Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận “Gia nhập ASEAN năm 1995- Một đích đến thành công trên con đường đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.74 KB, 19 trang )

TRƯỜNG……………………………
KHOA………………………….
TIỂU LUẬN
Gia nhập ASEAN năm 1995- Một đích
đến thành công trên con đường đổi mới
tư duy đối ngoại của Việt Nam

ỤC LỤC

!"#$%&'(()*'+,-%*
+./0
123#'4"5$%0
3**/$0
6,/5789/:;)
112<#:='>?@/$%A
7A
<#:=(
$B#'C"-D/;E;D/#!F9G3H
$%&'((09$%I&'(()8<=9JK/L
M'+&'NB;D/C<O=8J/P,Q7B#'C%R?9P
;38S%;T@"=8UV'+4/=;D/;W";SL
,+"?@//PV89IKM7@9J5''+7
+K/N!8XJ8#$%9J%R*9D/R7;@
#/P,Q;VY'+&'=Z=%R*D/R7R'+D/;W;59
F&'(A[;6JS%;;"/4\*6,/4]
5"'+<5'-%VR<C-,^M/F*Y/8K
R*6,^;@3**/$8:?_6^
1112ZK$%9Q4"B#'`"

a$%*'+,74"B#'
TE9QK4""[


bc/$d
e
Lời mở đầu
Bước ra khỏi những cuộc chiến tranh, Việt Nam đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách
thức. Những thay đổi của thời cuộc, những biến động trong và ngoài nước đặt ra một bài toán
khó: làm thế nào để vượt qua và đưa đất nước tiến lên? Mười năm sau thống nhất, đất nước ta rơi
vào khủng hoảng đường lối. Chúng ta thực sự lúng túng trong việc quyết định nên đi hướng nào,
làm cách nào để phát triển đất nước theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm
1986, với nghị quyết Đại hội VI (12/1986), Đảng, Nhà nước ta quyết định đưa đất nước bước
vào thời kì đổi mới toàn diện để phát triển kinh tế, ổn định tình hình và tăng cường hội nhập với
quốc tế.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện ấy, ngành đối ngoại đã có những đóng góp quan trọng,
thể hiện bước phát triển trong nhận thức và tư duy đối ngoại của chúng ta. Đổi mới tư duy đối
ngoại là đổi mới nhận thức, cách tiếp cận, nhìn nhận về tình hình thế giới, khu vực, trong nước,
về quan hệ quốc tế cũng như thay đổi trong quan niệm về các vấn đề liên hệ đến lợi ích quốc gia,
dân tộc…. và cách xác định mục tiêu, chiến lược, hoạch định chính sách. Đây là yếu tố có vai trò
quyết định trong đổi mới cũng như triển khai những đường lối, chính sách. Quá trình này diễn ra
từ 1986 và thu được nhiều thành tựu nổi bật nhưng trong bài tiểu luận này chúng tôi chỉ xin lý
giải tại sao việc Việt Nam đổi mới chính sách đối ngoại với ASEAN để thúc đẩy tiến trình gia
nhập vào cộng đồng này vào năm 1995 là hợp lý. Mặc dù có một số ý kiến cho rằng việc gia
nhập ASEAN lúc ấy của chúng ta có sự vội vã, bài tiểu luận, trên cơ sở nghiên cứu theo phương
pháp kết hợp logic và lịch sử xin đưa ra những dẫn chứng khẳng định đây là một bước đi đúng,
thích hơp. Trên cơ sở đó, bài tiểu luận sẽ trả lời cho 2 câu hỏi nghiên cứu sau:
Cở sở nào đưa chúng ta đến thay đổi chính sách với ASEAN?
Tại sao việc gia nhập ASEAN năm 1995 là một bước đi hợp lí?
Quan hệ quốc tế vốn như một bàn cờ và những nhà hoạch định chính sách phải là những
người biết tính toán không chỉ nước đi của mình mà còn của cả đối phương. Trong suốt chặng
đường đổi mới chính sách đến khi gia nhập ASEAN, ngành đối ngoại chúng ta đã tính toán ra
sao? Bài tiểu luận “Gia nhập ASEAN năm 1995- Một đích đến thành công trên con đường đổi
mới tư duy đối ngoại của Việt Nam” sẽ lí giải một phần nào những tính toán của ta và mạnh dạn

đưa ra một số ý kiến đánh giá về tính đúng đắn, hiệu quả của bước đi ấy cũng như từ đó đưa ra
kiến nghị cho chính sách đối ngoại với tổ chức này trong những giai đoạn sau.
Do những hạn chế trong việc tìm kiếm tài liệu và khả năng tổng hợp, phân tích tình hình
nên bài tiểu luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá,
nhận xét từ phía giảng viên bộ môn chính sách đối ngoại để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn.

