Lợi thế so sánh và lợi
thế cạnh tranh
Tôi nhận được một số phản hồi từ bài
phỏng vấn GS Porter. Đa phần tỏ ra
không đồng ý với câu trả lời của ông về
khái niệm “cái bẫy trào lưu mậu dịch tự
do” và tỏ ý chờ đợi xem Báo cáo Năng
lực Cạnh tranh Việt Nam có đưa ra được
gì mới không.
Có một số bạn nhân đó hỏi vì sao có lúc
nói lợi thế so sánh, có lúc nói lợi thế
cạnh tranh. Về điểm này, tôi từng viết
một bài (bài “Đi tìm lợi thế cạnh tranh”
– đăng trên TTCT từ năm 2004 khi Việt
Nam chưa vào WTO).
Xin trích lại ở đây để lưu trên blog này
luôn thể:
Đi tìm lợi thế cạnh tranh
Trước những thất bại thấy rõ của
những chương trình như mía
đường, ximăng lò đứng , nhiều
người tự hỏi nên chăng chúng ta
chỉ làm những gì chúng ta có ưu
thế, còn lại thà nhập khẩu hơn là
sản xuất ra hàng hóa bán không
ai mua vì giá thành quá cao?
Vấn đề càng cấp bách khi VN
trước sau gì cũng gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới
(WTO) và phải gỡ bỏ hầu hết
mọi rào cản thương mại, đầu tư,
cân nhắc đầu tư vào đâu cho có
lợi nhất là một bài toán khó.
Câu hỏi này thật ra được thế
giới đặt ra từ lâu và lần hồi qua
chiêm nghiệm và kinh nghiệm
thực tiễn đã hình thành nên
những lý thuyết làm nền tảng cho
thương mại quốc tế. Đầu tiên, từ
thời Adam Smith đã nổi lên lý
thuyết lợi thế tuyệt đối, lập luận
đúng y như câu hỏi ở trên. Người
ta còn khẳng định nhờ chuyên
biệt hóa, mỗi nước sẽ hình thành
kinh nghiệm, tay nghề sẽ ngày
càng tinh xảo và nhờ thế sẽ cạnh
tranh dễ dàng với nước khác.
Lợi thế tuyệt đối của mỗi nước
sẽ được củng cố bằng lợi thế tự
nhiên như giàu tài nguyên thiên
nhiên, nhân công dồi dào, giá
rẻ cũng như những lợi thế có
được nhờ tiến bộ trong khoa học
kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để
bù đắp những thiếu hụt về tài
nguyên, chẳng hạn.
Nếu chỉ cân nhắc đến lợi thế
tuyệt đối như vậy, rõ ràng chúng
ta chỉ nên sản xuất và xuất khẩu
gạo, cà phê, tiêu, hạt điều mà
không nên tốn công sức thử gắng
tiến thêm một bước chế biến các
sản phẩm này để kiếm thêm tiền
nhờ giá trị gia tăng. Theo dòng
suy nghĩ này, chúng ta cũng
không nên tính đến chuyện xa
vời như sản xuất linh kiện máy vi
tính hay tivi vì người ta đã làm
giỏi hơn, rẻ hơn ta nhiều.
Sự đời không đơn giản như thế.
Xin lấy một ví dụ từ cuộc sống
bình thường để dễ hình dung.
Giả thử có ông bác sĩ tay nghề
chuyên môn giỏi mà công việc
quản lý sổ sách văn phòng cũng
giỏi luôn. Như thế ông này có
nên áp dụng lý thuyết lợi thế
tuyệt đối để tự mình làm hết mọi
chuyện, từ khám chữa bệnh đến
quản lý phòng khám? Chắc chắn
là không; ông ta sẽ thuê cô thư
ký để lo chuyện sổ sách mặc dù
cô này làm chậm hơn ông - để
ông tận dụng hết thời giờ khám
chữa bệnh, vừa cứu được nhiều
người vừa thu tiền nhiều hơn
chứ.
