Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.94 KB, 40 trang )

Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Báo cáo tốt nghiệp
Đề t à i:


Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam hiện nay
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 1 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
A - LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các
vấn đề về xuất nhập khẩu, về đầu tư nước ngoài đang là những chủ điểm cho các cuộc
hội thảo kinh tế ở Việt Nam. Làm thế nào để tăng cường giá trị xuất nhập khẩu, thu
hút đầu tư đó là những vấn đề đáng quan tâm cho những nhà hoạch định chính sách.
Nhìn nhận vấn đề xuất nhập khẩu, đầu tư chúng ta không thể bỏ qua vấn đề về
tỷ giá hối đoái, một thước đo giá trị của đồng tiền này bằng đồng tiền khác. Bạn có bao
giờ nghĩ rằng tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn như thế nào chưa? Giả sử
bạn là một nhà xuất khẩu Việt nam, bạn vay ngân hàng 1 triệu USD (=15 tỷ VND) để
nhập khẩu, khi bạn bán được hàng thu được 16 tỷ VND. Tuy nhiên lúc này tỷ giá là
20000VND/1USD bạn đã bị lỗ ít nhất 4 tỷ. Hiểu biết về tỷ giá và dự đoán đúng sự
biến động về tỷ giá là thành công của nhiều doanh nghiệp, bởi vậy mới hình thành các
phòng kinh doanh ngoại tệ ở các ngân hàng. Vấn đề tỷ giá còn ảnh hưởng trực tiếp đến
vấn đề xuất nhập khẩu. Nếu đồng tiền Việt nam mà lên giá sẽ bất lợi cho các nhà xuất
khẩu bởi hàng hoá Việt Nam đã đắt lên một cách tương đối, ngược lại sẽ làm cho các
nhà nhập khẩu bất lợi.
Từ thực tế trên em xin tìm hiểu đề tài “Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối
đoái ở Việt Nam hiện nay” nhằm hiểu rõ hơn về sự vận động của tỷ giá hối đoái và
đưa ra một vài giải pháp về chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay.


Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, đề án bao gồm 3 phần :
Chương 1: Tổng quan về tỷ giá hối đoái
Chương 2: Thực tiễn chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
Chương 3: Những vấn đề còn tồn tại và giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam
Do trình độ hiểu biết của em và phạm vi nghiên cứu về vấn đề nghiên cứu còn hạn
chế cho nên đề tài không thể nào tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em rất mong được
sự thông cảm của thầy cô.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn đến thầy giáo Nguyễn Hoà Nhân, người đã
hướng dẫn cho em để em có thể hoàn thành đề tài này!
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 2 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 01
CHƯƠNG I - TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 04
I – TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ SỰ HÌNH THÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 04
1- Tỷ giá hối đoái 04
2- Sự hình thành tỷ giá hối đoái 04
a. Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối 04
b. Cung về tiền trên thị trường ngoại hối 05
3- Phân loại tỷ giá hối đoái 06
a. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối 06
b. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối 06
c. Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế 06
d. Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối 06
e. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng 07
II - NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 07
1- Cung cầu về ngoại tệ 07
2- Chính sách thương mại 07
3- Năng suất lao động của các nước 08

4- Lợi tức kỳ vọng 08
5- Tâm lý của công chúng 08
III - TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN NỀN KINH TẾ 09
1- Thực trạng tác động của TGHĐ với các lĩnh vực tài chính, ngân sách thời gian
qua 09
1.1-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách 09
1.2-Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài 11
1.3-Thực trạng tác động cuả tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính phủ 13
1.4- Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại 14
IV - CÁC CHẾ DỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 20
1- Tỷ giá ngang giá vàng trong chế độ bản vị vàng 20
2- Tỷ giá hối đoái trong chế độ tiền tệ Bretton Woods 21
3- Tỷ giá hối đoái sau chế độ tiền tệ Bretton Woods 22
V - SỰ CAN THIÊP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 22
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 3 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
1- Phương pháp lãi suất chiết khấu 24
2- Các nghiệp vụ thị trường hối đoái 24
3- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái 25
4- Vốn để phá giá đồng tiền 25
CHƯƠNG II - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM 26
I-Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đoạn
trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá, tập trung kinh tế 26
II-Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng XHCN 28
1. Giai đoạn từ 1989-1992 28
2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996 29
3. Giai đoạn từ tháng 7/1997 đến ngày 26/02/1999 32
4. Giai đoạn từ 26/02/1999 đến nay 34
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TGHĐ Ở VN 36