Nội dung
I/ Cơ sở đưa đến việc đổi mới chính sách đối ngoại để gia nhập
ASEAN
Cơ sở lí luận
Trong bất cứ lĩnh vực nào, để đi đến đích đúng hướng chúng ta đều cần có một cơ
sở lí luận vững chắc và linh hoạt. Nắm vững điều đó, ngành đối ngoại đã không ngừng
vận dụng những cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng
như những lí thuyết khác trong việc đổi mới tư duy đối ngoại nói chung, đổi mới chính
sách đối ngoại với ASEAN nói riêng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam cho mọi hành
động. Hệ thống tư tưởng này trở thành một định hướng quan trọng trong việc thay đổi
cách nhìn nhận, đánh giá tình hình thế giới, khu vực cũng như trong nước của chúng ta.
Với hệ thống thế giới quan, phương pháp luận khách quan, logic và biện chứng, chủ nghĩa
Mác- Lênin mang đến cho chúng ta những nhận thức quan trọng để đi đến việc hoạch định
chính sách đúng đắn hơn. Theo đó, chúng ta nắm vững lí luận về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Với mỗi quốc gia, khi hoạch định chính sách đối ngoại đều phải biết lựa chọn ưu tiên mục
tiêu nào: an ninh, phát triển hay ảnh hưởng. Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
giúp chúng ta có được cái nhìn sang suốt để từ đó chuyển từ mục tiêu an ninh sang ưu tiên
phát triển để hội nhập quốc tế.
Bên cạnh việc tiếp thu tư tưởng về lợi ích quốc gia, mục tiêu dân tộc, ngành đối
ngoại còn nắm vững lí luận về hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Có thể nói nhờ
cơ sở lí luận này mà chúng ta đã mạnh dạn hơn trong việc hội nhập với ASEAN cũng như
tiến tới thiết lập và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với các nước. Bởi như bộ trưởng

Ngoại giao Anh đã nói: “Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù
vĩnh viễn. Chúng ta chỉ có lợi ích vĩnh viễn mà chúng ta cần phải theo đuổi.”
Trước những biến chuyển phức tạp của tình hình, hơn lúc nào hết, tư tưởng Ngoại
giao sáng suốt, linh hoạt và nhạy bén của chủ tịch Hồ Chí Minh giúp chúng ta có được
bước đi đúng đắn trong hoạch định chính sách đối ngoại. Nhà Ngoại giao lỗi lạc- Hồ chủ
tịch đã dạy chúng ta rằng :’Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Tư tưởng ngoại giao mềm dẻo ấy
chính là cơ sở lí thuyết quan trọng để chúng ta đưa ra những thay đổi cần thiết trên con
đường đổi mới. Giữ vững mục tiêu, lợi ích dân tộc- điều bất biến, và thay đổi chính sách
0
với các đối tượng cụ thể. ASEAN là một trường hợp điển hình trong việc vận dụng lí
thuyết này. Chúng ta đẩy mạnh tiến trình gia nhập vào tổ chức này, gạt bỏ những “ngờ
vực” trên cơ sở nhận thức về sự thay đổi hoàn cảnh và mục tiêu đất nước. Không những
thế, những lí luận về đoàn kết và hợp tác quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; quan hệ đối ngoại rộng mở, cùng có lợi, làm bạn với mọi nước dân chủ, không
thù oán với một ai và quan tâm xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu bền với
các nước láng giềng… đã tạo nên một nền tảng nhận thức chắc chắn để chúng ta tự tin
bước đi trên con đường đổi mới và thiết lập quan hệ với ASEAN.
Trước muôn vàn thay đổi của thời cuộc, những cơ hội và thách thức mới trong quan
hệ quốc tế, vạch ra một chính sách đối ngoại phù hợp, đúng đắn là một bài toán đầy hóc
búa đòi hỏi những người làm công tác đổi ngoại phải sang suốt, nhạy bén trong nắm bắt
tình hình. Hệ thống chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những bài học
của cha ông, của ngành đối ngoại thế giới đã cho chúng ta một cơ sở lí luận có thể nói là
vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh con đường đổi mới, gia nhập ASEAN. Hệ thống lí luận
này, cùng với thực tiễn thời cuộc lúc bấy giờ sẽ tạo nên cơ sở tin cậy để ta khẳng định việc
gia nhập ASEAN là một hướng đi đúng đắn và phù hợp với những tính toán của ta.
Những biến chuyển của thế giới, khu vực và trong nước.
Vào những thập niên cuối của thế kỉ XX, trên thế giới đã xảy ra nhiều sự kiện làm
thay đổi cơ bản cục diện chính trị, kinh tế trên thế giới và tác động đến hầu hết các quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Đây chính là thách thức lớn đòi hỏi các nước phải có sự thay
đổi phù hợp để tìm kiếm những cơ hội phát triển và hội nhập toàn cầu. Nhận thức rõ