Với lập luận tương tự, David
Ricardo triển khai lý thuyết lợi
thế tuyệt đối thành lợi thế so
sánh, khi các nước phải nhường
bớt những công đoạn dù đang
chiếm lợi thế tuyệt đối cho nước
khác để tập trung làm những gì
đem lại lợi ích nhiều nhất cho
họ, để tận dụng tác động của chi
phí cơ hội. Giả thử trước nay
Singapore chuyên nhập hạt điều
của VN về chế biến để xuất khẩu
đi khắp thế giới vì họ có lợi thế
tuyệt đối hơn hẳn VN trong kỹ
thuật chế biến và quan hệ bạn
hàng, kinh nghiệm buôn bán
Nhưng bỗng chốc họ nhận ra để
đồng vốn đó, nhân công đó đi
chế biến món khác thì có lời hơn,
đầu tiên họ sẽ tìm cách đầu tư
vào VN để vẫn tiếp tục tận dụng
các lợi thế nói trên thêm một thời
gian nữa. Và có thể sau đó họ bỏ
hẳn thị trường cho các công ty
VN làm. Như vậy Singapore,
trong giả định này, vẫn có lợi thế
tuyệt đối so với VN nhưng VN
dần dần tạo ra lợi thế so sánh
hơn hẳn Singapore.
Đến đây chúng ta đã thấy sự
nhanh nhạy của giới kinh doanh,
đầu tư là làm sao nhận ra được
lợi thế so sánh của mình, chớp
thời cơ để vươn lên, vượt qua
mặc cảm thua thiệt “tuyệt đối”.
Điều này cũng giải thích nguyên
nhân của các dòng chảy vốn đầu
tư, như Cannon vào VN để sản
xuất máy in cho nhiều thị trường
khác; hay lý do đằng sau nhiều
dự án khác vì lợi thế cạnh tranh
tùy thuộc rất nhiều yếu tố, kể cả
có hay không rào cản thương
mại.
Tuy nhiên, lý thuyết lợi thế so
sánh xem chừng cũng chỉ gán
cho mỗi nước một công việc một
cách khiên cưỡng, trong cái gọi
là phân công lao động toàn cầu.
Không lẽ các nước không đóng
vai trò gì để cải thiện số phận đã
được phân công cho mình? Cho
dù toàn cầu hóa đã đạt đến qui
mô chưa từng có, vẫn còn đó
những rào cản rất lớn như khác
biệt văn hóa, cách trở địa lý,
quyền lợi dân tộc, nhất là sự lan
rộng của chủ nghĩa khủng bố và
nỗ lực chống khủng bố hiện nay.
Nhìn lại chính sách bảo hộ nông
nghiệp của nhiều nước, chúng ta
thấy ngay quyền lợi người dân
gắn liền với sinh mệnh chính trị
của các đảng phái làm cho lý
thuyết lợi thế so sánh không
phải lúc nào cũng đúng. Sản
xuất gạo ở Nhật đắt gấp chục lần
nhập khẩu gạo từ nước khác, thế
mà Chính phủ Nhật vẫn phải bỏ
tiền trợ cấp cho nông dân Nhật
trồng lúa và dùng thuế cao cản
trở hàng nhập khẩu. Tình hình
cũng tương tự trong sản xuất
đường ở châu Âu hay nhiều loại
nông sản khác ở Mỹ.
Nói vậy để thấy trong đàm phán
gia nhập WTO, chúng ta đòi hỏi
một lộ trình là để kéo dài và
nâng cao lợi thế so sánh của một
số ngành nghề trong nước trước
khi phải tháo dỡ hoàn toàn mọi
biện pháp bảo hộ, để doanh
nghiệp tự tạo lợi thế so sánh của
chính mình.
Thực tế phát triển kinh tế ở nhiều
nước đã giúp hình thành các lý
thuyết khác, mà gần đây nhất là
lý thuyết về lợi thế cạnh tranh
của Michael Porter. Để đạt được
lợi thế cạnh tranh, các nước và
doanh nghiệp phải chủ động
trong xây dựng các yếu tố, trong
đó có một yếu tố gần gũi với chủ
đề chúng ta đang đề cập – các
nền công nghiệp phụ trợ.