1. NHTƯ phải có một lượng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn 36
2. Cần phải điều chỉnh mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất 37
3. Phải có sự quản lý đối với hàng hóa trong nước 37
4. Điều chỉnh chính sách thuế quan và phi thuế quan hợp lý 37
5. Khống chế mức lạm phát trong nước 37
6. Cơ chế quản lý ngoại hối cần được hoàn chỉnh hơn 38
KẾT LUẬN 39
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 4 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ SỰ HÌNH THÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Tỷ giá hối đoái:
Ngày nay trong quan hệ thanh toán quốc tế hầu hết các nước, các tổ chức, cá
nhân đều sử dụng ngoại tệ. Việc quy đổi đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác
được gọi là hối đoái quốc tế. Khi thực hiện quy đổi một đồng tiền nước này ra đồng
tiền nước khác phải theo một tỷ lệ nhất định, được gọi là tỷ giá hối đoái.
Về hình thức, tỷ giá là giá cả của một đồng tiền của nước này được biểu hiện
bằng một số lượng đơn vị tiền tệ biến đổi của nước khác.
Về bản chất, tỷ giá là quan hệ về mặt giá trị giữa các đồng tiền khác nhau với
nhau, phản ánh về sự so sánh về sức mua của các đồng tiền đó.
Ví dụ:
- Tỷ giá giữa đồng đô la Mĩ với đồng Việt Nam như sau:
USD/VNĐ=19.000 có nghĩa là 1 USD = 19.000 VNĐ.
- Tỷ giá giữa đồng đô la Mĩ với đồng mác Đức như sau:
USD/DEM=1.8125 có nghĩa là 1 USD = 1.8125 DEM.
Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng đơn vị
tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và Anh được sử dụng
theo nghĩa ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một đồng USD hoặc
đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ giá hối đoái:

- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (e
n
): đây là tỷ giá hôí đoái được biết đến nhiều
nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng
ngày.
- Tỷ giá hối đoái thực tế (e
r
) được xác định e
r
= e
n
* P
n
/P
f

Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát giữa
các nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước.
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
a- Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 5 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước
khác mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu càng
nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trường ngoại hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó xuống dốc phía
bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá của nước ấy
càng trở lên đắt hơn đối với những người nước ngoài và ít hàng hoá xuất khẩu hơn

b- Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ phải mua
một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượng tiền này
của nước A khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên trên về phía
phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ và hàng hoá ngoại
được nhập khẩu ngày càng nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng thị trường
của cung và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền hoặc làm giảm cung của
nó đều có xu hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Bất kỳ cái gì làm giảm cầu về
một đồng tiền hoặc làm tăng cung đồng tiền ấy trên các thị trường ngoại hối sẽ hướng
tới làm cho giá trị trao đổi của nó giảm xuống ở hình vẽ dưới, ta thấy được tỷ gía hối
đoái cân bằng L
o
của đồng Việt Nam và đồng USD Mỹ thông qua giao điểm S và D.

L USD
Đ
S
Lo
Qo D Q(đ)
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 6 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
3. Phân loại tỷ giá hối đoái
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào đó của
tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết phải
phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau:
a- Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai
loại

-Tỷ giá điện hối mà tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
-Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng thư (mail transfen M/T)
b- Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên cơ sở
ngang giá vàng.
- Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu
qui định .
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không
can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
c- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn
bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản
ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng
tiền mặt.
d- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán ngoại hối
của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối
của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 7 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại
hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận

ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng(có thể là 1,2,3
tháng sau).
e- Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng
Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giá nhận chúng sẽ
được thực hiện chậm nhất sau hai ngày làm việc.
Tỷ giá giao nhận có kì hạn là tỷ giá là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao
nhận chúng được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định.
Tỷ giá giao nhận ngay và tỷ giá giao nhận có kì hạn được công bố theo hình
thức mua vào, bán ra như sau:
- Tỷ giá mua vào là tỷ giá tại đó ngân hàng niêm yết sẵn giá mua vào đồng tiền
yết giá.
- Tỷ giá bán ra là tỷ giá mà tại đó ngân hàng niêm yết sẵn giá bán ra đồng tiền
yết giá.
II- NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1-Cung cầu về ngoại tệ:
Như chúng ta đã biết, đối với cung của một loại hàng hoá bất kỳ nào thì sự thay
đổi cung của hàng hoá đó luôn chịu giới hạn nhất định nhưng cung của tiền có thể tăng
đến vô hạn. Ngược lại cầu hàng hoá phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng, tích trữ, đầu cơ
nên chúng ta có thể lượng ước được và tính toán được lượng cầu hàng hoá nhưng đối
với tiền thì không, cầu tiền là vô hạn. Vì lẽ đó cung cầu ngoại tệ thường xuyên thay
đổi và không có giới hạn cho sự thay đổi đó. Khi cung ngoại tệ vượt quá cầu ngoại tệ
ngay lập tức giá ngoại tệ sẽ giảm xuống, ngược lại khi cầu ngoại tệ vượt quá cung
ngoại tệ thì giá ngoại tệ sẽ tăng lên và dẫn đến tỷ giá sẽ thay đổi. Như vậy mọi sự biến
đổi của cung ngoại tệ khác với sự biến đổi của cầu ngoại tệ đều tác động mạnh TGHĐ.
2-Chính sách thương mại:
Hiện nay, trong điều kiện hội nhập, hầu hết các nước trên thế giới đều có quan
hệ giao lưu với nhau về kinh tế. Và để thuận lợi trong quan hệ này, các nước thường
đặt ra các chính sách thương mại. Có nhiều chính sách thương mại khác nhau với
nhiều tác động khác nhau và nhằm nhiều mục đích khác nhau nhưng chắc chắn một
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 8 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân

Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
điều chính sách thương mại có tác động đến tỷ giá. Cụ thể, khi thực hiện chính sách
thương mại có tác dụng làm giảm thuế quan sẽ khiến nhập khẩu hàng hoá tăng làm cầu
về ngoại tệ tăng theo dẫn đến giá trị đồng ngoại tệ tăng lên và khiến tỷ giá thay đổi.
Hay khi nhà nước thực hiện chính sách thương mại có tác dụng làm tăng thuế quan thì
sẽ có tác động ngược lại làm giảm nhập khẩu hàng hoá nước ngoài nên cầu về ngoại tệ
giảm xuống do đó giá trị ngoại tệ giảm làm tỷ giá thay đổi.
3-Năng suất lao động của các nước:
Do tỷ giá hối đoái phản ánh mối tương quan đồng giá sức mua của các đồng
tiền, nên dễ dàng so sánh giá cả của thị trường nội địa và thị trường thế giới. Từ đó sẽ
có thể thấy được tình trạng năng suất lao động của mỗi quốc gia hay nói cách khác tỷ
giá và năng suất lao động có mối liên hệ với nhau.
Ví dụ: Trung Quốc có năng suất lao động cao hơn Việt Nam vì vậy hàng hoá
Trung Quốc rẻ dẫn đến cầu nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc của Việt Nam tăng mạnh
khiến cho cầu về Nhân Dân tệ cũng tăng theo. Lúc này giá trị của đồng Nhân Dân tệ
cũng tăng và được định giá cao hơn so với đồng Việt Nam .
Như vậy chúng ta có thể đi đến kết luận rằng những nước có năng suất lao động
cao thì đồng tiền của nước đó sẽ được định giá cao và tỷ giá sẽ tăng cao đối với đồng
tiền nước đó khi năng suất lao động ngày càng tăng.
4-Lợi tức kỳ vọng:
Lợi tức kỳ vọng ở nước nào cao thì luồng tiền sẽ chảy từ nước ngoài vào nhiều,
làm cung ngoại tệ tăng kết quả là đồng ngoại tệ xuống giá và đồng nội tệ lên giá và sẽ
khiến tỷ giá thay đổi.
Ngoài ra, lạm phát bao giờ cũng làm giảm lợi tức kỳ vọng. Khi có lạm phát, giá
cả sẽ tăng cao, đồng nội tệ bị sụt giá so với ngoại tệ, tức làm tăng tỷ giá.
5-Tâm lý của công chúng:
Tâm lý của công chúng cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến tỷ giá. Ví
dụ như ở Việt Nam, nhân dân có tâm lý thích dùng hàng hoá ngoại nhập, sùng bái
ngoại tệ đặc biệt là đồng đôla Mĩ đã làm cầu về ngoại tệ tăng dẫn đến làm tăng giá trị
đồng ngoại tệ và kết quả là tỷ giá tăng lên.

Ngoài các yếu tố chính trên còn rất nhiều các yếu tố khác tác động đến tỷ giá
như khủng hoảng tài chính, giá dầu trên thế giới, các chính sách của nhà nước
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 9 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
III- TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN NỀN KINH TẾ
1-Thực trạng tác động của tỷ giá đối với các lĩnh vực tài chính, ngân sách
thời gian qua.
1.1-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu chi ngân
sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ
giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời điểm công
bố mức tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức mua của
đồng tiền tính chung thời kỳ 1985-1988, 1rúp mua trên dưới 1.500VND hàng xuất
khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND, trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong
quan hệ xuất nhập khẩu giữu mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp
hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất
khẩu của năm 1987 là 650 triệu R-USD trong đó khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu
vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành,
các địa phương càng giao nhiều hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì
ngân sách nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc
chậm trễ trong việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng
tăng và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư
nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong nền kinh
tế quốc dân với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và
225VND/USD nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối các loại
vật tư,nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách nhà nước lại không
thu được chênh lệch giá. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán
xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn để có thể
đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì mức lỗ của ngân sách

cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho
việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao
hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất
định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể.
Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ không bán
ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ chức đại diện nước ngoài
hoặc cá nhân nước ngoài cũng không chuyển tiền tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà
thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 10 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị
thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế
cho Nhà nước vừa làm phát sinh thêm những tiêu cực trong đời sống xã hội. Đồng thời
nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ giữa các
đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ
giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ do nhà nước qui định không tính đến biến
động giá trên thị trường đang bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ
hàng xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản
lý ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại
tệ bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân sách Nhà
nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát của ngân
sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại
tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam so với
ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt
Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng
xuất khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà
nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp

tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức
kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho
các cơ quan và tổ chức được Nhà nước cấp cũng được tăng lên tương ứng với mức mất
giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã bỏ
chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất
- nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ giá thị trường. Ngân hàng nhà nước
công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở
đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh
lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với thị trường
khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực và chính xác
hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và
trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn.
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 11 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và quản lý
ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không tốt đến quản lý, điều
hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã khiến cho
lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ tăng của
cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại
tệ chưa được tăng cường.
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không ổn định thì
không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân sách bằng ngoại tệ
theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị trường, điều hành Ngân sách Nhà
nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn
đòi phải giải quyết.
1.2. Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ. Trước

năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92 triệu USD (tỷ giá 216
Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho
Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài
ra, vào thời điểm 1987 trở về trước còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ
Yên, tương đương 125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên
lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua
sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm
thiệt thòi cho người đi vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở
nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động mạnh đến khả năng
thanh toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989-1990 có 81 doanh nghiệp vay
nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5722 triệu Yên là
10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130 Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên
quy ra USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại
tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đến yếu tố
lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố,
rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo
phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh nghiệp kể
trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên tăng giá).
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 12 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
- Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý nghĩa đặc
biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài
nếu không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với
nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền
quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về trách

nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân công quyền
trước các khỏan vay và khỏan trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui định Nhà nước vay
Nhà nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không gánh hộ nợ doanh
nghiệp.
Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào cũng chấp
nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì
khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng, nhưng xuất khẩu
hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu
mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà nước
và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay, không thể
chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến việc trả giá, đặc biệt phải
chú trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ
cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn đề là ơe chỗ làm thế nào để
giải quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ khônghcỉ
quy định trách nhệm mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy
quản lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm
quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề
này-vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải được quản
lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính
quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành
quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá
quan trọng góp phần giải quyết các vấn đè của đất nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án ngoài
ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân sách để quản lý và
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 13 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp
phát bằng ngoại tệ.

Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp quản lý
nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện trợ, tài trợ của chính
phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh
tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải
chỉ có nợ chính phủ mới nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân
các của nước cũng phải đưa vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả
nền kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên
quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác dộng đến sự cân bằng của cán cân thanh toán.
là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong tương lai còn phải vay và
đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý
nghĩa chiến lược to lớn.
1.3. Thực trạng tác động cuả tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi
suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng
ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm
tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà
nước phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách về thanh toán
lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất
kihn doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái
phiếu chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh
doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tụcthanh toán lãi suất về huy động tiền gửi.
Kinh nghiệm của một số nước châu Á (như Malaixia, Thái lan, Indonexia) cho thấy
việc xử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ
được biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh xu hướng
nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ USD, và do
đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi
chúng ta cần có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm bảo
cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả.

Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam cho thấy,
tình hình taì chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 14 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
có quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu
hiện tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa
chọn tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá
cũng có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia
thông qua nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt
vấn đề lựa cọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu
như không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành của quốc gia.
1.4. Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết ké chính sách tỷ giá hối đoái nhằm duy
trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu bền.
Bằng cách tăng giá các hàng thương mại hoá được so với các hàng hoá không thương
mại hoá được; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các
hàng hoá không thương mại hoá được, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá
thương mại hoá được, và do đó giảm bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá
được (tức là cải thiện được vị thế của cán cân vãng lai). Ngoài tác dộng của chính sách
chuyển đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối
lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn
giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh tranh đối với
bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khỏi điểm cân bằng của nó. Bởi vì điểm
cân bằng này được xác địng nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác
động của các cơn sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập
đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên
cứu tác dộng của các cơn sốc bên trong và bên ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ
tập trung vào chính sách cụ thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:

Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp cận
đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh. Nguyên
lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá
tương đối giữa một nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là đối với sức mua so
sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ
số thích hợp cho cân bằng tỷ giá giưã các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ
thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao
gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 15 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
lượng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của
nó sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân
bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực như là giá
so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không mậu dịch hoá được, nó
đưa ra thước đo các động lực quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực
trọng yếu này của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa so với
hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được phân phối lại sang khu
vực hàng hoá thương mại hoá và cán cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa
đó, thì điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá
thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội
và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá không thương mại
hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai
được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tànglên quan đến biến
động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay
đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng của
tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cảu
chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan,
thay đổi trong điều hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế) lên

cân bằng của tỷ giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động quan
trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao động tăng nhanh hơn
trong khu vực hàng hoá thương mại hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại
hoá, thì giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất
của tiền lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng hoá thương mại hoá thị trường quốc
tế quy định thì tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các
nước có tốc độ tăng năng suất thấp các nước đang phát triển thường chịu các cơn sốc
về điều kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương xấu đi vì sự giảm giá tương
đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên dư thừa cung đối với hàng hoá không
thương mại hoá và dư thừa cầu đối với hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân
vãng lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân vãng lai được điều chỉnh lại qua việc giảm giá
tương đối của hàng hoá không thương mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển
cung nội địa từ hàng hoá không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 16 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm thuế nhập
khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cânbằng. về phương diện định tính
thì tác động của tự do hoá nhập khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại
thương (do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giảm giá tương đối của
hàng nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với hàng hoá này, và dư thừa cung đối với
hàng hoá xuất khẩu. để đưa về cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương
mại hoá sẽ giảm. Như vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối
đoái thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách, ngay cả khi
thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng
làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu chính phủ cho hướng thành phần chi
tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng như vậy, một
sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác dộng tới tỷ giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch
chuyển của hành vi đầu tư-tiết kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp

của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân banừg ngân sách tổng thể, nhưng
với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá
hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và
thu của chính phủ quy định.
Một sự tăng lên lãi suất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng của tỷ giá hối
đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới chế độ tỷ giá cố định thì lãi xuất trong
nước tăng lên để giữ được mức so sánh với lãi xuất quốc tế, do đó làm giảm chênh
lệch giữa đầu tư và tiết kiệm. Một sự cải thiện cán cân vãng lai như vậy sẽ gây nên
việc giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc nước đó là chủ nợ hay con
nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh sự thay đổi tương ứng cảu sự thay đổi
vị thế chuyển giao các nhân tố thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ
giá thực cân bằng là không rõ ràng, nếu một nước là con nợ lớn. Tác động của lãi xuất
quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu chính
phủ làm trung hoà tác động của ngân sách lên sự thay đổi lãi xuất bằng cách giảm chi
tiêu hàng hoá thương mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướng giảm trong dài
hạn. mặt khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi xuất được tài trợ bằng cách
tăng thuế, hoặc nếu kèm theo việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không
thương mại hoá.
Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát:
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một số các
cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của viêvj xấu đi sức cạnh tranh đối với bên
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 17 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
ngoài ở hầu hết các nước đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc
duy trì chế độ tỷ giá tỷ giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi
của sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân đối lớn và
lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh được mất cân bằng ngoại, bằng cách
cho tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh thường xuyên và theo liều lượng tương đối
nhỏ. Người ta lập luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức đúng đắn,

không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế, và do đó che lấp được vấn đề
phá giá có thể nổi lên trên chiến trường chính trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng
định quy tắc tỷ giá thực cung cấp một mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những
người tham gia thị trường thông tin bổ ích về chiều hướng có thể xảy ra các giá tương
đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất dựa trên các dự đoán mong đợi sai
lệch.
Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số vấn đề như: xác
định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không dễ dàng về lý thuyết, chứ chưa nói về mặt
thực tiễn và một số khó khăn nghiêm trọng có thể phải tính đến nếu đích tỷ gía đặt sai.
Vì vậy, trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá thực thf phải cho phép có một độ sai số so
với điểm cân bằng của tỷ giá thực do các cơn sốc bên ngoài hoặc trong nước gây ra.
Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có thể kiên trì quy tắc tỷ giá thực. Nếu cớn sốc là lâu dài
thì sự sai biệt lớn của tỷ giá thực so với điểm cân bằng có thể làm giảm sức cạnh tranh
quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể tạo nên sự
không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có tác động tốt về mặt cân bằng
ngoại. Việc thực hiện đích tỷ giá thực, tức là buộc phải theo đuổi đích phần thực mà lại
sử dụng các công cụ đại lượng danh nghĩa với giá cả nội địa. Vì vậy các cơn sốc đối
với lạm phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài, và trong một số trường hợp có
thể dẫn đến lạm phát, về phía cạnh khác, trong nền kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị
gia tăng do nguồn bên ngoài tăng lên, thì một sự bùng nổ giá cũng có thể xảy ra ngay
cả khi chính sách tín dụng không bành chướng.
Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua điều chỉnh tiền tệ và
tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành tiền lương trong nền kinh tế. Theo chính
sách đó thì người lao động sẽ không quan tâm nhiều đến tác động lên công ăn việc làm
của việc định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công ty có đủ khả năngchuyển
chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn, vì vậy sự tăng lương sẽ phản ánh đầy đủ
trong tiền lương và tăng giá cả tiếp tục theo đó. Tác động lên tổng sản phẩm của các
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 18 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay

chính sách hỗ trợ tài chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biến động.
Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động của tổng sản phẩm sẽ tăng lên do chỉ số hoá
đầy đủ tỷ giá hối đoái. Ngược lại, nếu cơn sốt cầu thóng trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ
làm ổn định tổng sản phẩm.
Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực voà ổn định giá chỉ mới bắt
đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên cứu vấn đề bằng cách sử dụng một
số mô hình phân tíc đơn giản với các giả thiết khác nhau liên quan đến cơ cấu hàng
hoá, tính cứng nhắc của giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. Họ kết luận rằng: chính
sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm soát lạm phát nếu đặt tỷ giá danh nghĩa theo quy
tắc tỷ giá thực và nếu sau đó lại tìm cách kiểm soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiểm
soát diễn biễn kinh tế vĩ mô khác, họ cũng lập luận rằng: nếu tỷ giá hối đoái thực nâng
quá mức so với điểm cân bằng thì lạm phát chắc chắn sẽ cao hơn.
Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên quan chặt chẽ
với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ giưã in tiền do thiếu hụt ngân
sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong đó, giá trị cân bằng lâu bền của tỷ giá thực là hàm
không chỉ biến thực nêu trên mà còn của tỷ lệ lamj phát trong nước. Đại lượng sau
quyết định tổng thu được của chính phủ thông qua thuế lạm phát, đếnlượt nó lại tác
động lên giá trị tài sản của tư nhân và chi tiêu trong dài hạn, và do đó lên điểm cân
bằng của tỷ giá thực. Mỗi một đích tỷ giá thực gây ra một tỷ lệ lạm phát nội địa về dài
hạn, khi các điều kiện khác không thay đổi. Bên cạnh đó cần lưu ý không phải tất cả
các đích tỷ giá thực là khả thi và không phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa nền kinh
tế đến đích, ngay như nếu đích đó là khả thi.
Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối việc chấp nhận các
quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình trạng tỷ lệ lạm phát cao trong thập
kỷ trước mà đặc trưng "mặt bằng cao". Lạm phát nhảy từng bước đến các thời kỳ lạm
phát cao hơn nhưng lại tương đối ổn định. Trong một số trường hợp thì bước nhảy như
vậy liên quan đến phá giá từng đợt, tiếp theo là "cố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so
sánh sức mua. Trong các nỗ lực lớn hơn, gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa để cung
cấp một mốc neo danh nghĩa. Điều này cũng không kết luận rằng: gắn cố định dựa trên
cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là gây nên lạm phát cao, nhưngnthực tiễn cho thấy nguy

cơ ngày càng cao.
Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ giá thực, ví dụ: tỷ giá
thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm cân bằng, vì vậy không phải lo lắng trước
sự mất ổn định của giá nội địa.
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 19 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn còn đúng, thì tiềm
năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ giá thực gây ra có thể được kìm hãm
bằng cách sử dụng các chính sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn
ngừa sự xuất hiện biến động gây mất ổn định của giá cả, ngay cả khi nếu tỷ giá danh
nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức cạnh tranh quốc tế. Khi không biết chắc chắn giá
trị cân bằng của tỷ giá thực thì không nên quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu
tỷ giá thực, ngay cả khi nếu các chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách
thận trọng. Gánh nặng của điều chỉnh ít nhất là một phần do các chính sách tài chính
chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho điều chỉnh tỷ giá. Theo nghĩa đó thì cần phải chú ý
rằng các chính sách như vậy bản thân chúng có thể chịu tác động bởi chế độ tỷ giá hối
đoái mà chính phủ đưa ra.
Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái niệm khả
năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = εPo/P
Trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo gía thi trường nước ngoài.
P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội tệ.
ε:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội địa.
Với P và Po không đổi khi E tăng , EPo sẽ tăng. Giá của sản phẩm nước ngoài
trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm trong nước và ngược lại, giá của sản
phẩm trong nước trở nên rẻ, tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong
nước do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( X tăng ), nhập khẩu
giảm đi (IMgiảm), điều này làm cho xuất khẩu ròng (NX= X_IM) tăng lên. Vì
AD=C+I+G+NV nên NX tăng lên làm cho AD dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản
lượng cân bằng Q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm.
AD’