những diễn biến này là cơ sở quan trọng cho việc Việt Nam thay đổi chính sách đối ngoại,
thúc đẩy tiến trình gia nhập ASEAN.
Tình hình quốc tế giai đoạn này có sự chuyển biến trên hai phương diện. Thứ nhất,
về mặt chính trị quốc tế, sau những dấu hiệu hòa dịu, những cam kết và tuyên bố của lãnh
đạo hai phía Mỹ và Liên Xô, chiến tranh lạnh chính thức chấm dứt vào năm 1991cùng với
sự kiện Liên Xô sụp đổ đã đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với tình hình thế giới. Trật tự
hai cực Xô – Mỹ tan rã, quan hệ quốc tế chuyển dần từng bước từ đối đầu sang đối thoại,
làm nảy sinh xu thế mới trên thế giới: toàn cầu hóa, đa dạng hóa, đa phương hóa,… theo
hướng linh hoạt. Hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển đang ngày càng trở thành
những đòi hỏi cấp thiết của các quốc gia. Sự thay đổi này có tác động lớn tới so sánh lực
lượng trên thế giới. Nếu như trong chiến tranh lạnh, hai hệ thống chính trị-xã hội là tương
)
đối cân bằng thì giờ đã chuyển sang hướng có lợi cho Mỹ và các nước tư bản phát triển
như Anh, Đức, Pháp…, và bất lợi cho phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới. Ngoài
ra, một yếu tố nữa tác động đến vấn đề so sánh lực lượng chính là sự trỗi dậy mạnh mẽ của
Trung Quốc cùng một số quốc gia khác ở châu Á, Mỹ Latinh. Và đây chắc chắn sẽ là một
thách thức mới đối với Mỹ.
Thứ hai là về sự chuyển biến của kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa về kinh tế chiếm giữ
vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia, kinh tế được ưu tiên phát triển và trở
thành chủ đề chính trong trong quan hệ quốc tế hiện nay. Trong thời kì chiến tranh lạnh,
các nước chịu sự chi phối của cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông-Tây. Sức mạnh
quân sự và chính trị là những nhân tố chủ yếu bảo đảm vị trí siêu cường cho một quốc gia.
Nhưng giờ đây, thế giới đã là đa cực với xu thế chủ đạo là hòa hoãn. Thay cho chạy đua vũ
trang, các nước lấy việc phát triển kinh tế lên làm nhiệm vụ hàng đầu. Song song với đó là
ổn định chính trị-xã hội, củng cố sức mạnh quốc gia, đồng thời mở rộng đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ và trở thành
phổ biến. Xu hướng này bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính. Một là, cuộc chạy đua và
cạnh tranh kinh tế gay gắt mang tính toàn cầu hóa cũng như từ sự tập hợp lực lượng trong
quá trình hình thành trật tự thế giới mới thời kì hậu chiến tranh lạnh buộc các quốc gia

phải tăng cường tìm kiếm quan hệ. Hai là, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ mang đến nhiều cơ hội cũng như những thách thức mới mà không một quốc gia đơn
lẻ nào có thể tự mình giải quyết đươc. Các nước có nền công nghiệp phát triển, các trung
tâm kinh tế tư bản có được lợi thế nhiều hơn. Vì vậy. các nước vừa và nhỏ buộc phải liên
kết với nhau để có thể đối phó với sức ép từ các trung tâm kinh tế thế giới. Và Việt Nam
cũng không thể nằm ngoài xu hướng này. Là một nước Nông nghiệp, lại từng trải qua bao
cuộc kháng chiến gian khổ, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế
lẫn thiết lập quan hệ với các quốc gia. Nếu chúng ta không chủ động liên kết với các nước
lân cận, trong khu vực thì chắc chắn chúng ta sẽ khó có thể đứng vững trước những thay
đổi của thế giới. Đây chính là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời và lớn mạnh của ASEAN
cũng như việc Việt Nam gia nhập tổ chức này.
Sự tan rã của hệ thống hai cực đã có ảnh hưởng rất lớn đến nước ta. Việc Liên Xô
sụp đổ cũng như sự suy yếu của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm lung lay ý chí, tinh thần
cũng như mất chỗ dựa về vật chất của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và
nhân dân Việt Nam nói riêng. Từ chỗ nhận sự giúp đỡ của Liên Xô để khắc phục hậu quả
sau chiến tranh, Việt Nam không còn nhận được mọi viện trợ về hàng hóa, lương thực thiết
[
yếu, sự bảo đảm về an ninh từ phía Liên Xô. Liệu điều này có ảnh hưởng tích cực hay tiêu
cực đến nước ta? Ngừng viện trợ - điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn để vực dậy nền kinh tế nghèo nàn, khó khăn, thiếu thốn sau chiến
tranh. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc từ đây, đất nước Việt Nam đứng trước
những yêu cầu cấp thiết phải có đường lối, chính sách đối ngoại phù hợp để thích ứng với
tình hình mới, từng bước độc lập, chủ động hơn về kinh tế, chính trị, tự đứng trên đôi chân
của mình, có tiếng nói riêng trước thế giới mà không cần núp dưới bóng một thế lực hùng
mạnh nào khác. Đồng thời, xu thế toàn cầu hóa, đa phương hóa, đa dạng hóa cũng góp
phần tăng cường quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới, xóa bỏ nghi kỵ,
hiềm khích để xích lại, xây dựng khối kinh tế, chính trị vững mạnh, cùng giúp nhau giải
quyết các vấn đề quốc tế trong môi trường hòa bình.
Về tình hình khu vực, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương , nhất là khu vực Đông
Nam Á, từ cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 đã là một khu vực phát triển kinh tế năng động.

