Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.13 KB, 3 trang )
Phân bố và phương thức sống động vật
thân mềm
Các loài động vật thân mềm phân bố rộng khắp trên trái
đất: Môi trường nước, cạn và môi trường hỗn hợp (vừa
ngập vừa cạn), đâu đâu cũng có. Chúng ta có thể chia sự
phân bố của chúng thành 2 loại hình. Phân bố địa lý và
phân bố thẳng đứng.
Phân bố địa lý (phân bố theo kinh độ, vĩ độ) còn gọi là
phân bố theo mặt ngang. Điều kiện quyết định sự phân bố
này là nhiệt độ và độ muối. Loài nào mà thích ứng rộng với
hai điều kiện nhày thì phân bố rộng, có khi ở Hầu hết các
nơi trên thế giới, thí dụ như hà đục thuyền Teredo navalis.
Loài có tính thích ứng hẹp thì diện phân bố cũng hẹp, thí dụ
như ốc tai tượng Tridacna chỉ có ở vùng biển nhiệt đới.
Nước ta nằm trong vùng biển nhiệt đới nên rất giàu về
chủng loại sinh vật nói chung và động vật thân mềm nói
riêng. Theo Jorgen & Richard 2003 vùng biển Việt Nam có
khoảng 2200 loài thuộc 700 giống và 200 họ, trong đó có
nhiều loài có giá trị kinh tế và là đối tượng nuôi tốt. Chúng
thường phân bố suốt dọc bờ biển nước ta từ Bắc chí Nam
như Hầu sông, Bào Ngư, Vẹm, Sò, Ngao, Nghêu.
Ngoài phân bố theo mặt ngang thì động vật thân mềm còn
phân bố thẳng dứng, phạm vi phân bố của chúng rất lớn, có
thể từ độ cao 5.500 m cho tới đáy biển sâu trên 5000 m.
Đối với các loài hai mảnh vỏ và chân bụng nuôi thì phân bố
thẳng đứng của nó thường nhỏ chỉ trong vòng 20 m trở lại,
nhưng quy luật phân bố của chúng rất chặt chẽ, dù chỉ thay
đổi 1-2 m đã có thể ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của
chúng. Thí dụ Phi, Ngao, sống ở vùng trung triều trở
xuống, nếu đưa lên vùng cao triều chúng không thể sống
được. Hầu sông có thể sống từ tuyến triều cao tới độ sâu 10