AD
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 20 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Q
*
Q
AS
SR
AS
LR
P
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối đoái thực tế
sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản lượng, việc làm
giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở đây có mối
quan hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái.
Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái của
đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản nước
ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân thương mại là công bằng thì
cán cân thanh toán là thặng dư.
Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đến sự cân bằng
của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản lượng, việc làm
cũng như sự cân bằng của nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, một số nước trên thế
giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn các nước theo đuổi chính
sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động
trong một phạm vi nhất định, để ổn định và phát triển nền kinh tế.
IV. CÁC CHẾ DỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1-Tỷ giá ngang giá vàng trong chế độ bản vị vàng:
Từ năm 1880 cho đến đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914, chế độ tỷ giá
được áp dụng là chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này, vàng được sử dụng làm nền

tảng cơ sở của tiền tệ và một quốc gia sẽ xác định đơn vị tiền tệ của mình bằng hàm
lượng vàng chứa bên trong một đơn vị ấy.
Ví dụ:
- Hàm lượng vàng chứa trong 1 USD = 1.504g vàng (trước năm 1914).
- Hàm lượng vàng chứa trong 1 GBP = 7.320g vàng (trước năm 1914).
Còn tỷ giá được xác định trên cơ sở ngang giá hàm lượng vàng tức đồng giá
vàng. Ví dụ như tỷ giá giữa GBP và USD: 1 GBP/ 1 USD = 7.320/1.504 = 4.867, vậy
1GBP tương đương với 4.867 USD.
Tỷ giá giữa các đồng tiền được xác định một cách chính xác như vậy nhưng
trên thực tế tỷ giá không cố định và luôn biến động xung quanh đồng giá vàng tuỳ theo
quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì tỷ giá có xu
hướng tăng và ngược lại. Biến động của tỷ giá luôn năm trong giới hạn nhất định đó là
chi phí vận chuyển vàng. Điểm thấp nhất và điểm cao nhất của tỷ giá so với đồng giá
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 21 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
vàng được gọi là điểm vàng.Vì trong điều kiện tièn giấy được tự do chuyển đổi ra
vàng, vàng được tự do luân chuyển giữa các nước đã giữ cho tỷ giá biến động không
vượt quá điểm vàng. Như vậy một nhà nhập khẩu hay người mắc nợ có thể thanh toán
nợ theo một trong hai cách sau:
Thứ nhất, lấy tiền nội tệ mua ngoại tệ để trả nợ.
Thứ hai, lấy nội tệ mua vàng và chuyển ra nước ngoài trả nợ vì vậy phải hao
tổn một số chi phí như chi phí vận tải, đóng gói, bảo hiểm
Phạm vi biến động của tỷ giá phụ thuộc vào chi phí vận chuyển vàng. Khi tỷ giá
tăng đến điểm vàng cao nhất, tại thời điểm này vàng ở trong nước chạy ra nước ngoài
nên được gọi là điểm xuất vàng. Ngược lại tỷ giá giảm đến điểm vàng thấp nhất, tại
thời điểm này vàng chạy từ nước nước ngoài vào trong nước nên gọi là điểm nhập
vàng. Điểm xuất vàng của nước này sẽ là điểm nhập vàng của nước kia.
Lợi thế của tỷ giá hối đoái trong chế độ bản vị vàng là biên độ biến thiên của tỷ
giá nhỏ nên quan hệ mua bán quốc tế cũng như hoạch định đầu tư thuận lợi dễ dàng
giữa các nước.

2-Tỷ giá hối đoái trong chế độ tiền tệ Bretton Woods:
Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), chế độ bản vị vàng
hoàn toàn sụp đổ, các nước tư bản chủ nghĩa chủ trương khôi phục lại chế độ bản vị
vàng không trọn vẹn, đó là chế độ bản vị hối đoái vàng thông qua đồng Bảng Anh
(1924), sau đó là đồng USD của Mỹ (1944).
Cụ thể vào tháng 7-1944, để tránh tình trạng kinh tế yếu kém như trước chiến
tranh, chính phủ các nước đồng minh vào cuối thế chiến thứ hai đã gặp nhau tại một
cuộc hội nghị của Liên Hợp Quốc về tiền tệ và tài chính. Hội nghị được tổ chức tại
Bretton Woods, New Hamphshire, Hoa Kỳ. Tại hội nghị hai tổ chức đã được thiết lập,
đó là:
- Quỹ tiền tệ quốc tế (The International Monetary - IMF).
- Ngân hàng quốc tế nhằm mục đích tái thiết và phát triển (thường gọi là ngân
hàng thế giới - World Bank).
Và cũng từ đó, đồng tiền USD của Mỹ được các nước chấp nhận sử dụng trong
quan hệ thanh toán quốc tế và được IMF xác định tiêu chuẩn giá cả với 1 USD =
0,888671 gam vàng. Chính vì vậy mà đã hình thành tỷ giá cố định giữa USD với đồng
tiền các nước trong IMF. Để giữ vững tỷ giá cố định với USD, các nước trong IMF chỉ
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 22 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
được mua bán ngoại tệ theo tỷ giá trong phạm vi biên độ ± 1% so với tỷ giá chính
thức. Để giữ vững tỷ giá vàng IMF còn quy định giá vàng là 35 USD/ounce vàng. Như
vậy trong trường hợp nếu giá vàng trên thị trường vượt qua 35 ounce vàng thì Mỹ tung
vàng ra bán với giá 35USD/ounce vàng và ngược lại, khi giá vàng dưới 35 USD/ounce
vàng thì Mỹ tung USD ra và mua vàng về.
Với chế độ tiền tệ này, các nước đã duy trì được tỷ giá cố định trong thời gian
tương đối dài cho đến năm 1960. Bắt đầu từ sau năm 1960, nền kinh tế Tây Âu và
Nhật được phục hồi và có khả năng cạnh tranh với Mỹ, hơn nữa đồng USD của Mỹ đã
bị khủng hoảng và suy yếu, các nước dự trữ USD ngày càng nhiều, đã lần lượt tấn
công vào kho vàng của Mỹ, buộc Mỹ chuyển đổi USD ra vàng. Sau hai lần phá giá
USD hàm lượng vàng của 1 USD là 0.736662g vàng. Tình hình này làm cho kho dự