Nhóm các nước NICs và ASEAN luôn giữ được tỉ lệ tăng trưởng. Chính phủ các nước cam
kết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập hợp
tác kinh tế. Đối với khu vực Đông Nam Á, việc giải quyết vấn đề Campuchia chính là chìa
khóa để đạt được cam kết trên. Trước đây, mặc dù ta đã đưa ra chính sách bốn điểm bình
thường hóa quan hệ với các nước ASEAN, tuy nhiên cả hai bên vẫn còn dè dặt trong mối
quan hệ này. Đặc biệt, khi ta đưa quân vào Campuchia lật đổ chế độ Pol pot, họ đã chuyển
sang đối đầu quyết liệt với ta. Sự đối đầu này đến năm 1991, khi ta rút hết quân và kí hiệp
định Paris về Campuchia, mới chấm dứt. Quan hệ giữa các nước Đông Dương và ASEAN
mới chuyển sang một giai đoạn mới.
Về tình hình trong nước, việc Liên Xô tan rã và phe Xã hội chủ nghĩa sụp đổ trên
phạm vi toàn thế giới đã tác động đến Việt Nam: mất thành trì xã hội chủ nghĩa, mất
nguồn viện trợ kinh tế và bảo đảm an ninh. Giai đoạn này chúng ta đang bị bao vây cô lập
về chính trị, cấm vận về kinh tế. Mô hình kinh tế được xây dựng trong thời chiến không
còn phù hợp với tình hình mới, bộc lộ những yếu kém, dẫn đến tình trạng kinh tế trì trệ,
lạm phát cao. Đời sống nhân dân gặp phải khó khăn, tiêu cực xã hội và nạn tham nhũng
ngày một tăng. Đất nước ta đang đứng bên bờ khủng hoảng kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó,
mâu thuẫn vốn có với ASEAN sẽ là một khó khăn lớn cho nước ta so với tình hình chung
của thế giới. Việc xóa bỏ nghi kỵ với các nước ASEAN sẽ giúp Việt Nam dễ dàng hơn
trên con đường hội nhập vào các tổ chức quốc tế. Trước bối cảnh thế giới và trong nước
như vậy, việc tìm ra những giải pháp, những tư duy đối ngoại đúng đắn để thoát ra cuộc
khủng hoảng là một việc làm cấp bách.
d
Nhận thức rõ tình hình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã họp để kiểm
điểm về những sai lầm khuyết điểm và tìm nguyên nhân, biện pháp khắc phục. Theo tinh
thần đó chúng ta tiến hành đổi mới một cách toàn diện, mở cửa để tăng cường hợp tác kinh
tế và xóa thế bị bao vây, cô lập. Đời sống nhân dân bắt đầu có những biến chuyển nhưng
chúng ta vẫn thực sự lúng túng trong việc xác định hướng đi của mình trên bàn cờ quan hệ
quốc tế. Cho đến những kì đại hội sau, chúng ta dần định hướng rõ hơn lối đi của mình để
có những bước tiến đúng đắn mà gia nhập ASEAN là một minh chứng cụ thể.
Như vậy, trên nền tảng tư tưởng, lí luận sắc bén, linh hoạt và đối diện với một thực

tiễn thế giới đầy biến động, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã sang suốt lựa chọn hướng đi
cho mình. Có thể nói một lí luận xác đáng kết hợp với nhận thức nhạy bén trước thời cuộc,
quan hệ quốc tế đã giúp cho chúng ta khẳng định được việc gia nhập ASEAN là hết sức
cần thiết cho sự phát triển của nước nhà.
II/ Con đường hiện thực hóa mục tiêu gia nhập ASEAN
Bên cạnh cơ sở vững vàng cả về lý luận và thực tiễn, quá trịnh định ra chủ trương,
đường lối và hiện thực hóa đường lối ấy cũng là một lý do để có thể khẳng định việc gia
nhập ASEAN của ta không phải một bước đi vội vàng.
Chính sách của ta
Trong giai đoạn 1986-1991, VN đã tiến hành đổi mới tư duy đối ngoại, tức là đổi
mới nhận thức, cách tiếp cận, đánh giá tình hình thế giới cũng như thay đổi cách hoạch
định đường lối…Cùng với đó, ta đã có những chính sách đối ngoại mới đối với cộng đồng
quốc tế nói chung và ASEAN nói riêng.
Trước đó, trong giai đoạn 1979 – 1985, trong chính sách đối với Đông Nam Á, ta
vẫn còn nhiều nghi ngờ, đặt quá cao ý thức hệ. Đến tháng 7/1986, trong Nghị quyết 32 của
Bộ Chính trị khóa V – văn kiện đầu tiên đánh dấu quá trình đổi mới tư duy đối ngoại, Việt
Nam đã khẳng định rằng, chủ trương của chúng ta chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu
tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Chủ trương này phù hợp với tình hình thế giới cũng như
các xu thế của quan hệ quốc tế bấy giờ.
Tiếp đó, đến Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam đã nhấn mạnh đến việc góp
phần gìn giữ, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác (đặc biệt là
A
việc sẵn sàng hợp tác với các bên để giải quyết vấn đề Campuchia). Chính sách này không
chỉ giúp ích cho ngoại giao nước nhà mà còn đem lại những thuận lợi để phát triển kinh tế.
Vào ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị đề ra Nghị quyết 13, thay thế chủ trương tăng
cường liên minh ba nước Đông Dương làm đối trọng với ASEAN. Bên cạnh đó, Nghị
quyết cũng xác định lợi ích quốc gia là củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây
dựng, phát triển kinh tế. Theo đó, vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước được đề
cao như một nhân tố quan trọng đối với lợi ích quốc gia này. Hội nghị Trung ương 6, khóa
VI (tháng 3/1989) cũng tiếp nối tinh thần đó, chuyển mạnh hoạt động đối ngoại sang phục