Từ việc nhận ra nhu cầu của thị
trường, trước tiên là thị trường
trong nước, kết hợp với các lợi
thế trong lao động, tài nguyên,
vốn liếng, kỹ thuật, một ngành
công nghiệp sẽ có lợi thế cạnh
tranh nếu có thêm những ngành
công nghiệp liên quan hỗ trợ.
Lợi thế cạnh tranh này càng
củng cố nếu được sự hỗ trợ của
chính quyền trong việc tháo bỏ
những rào cản hành chính, xây
dựng một môi trường kinh
doanh bình đẳng, tiên liệu được
để doanh nghiệp ngày càng hoàn
thiện mình qua cạnh tranh, nâng
cao năng suất tổng thể.
Dĩ nhiên, toàn cầu hóa đóng vai
trò quan trọng trong việc xác
định các yếu tố này; chẳng hạn,
nhu cầu thị trường không nhất
thiết đến từ trong nước mà từ
xuất khẩu, vốn hay công nghệ
vẫn có thể mua hay thu hút từ
nhà đầu tư nước ngoài và công
nghiệp phụ trợ phải hiểu trên qui
mô toàn khu vực hay toàn cầu –
linh kiện có thể nhập dễ dàng để
cung ứng cho sản xuất trong
nước. Các tập đoàn đa quốc gia
chọn nơi để làm căn cứ sản xuất
cho thị trường toàn cầu của họ
cũng dựa vào toan tính trên
những yếu tố cạnh tranh này.
Quay trở lại câu hỏi ở đầu bài,
câu trả lời không đơn giản như
chúng ta nghĩ – xác định đâu là
lợi thế so sánh của chúng ta,
chúng ta có thể làm gì để tạo lợi
thế cạnh tranh – là bài toán
doanh nghiệp nào cũng phải cân
nhắc trước khi bắt tay vào một
dự án nào đó cụ thể dựa vào
những yếu tố nói trên qua những
nghiên cứu thị trường bài bản.
Điều chúng ta có thể khẳng định
vai trò của Nhà nước trong quá
trình này là làm sao tạo mọi điều
kiện để doanh nghiệp, cả trong
và ngoài nước, tạo lợi thế cạnh
tranh cho họ. Chính sách của
Nhà nước sẽ phát ra tín hiệu cho
thị trường và thị trường, trong
nỗ lực tối ưu hóa nguồn lực của
mình trên bình diện quốc gia và
toàn cầu, sẽ nhanh chóng đáp
ứng – nếu tín hiệu tiêu cực,
không tạo ra lợi thế cạnh tranh,
nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền ra
hay chuyển đồng tiền của mình
đi nơi khác; còn nếu tín hiệu tích
cực, Nhà nước không cần kêu
gọi nhiều, người ta cũng sẽ
nhanh chóng lập dự án, tận dụng
thời cơ. Ngược lại, mọi nỗ lực
như đổ tiền thuế của người dân
vào dự án xây dựng công nghiệp
xe hơi nội địa như ở Malaysia
chỉ làm méo mó thị trường một
thời gian rồi kết thúc trong thất
bại.
Xét cho cùng, lợi thế cạnh tranh
sẽ không có ý nghĩa gì nếu chỉ
dựa vào việc tạo ra những ưu thế
giả tạo, chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn hay những ưu thế bất
lợi cho người dân như giá công
nhân rẻ hay tận dụng tài nguyên
bất kể hậu quả môi trường.
Nếu đọc bài trên, các bạn sẽ thấy câu hỏi
về “cái bẫy trào lưu mậu dịch tự do” chỉ
là một cách để GS Porter nói thêm về lý
thuyết “lợi thế cạnh tranh” của ông như
một giải pháp vượt ra “lời nguyền” lợi
thế so sánh.