trữ vàng của Mỹ tụt xuống thấp nhất và chính thức ngày 13/02/1973 Mỹ đơn phương
tuyên bố chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ và hầu hết các nước tư bản đều thi hành
chính sách thả nổi của đồng tiền nước mình.
3-Tỷ giá hối đoái sau chế độ tiền tệ Bretton Woods:
Sau khi chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ đến nay, các nước trên thế giới
chủ yếu lưu thông tiền giấy không chuyển đổi ra vàng trong lưu thông, hàm lượng
vàng chỉ mang tính chất tượng trưng, giá trị tiền tệ luôn thay đổi, tỷ giá biến động
không ngừng nên việc xác định tỷ giá không dựa trên đồng giá vàng mà trên cơ sở so
sánh sức mua của hai đồng tiền, bao gồm sức mua trong nước và sức mua quốc tế gọi
là ngang giá sức mua.
Trên thực tế tỷ giá được hoàn toàn xác định do quan hệ cung cầu ngoại hối trên
thị trường, tại mỗi thời điểm nhất định ở mỗi thị trường khác nhau trên thế giới, tỷ giá
biến động liên lục trong ngày, còn gọi là cơ chế tỷ giá thả nổi.
Tuy nhiên để tránh sự biến động thăng trầm quá mức của tỷ giá gây ảnh hưởng
không tốt đến mọi hoạt động trong nền kinh tế như gây ra lạm phát hay suy thoái kinh
tế, cần thiết phải có sự can thiệp quản lý của nhà nước. Thông qua các công cụ quản lý
vĩ mô, nhà nước chủ động điều chỉnh TGHĐ theo hướng có lợi cho nền kinh tế đảm
bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển, còn gọi là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý.
V - SỰ CAN THIÊP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một
mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 23 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính
thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải có sự can
thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy định trong hoạt động can thiệp đó cần
phải chú ý một số vấn đề sau:
thường trực của các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
+ Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường
ngoại hối nói riêng, ngân hàng nhà nước cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức

năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị trường.
Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các chức năng
giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịc tăng tích luỹ
ngoại tệ theo mục tiêu. còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá
hối đoái trên thị trường.
+ Ngân hàng nhà nước phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng
cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành
viên trên thị trường. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng
thương mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có thể giới
hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện voí các ngân hàng thương mại và ngân
hàng nhà nước.
+ Ngân hàng nhà nước và các bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao
dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị
trường chính thức bằng cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được thực hiện trên
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do
của thị trường.
+ Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường
ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua bán
có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà nước, cơ
quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu ứng
dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dưỡng về bản
chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào đó nói chung khi
mới được đưa vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng như kỹ
thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
+ Việc can thiệp của ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều phối các quan hệ
cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang
tính kỹ thuật của thị trường.
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 24 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân
Đề án môn học: Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
+ Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân

hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không
ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và quan
trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn
chế về thanh toán qua nhiều :
trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ của chinhs các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng.
+ Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng
vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng năm,
hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực té bình quân của thị trường
ngoại tệ lieen ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ quan chức
năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đói lớn, vĩ mô của nền kinh tế.
+ Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống nhau,
điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một quốc gia
thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá
hối đoái đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là một vài phương
pháp phổ biến:
1- Phương pháp lãi suất chiết khấu:
Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị
rường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức "báo động" cần phải can
thiệp thì ngân hàng trungương nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu
tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. kết quả là vốn vay ngắn hạn trên
thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu
ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ giá hối đoái không có cơ hội để tăng nữa. Vào năm 1971 đến năm
1973 USD rơi vào khủng hoảng. Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã phải áp dụng những
biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất
cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách lãi
suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ
là quan hệ tác động qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả.
2- Các nghiệp vụ thị trường hối đoái:
Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một

trong những biện pháp rất quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua
của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái.
Đặng Thị Thu Hiền – 34K7.1 25 Giảng viên : TS. Nguyễn Hoà Nhân

×