vụ kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) là một bước chuyển mình quan trọng trong đường
lối đối ngoại. Đại hội đã xác định việc mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác là một trong
những nhiệm vụ bao trùm trong thời gian tới. Sau khi Liên Xô tan rã, Hội nghị Trung ương
lần thứ 3 khóa VII (tháng 6/1992) đã xác định ra bốn phương châm trong hoạt động đối
ngoại, trong đó việc đa dạng hóa, và mở rộng quan hệ về nhiều mặt, tham gia hợp tác khu
vực được coi trọng. Đến Hội nghị đại biển toàn quốc giữa nhiệm kị khóa VII (tháng
1/1994), Việt Nam đã khẳng định rằng chúng ta muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Con đường hiện thực hóa chính sách
Từ phương hướng, chính sách đến thực tế luôn là còn đường không mấy dễ dàng.
Có những chính sách đúng nhưng quá trình triển khai lại đi lệch hướng, đem lại kết quả
không như ý muốn. Vì thế, việc xác định nên làm gì vào thời điểm nào, bằng cách nào là
rất quan trọng. Vậy trong giai đoạn 1986-1991, nước ta đã đưa những đổi mới tư duy đối
ngoại vào thực tiễn để phục vụ cho các phương hướng, chính sách đã đề ra như thế nào?
Giai đoạn từ 1986 đến 1991 được coi là giai đoạn khai thông quan hệ với các nước
ASEAN.
Trước đó, quan hệ hai bên đã gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là vấn đề Campuchia.
ASEAN lên tiếng đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, ủng hộ chính phủ Pol Pot tại
Liên Hiệp Quốc . Do vậy, để có thể hiện thực hóa chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối
thoại, trong giai đoạn này, Việt Nam đã đẩy nhanh quá trình giải quyết vấn đề Campuchia.
Về giải pháp quân sự, theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội VI 1986, ta đã tiếp tục rút
quân tình nguyện khỏi Campuchia. Đến ngày 26/9/1989, Việt Nam đã hoàn thành quá
trình này. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tính đến giải pháp chính trị. Trong Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ba nước Đông Dương lần thứ 12 và 13 (1986), ta đã cố gắng thúc đẩy
(
sự hợp tác của ba nước, nêu rõ hai mặt nội bộ và quốc tế của vấn đề: các bên Campuchia
tự giải quyết nội bộ, không có sự can thiệp từ bên ngoài; thỏa thuận rút quân tình nguyện
đi kèm chấm dứt viện trợ Sau đó, Việt Nam cũng tham gia đóng góp trong Hội nghị
không chính thức về vấn đề Campuchia (JIM – Jakarta Informal Meeting) tại Jakarta cùng

với bốn bên Campuchia và bảy nước Đông Nam Á khác từ ngày 25 đến 28/7/1988 (JIM-1)
và từ mùng 8 đến 11/2/1989 (JIM-2), Hội nghị Paris về Campuchia từ ngày 30/7 đến
30/8/1989. Và đến ngày 23/10/1991, các văn kiện về giải pháp chính trị đã được kí kết đầy
đủ. Giải quyết được vấn đề Campuchia chính là một bước để tiếp cận gần hơn với các
nước ASEAN.
Bên cạnh việc giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã có nhiều tuyên bố hướng
tới cộng đồng ASEAN, khẳng định chính sách của mình. Tháng 1/1989, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố rằng Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với
các nước ASEAN tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo Châu Á – Thái Bình Dương. Sau đó,
Việt Nam cũng tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác của ASEAN
(Hiệp ước Bali) ngay tại JIM-2.
Cũng trên tinh thần đối thoại, cùng tồn tại hòa bình, xây dựng khu vực hòa bình ổn
định, Việt Nam đã tăng cường trao đổi, gặp gỡ với các nước ASEAN. Vào tháng 7/1987,
cuộc đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và Indonesia đã diễn ra. Ta đã mời ngoại trưởng
Indonesia Mochtar Kusumaatmadja tới thành phố Hồ Chí Minh, tham gia ký kết Thông
cáo chung Việt Nam – Indonesia, khai thông quan hệ song phương giữa hai nước. Với
Thái Lan, để giảm căng thẳng sau xung đột từ năm 1982 giữa hai nước, ta đã tiến hành rút
quân ra xa khỏi biên giới Thái từ 26/5/1988. Sau đó, Thủ tướng Võ Văn Kiệt có chuyến
thăm chính thức tới Thái Lan vào năm 1991. Trong cùng năm đó, vào tháng 11, Thủ
tướng cũng đi thăm Singapore.
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1991, nước ta đã đạt được nhiều kết quả tốt trong
quan hệ đối ngoại, đặc biệt là đã bước đầu đặt nền tảng cho quan hệ Việt Nam – ASEAN.
Tới giai đoạn 1992 đến 1995, vẫn dựa trên tinh thần đổi mới, Việt Nam đã hình thành rõ
nét hơn đường lối đối ngoại tự chủ kết hợp với đa dạng hóa, đa phương hóa. Quan hệ Việt
Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh theo đúng tinh thần đường lối ấy.
Bước triển khai đầu tiên là lãnh đạo nước ta đã đi thăm lần lượt các nước thành viên
ASEAN để xúc tiến quan hệ song phương. Sau khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm
Indonesia, Thái Lan và Singapore, ông đã đi thăm Malaysia, Brunei và Phillipines vào
năm 1992, thiết lập quan hệ ngoại giao với Brunei vào 29/2/1992. Các chuyến viếng thăm
của lãnh đạo các cấp Việt Nam cũng diễn ra dồn dập hơn: Tổng bí thư Đỗ Mười đã đến

