thị
trường. Hiện nay, do những trợ cấp về tài chính của nhà
nước đối vớicác DN vòn thiếu tính thực tế, có khi DN làm
ăn đã có lãi vẫn được trợ cấp mà trong khi DN cần vốn hơn
thì lại được trợ cấp quá ít. Điều đó đòi hỏi việc quản lý của
chính phủ về tài chính, về thực trạng hoạt động của các DN

sẽ rõ hơn để có chính sách đầu tư thích đáng, vừa tạo động
lực vừa khuyến khích các DN hoạt động có hiệu quả hơn.

Trang 56
Hai là: Đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu lại những bộ phận còn
nhiều yếu kém, nhất là các DNNN. Cần tổ chức lại một cách
có quy mô, hoạt động có hiệu quả và thực hiện được vai trò
chủ đạo, chính yếu trong nền kinh tế, quốc dân. Muốn thực
hiện được giải pháp này đòi hỏi các nhà hoạch định phải có
chính sách đúng đắng, có khả năng thực thi và phù hợp với
tình hình thực tế của các doanh nghiệp. Muốn nắm được tình
hình hoạt động quy mô của các doanh nghiệp, đòi hỏi nhà
nước phải có một hệ thống chi tiêu, hoặc theo tiêu chuẩn
trong nước hoặc theo tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế, để
từ đó phân các DN vào những mức độ cụ thể, từ đó có giải
pháp đổi mới, sắp xếp phù hợp hơn.
Ba là: đẩy mạnh công tác cổ phần hoá các DNNN. Qua
thực tế tiến hành cổ phần hoá một số lượng các DNNN từ
trước đến nay, ta thấy rằng đó là một giải pháp mang nhiều
ưu điểm và có khả năng cao nhất trong việc đây nhanh hiệu
quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của các DN: hầu hết các
DN sau khi cổ phần hoá thì doanh thu, thu nhập của người
lao động, vốn, nộp thế đều tăng hơn so với trước. Mặt khác,
thực chất của cổ phần hoá là nhằm huy động và sử dụng
rộng rãi vốn dầu tư xã hộ, do đó mà khả năng mở rộng sản

×