Bởi lý thuyết lợi thế cạnh tranh cho rằng
một nước không thể cứ cạnh tranh mãi
dựa trên nguồn lao động rẻ, tài nguyên
dồi dào mà phải từng bước trèo lên các
bậc thang chuỗi giá trị, sản xuất hàng
ngày càng có chất lượng cao hơn để
hưởng phần lớn hơn. Động lực thúc đẩy
cho quá trình này là tăng năng suất, tận
dụng nguồn lực, tạo ra sự khác biệt để
từ đó hình thành lợi thế cạnh tranh về
giá hay về sự khác biệt. Và vai trò của
Nhà nước là làm bà đỡ cho quá trình
như thế được diễn ra một cách thuận
lợi nhất.
Chính vì thế một bạn đã nhận xét:
Tôi đọc bài phỏng vấn GS Porter
(cả bản tiếng Anh lẫn tiếng Việt)
và có cảm giác ông không hiểu
lắm câu hỏi thứ 2. Thật ra quan
điểm của GS Thọ về bẫy xu
hướng mậu dịch tự do hình như
đâu mâu thuẫn với lý thuyết lợi
thế cạnh tranh - chính vì "static
comparative advantage" dẫn tới
việc phụ thuộc vào xuất khẩu tài
nguyên nên mới cần "dynamic
comparative advantage" (ở đây
là những ngành có giá trị gia
tăng cao mà lý thuyết về lợi thế
cạnh tranh của GS Porter hình
như có đề cập đến).
Chắc do sợ GS Thọ kêu gọi VN
quay về thời kì bế quan tỏa cảng
(chắc là không!) nên GS Porter
mới gọi nó là "serious mistake",
chứ tôi thấy chuyện chuyển từ
"free trade" sang "managed
trade" là xu hướng chung rồi.
Đó cũng là lí do người ta chuyển
từ đồng thuận Washington
(Washington consensus, nhấn
mạnh đến tự do hóa tài chính,
thương mại, ) sang đồng thuận
Santiago (Santiago consensus,
không nhấn mạnh đến tự do
thương mại hay dân chủ, mà chú
trọng đến đầu tư nhân lực, giảm
nghèo, ).
Một nhận xét khác:
Tôi có cảm giác nhiều bài báo
kinh tế ở Việt Nam dùng "lợi thế
so sánh" với "lợi thế cạnh tranh"
khá tùy hứng, nên bản thân tôi
(vốn không hiểu rõ về lý thuyết
của GS Porter lắm) cũng thấy
bối rối khi đọc. Đôi khi tôi không
rõ khi nhà báo viết "lợi thế cạnh
tranh", họ đang dùng theo nghĩa
mà GS Porter nói hay chỉ xài
theo thói quen và trực giác (kiểu,
muốn thành công thì phải có lợi
thế, mà vì đây là nền kinh tế thị
trường nên mình gọi là "lợi thế
cạnh tranh", chứ cũng không
biết rõ "policy implications" của
cụm từ này).
Đôi khi tôi thắc mắc: ở VN,
những ngành thâm dụng lao
động giá rẻ là lợi thế so sánh, lợi
thế cạnh tranh, hay cả hai? Hai
cụm từ này khác nhau và giống
nhau ra sao?
Vì thế mới có entry này.
Đáng tiếc là thực tế ở Việt Nam mấy
năm qua, từ khi gia nhập WTO, không
những không tạo ra cho mình lợi thế
cạnh tranh mà còn để mất nhiều lợi thế
so sánh khác hay không tạo ra cho mình
lợi thế so sánh mới. Việc phải nhập khẩu
cả tăm tre, rồi các doanh nghiệp nước
ngoài như Sony, từ bỏ định hướng sản
xuất chuyển sang làm công ty thương
mại nhập hàng vào Việt Nam để bán
(ngay cả Coca-Cola cũng nhập nước giải
khát vào bán vì lãi nhiều hơn) cho thấy
điều đó. Hệ quả là nhập siêu ngày càng
lớn. Đó chính là cái bẫy của trào lưu
mậu dịch tự do khi các lợi thế so sánh
của Việt Nam bị cố định hóa, số phận
gia công đã bị an bày.