f
Malaysia vào tháng 3/1994. Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh và Phó Thủ tướng Trần
Đức Lương lần lượt thăm Phillipnes vào tháng 5 và tháng 12 năm 1993. Tháng 10 năm
1992, Phó Thủ tướng (bấy giờ) Phan Văn Khải cũng đi thăm và làm việc tại
Singapore….Trong các chuyến viếng thăm này, chúng ta cũng đã từng bước giải quyết
những vấn đề còn tồn tại như vấn đề khai thác vùng chồng lấn và hồi hương cho người di
tản với Malaysia, nhập quốc tịch cho Việt kiều với Thái Lan, đàm phán về thềm lục địa
với Indonesia…
Bên cạnh các chuyến thăm tới các nước thành viên ASEAN, Việt Nam cũng đã ký
rất nhiều hiệp định với các nước này. Các hiệp định bao quát nhiều lĩnh vực như: Hiệp
định về hàng không với Brunei (8/11/1991), Indonesia (25/10/1991) ; Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư với Indonesia (25/10/1991), Malaysia (21/01/1992), Singapore
(29/10/1992) ; Hiệp định hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật Malaysia (20/4/1992)…;
Hiệp định hợp tác về du lịch với Malaysia (13/4/1994), Singapore (26/8/1994); Hiệp định
về tránh đánh thuế hai lần với Singapore (02/3/1994)…; Hiệp định về hợp tác văn hóa với
Malaysia (1995)…Việc VN kí kết những hiệp định này đã góp phần gia tăng hiểu biết, tin
cậy giữa các nước, đồng thời phát triển hợp tác song phương nhiều mặt.
Và bước đi quan trọng nhất của Việt Nam trong giai đoạn này là việc triển khai
chính sách để gia nhập ASEAN. Chúng ta đã đi từng bước vững chắc, ban đầu là khai
thông quan hệ với ASEAN, dần dần đẩy mạnh hữu nghị hợp tác về sau. Đó chính là nền
tảng chuẩn bị để đến thời điểm này, quá trình gia nhập ASEAN được đẩy mạnh.
Trước tiên, ta đã lên kế hoạch tham gia Hiệp ước Bali. Vấn đề tham gia Hiệp ước
cũng đã được Bộ Ngoại giao bàn bạc, chuẩn bị từ lâu, bao gồm các công tác nghiên cứu
lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN, triển khai thư tham gia Hiệp ước, các vấn đề
thủ tục…Sau đó, Ban bí thư Trung ương Đảng đã đồng ý việc Việt Nam ký Hiệp ước Bali.
Vấn đề này cũng được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ ba khóa VII năm 1992. Vào ngày 20/5/1992, Bộ trưởng Ngoại giao (bấy
giờ) Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư tới ASEAN, bày tỏ mong muốn trở thành quan sát
viên ASEAN sau khi kí Hiệp ước Bali. Cuối cùng, Việt Nam đã chính thức trở tham gia
Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

các nước ASEAN (AMM) lần thứ 25 ngày 22/7/1992.
Với tư cách là quan sát viên ASEAN, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương
trình của ASEAN, điển hình là AMM lần thứ 26 tại Singapore (7/1993), chương trình và
dự án hợp tác ASEAN trên năm lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá-
thông tin, phát triển xã hội. Bên cạnh đó, ta đã tham gia , đồng thời đồng sáng lập Diễn

đàn khu vực ASEAN (ARF) – diễn đàn về vấn đề an ninh chính trị khu vực chính thức
khai mạc ngày 25/7/1994. Cũng trong tháng 7 cùng năm, ta đã tham gia AMM lần thứ 27
tại Thái Lan. Vào tháng 9/1994, Việt Nam đã dự Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần
đầu tiên…Trong quá trình tham gia các chương trình này, ta cũng chủ động tìm kiếm
thông tin (về thủ tục, cơ chế hoạt động, tình hình hợp tác của các nước…) để phục vụ cho
việc gia nhập ASEAN.
Không chỉ tham gia các chương trình, ta còn đưa ra nhiều tuyên bố tới cộng đồng
ASEAN. Đáng chú ý là tuyên bố vào tháng 2/1993, theo đó, Việt Nam sẵn sàng tham gia
ASEAN. Vào tháng 10 cùng năm, Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng tuyên bố chính sách bốn
điểm mới của Việt Nam về quan hệ với ASEAN, khẳng định rằng Việt Nam sẽ tăng cường
quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với ASEAN, đồng thời bày
tỏ mong muốn gia nhập ASEAN vào thời điểm thích hợp. Những tuyên bố này đã nhận
được sự phản hồi tốt từ phía ASEAN.
Sau quá trình nghiên cứu, Việt Nam đã đi đến quyết định gia nhập ASEAN vào năm
1995. Ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư tới Bộ trưởng Ngoại
giao Brunei – Chủ tịch đương nhiệm của Ủy ban thường trực ASEAN, chính thức nêu vấn
đề gia nhập này. Trong khoảng thời gian tiếp theo, ta đã gấp rút hoàn thành những bước đi
cuối cùng: thành lập các cơ quan hợp tác ASEAN (như Vụ ASEAN Bộ Ngoại giao, Ủy
ban Quốc gia về ASEAN…), đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực và trình độ ngoại ngữ,
chuẩn bị về thủ tục, cử đoàn đại biểu đi thăm các nước thành viên và Ban thư kí
ASEAN…Cuối cùng, vào ngày 28/7/1995, tại AMM lần thứ 28 tại Brunei, Việt Nam đã
chính thức trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN. Theo đó, ta cũng gia nhập Khu vực
Mậu dich tự do của ASEAN (AFTA) vào tháng 12 năm 1995.
e

Như vậy Việt Nam đã đạt được cái đích quan trọng trong quan hệ với ASEAN. Từ khi ta
gửi đơn xin gia nhập ASEAN năm 1994 đến khi gia nhập chính thức năm 1995, thời
gian chúng ta có không nhiều (chưa đầy một năm). Và trong quãng thời gian ít ỏi đó,
công tác chuẩn bị của Việt Nam đã phải tiến hành khẩn trương, gấp rút. Bên cạnh
đó, chúng ta cũng còn một số thiếu sót trong quá trình chạy nước rút ấy (như cán bộ
đạt tiêu chuẩn còn ít, kiến thức về ASEAN chưa đầy đủ nên ta không thể tham gia
một cách chủ động hoàn toàn về sau). Thế nhưng, theo chúng tôi, việc gia nhập này
không phải là kết quả của riêng việc chuẩn bị trong vòng chưa đây một năm đó. Đó
phải là thành quả của cả một quá trình triển khai chính sách từ năm 1986 trở đi.
Những công tác gấp rút trong giai đoạn cuối chỉ là những bước cuối cùng để đạt tới
một thời điểm thích hợp còn cả con đường tới cái đích ASEAN đã được bắt đầu từ
lâu, với nền tảng là những bước đi đúng đắn trên cơ sở lí luận, thực tiễn
vững chắc .
III/ Đánh giá về chính sách gia nhập ASEAN và kiến nghị chính
sách đối ngoại Việt Nam- ASEAN giai đoạn tới
Gia nhập ASEAN là một bước đi đúng của chính sách đối ngoại Việt
Nam
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN được thành lập vào năm 1967 nhưng
đến năm 1995 Việt Nam mới trở thành thành viên. Có những nguyên nhân chủ quan và
khách quan để lí giải tại sao sau hơn 30 năm thành lập Việt Nam mới tham gia tổ chức
này, và sự kiện này lại được xem là một bước đi thành công của chúng ta.
Thứ nhất là do hành động của các nước trong ASEAN đối với cuộc chiến chống
Mỹ của Việt Nam và sự chi phối của ý thức hệ đến tư duy của chúng ta. Trong giai đoạn
dài, từ khi ASEAN ra đời cho đến thập kỉ 80 của thế kỉ XIX, ta coi ASEAN là khối
SEATO trá hình. Đó là do một số nước trong ASEAN có dính líu trực tiếp hoặc gián tiếp
tới chiến tranh tại Việt Nam. “Thái Lan có hai sư đoàn bộ binh cùng chiến đấu với quân
đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Phi-lip-pin có đội “công dân vụ” 2000 người làm công
việc “xã hội” và xây dựng lại cơ sở hạ tầng ở miền Nam; đó là chưa kể máy bay và tàu
chiến Mỹ hàng ngày xuất phát từ những căn cứ quân sự ở Phi-lip-pin sang đánh phá nước
ta…” Rõ ràng rằng với những hành động như thế của các quốc gia trên trong một thời kì

lịch sử như vậy thì Việt Nam không thể có cái nhìn tốt đẹp đối với họ.
 
Trong cục diện thế giới hai cực, ý thức hệ bao trùm lên cả mối quan hệ Đông Tây.
Việt Nam thuộc phe xã hội chủ nghĩa và hầu hết các nước ASEAN đứng về phía Mỹ-
Ngụy chống ta. Cái nhìn của chúng ta bị chi phối nhiều bởi ý thức hệ khiến ta không nhìn
thấy những mặt tích cực của các quốc gia trong ASEAN. Đó là tinh thần yêu nước và bảo
vệ dân tộc của các nước Đông Nam Á nói chung.
Thứ hai là do tư duy về độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia. Sau khi kháng chiến
chống Mỹ thắng lợi, thay vì đặt mục tiêu phát triển kinh tế đất nước lên hàng đầu ta vẫn
coi an ninh là mối quan tâm số một. Điều này có thể hiểu được khi mà ta vừa trải qua cuôc
chiến kéo dài, trong khi đó kẻ thù chưa thôi chống phá nước ta. Cùng với đó, an ninh biên
giới phía bắc và tây nam chưa ổn định. Sau khi giành độc lập, Việt Nam có công bố chính
sách 4 điểm đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á:
1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cúng có lợi, cùng tồn tại
hòa bình.
2. Không để lãnh thổ của nước mình cho bất cứ nước ngoài nào sử dụng làm căn
cứ xâm lược và can thiệp vào các nước khác trong khu vực.
3. Thiết lập quan hệ láng giềng tốt, giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua
thương lượng.
4. Phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện
riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập thật sự ở Đông Nam Á.
Trong chính sách này vẫn còn tồn tại mối nghi ngại từ chính phía Việt Nam đối với
các quốc gia Đông Nam Á. Từ chính suy nghĩ đó mà việc triển khai thực hiện chưa đạt kết
quả tốt.
Sau này, khoa học kĩ thuật phát triển nhanh làm khái niệm độc lập, an ninh, chủ
quyền quốc gia không chỉ gói gọn trong phạm vi địa lí. Trong những năm 80, 90 thế kỉ
XIX, các nước xã hội chủ nghĩa lâm và tình trạng khủng hoảng. Đến tháng 12 năm 1991,
Liên Xô tan rã. Sự kiện này gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho các nước xã hội chủ
nghĩa. Muốn tồn tại thì các nước này phải thay đổi lối tư duy trì trệ, bảo thủ. Đại hội VI

của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đưa ra sự đổi mới từ trong nhận thức. Những cải
cách hợp lí đã mang lại cho Việt Nam diện mạo khác. Việt Nam quan tâm nhiều hơn vào
phát triển kinh tế và hợp tác với nhiều quốc gia. Sau các cuộc đàm phán, gặp gỡ cấp cao
giữa Việt Nam và các quốc gia trong ASEAN thì ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của ASEAN.
Là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta nhận thức rõ một môi
trường hòa bình, ổn định trong nước và khu vực sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
phát triển. Nhân dân Việt Nam không còn xa lạ gì với người láng giềng hay bắt nạt từ
0
phương Bắc nên chúng ta thấu hiểu rằng càng có mối quan hệ láng giềng tốt đẹp bao nhiêu
thì càng tốt bấy nhiêu.
Thứ ba, các nước lớn có ảnh hưởng không ít đến mối quan hệ Việt Nam – ASEAN.
Sau khi thống nhất đất nước, theo lời kêu gọi của mặt trận dân tộc đoàn kết Cam-pu-chia,
quân tình nguyện Việt Nam đã sang Cam-pu-chia làm nghĩa vụ quốc tế: giúp nhân dân
Cam-pu-chia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot. Tuy nhiên việc làm này của chúng ta bị
các nước ASEAN phản đối dẫn đến mối quan hệ vốn dĩ không mấy tốt đẹp của hai bên
Việt Nam – ASEAN lại bị đào thêm hố sâu ngăn cách. Trong quá trình giải quyết “vấn đề
Cam-pu-chia”, Việt Nam đã tham gia tích cực và đầy thiện chí. Nhưng trên thực tế, “
trong suốt thập kỷ 80 ,ta đã phải xử lý quan hệ với tất cả các nước lớn về giải pháp cho
vấn đề Cam-pu-chia trước hết cũng là giải pháp do các nước lớn dàn xếp (G.5)”.
Khi ta kí hiệp ước liên minh với Liên Xô (1978) thì quan hệ Việt – Mỹ, Việt –
Trung lại trở nên căng thẳng. Sau đó, ta ký hiệp ước hoà bình hợp tác với Liên Xô ngày 4-
11-1979 khiến các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á lo ngại sự chi phối của Liên Xô
vào khu vực này. Cho đến năm 1991, khi vấn đề Cam-pu-chia được giải quyết ổn thỏa thì
chúng ta đã khai thông được phần nào bước đi trên đường tiến tới hội nhập, trong đó có
việc gia nhập ASEAN.
Như vậy những lí do trên khiến con đường trở thành thành viên ASEAN của Việt
Nam gặp nhiều chông gai thử thách. Đến 1986, khi đổi mới tư duy đối ngoại thì chúng ta
mới thực sự tìm được lối đi cho việc đẩy nhanh tiến trình gia nhập ASEAN.
Có thể khẳng định việc gia nhập vào ASEAN của Việt Nam năm 1995 là một bước

ngoặt, là sự kiện đối ngoại thành công của nước ta. Điều này có thể thấy rõ qua những lợi
ích mà ta có được khi gia nhập tổ chức này. Bước ra khỏi những cuộc chiến tranh, vấn đề
nan giải nhất lúc bấy giờ của chúng ta là làm sao để phát triển đất nước, phá thế bao vây,
cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị. Câu trả lời không thể khác là phải bằng sức
mình, tăng cường mở rộng các mối quan hệ, nhất là với các nước láng giềng và trong khu
vực để tận dụng sự giúp đỡ cũng như có được môi trường sống thuận lợi. Gia nhập
ASEAN sẽ đáp ứng điều đó. Như phần trên đã trình bày, có rất nhiều lí do khiến cho Việt
Nam không gia nhập ASEAN trước 1995, đến lúc này, sau những đổi mới trong tư duy,
thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế chúng
ta mới đẩy mạnh tiến trình gia nhập. Quyết định này là phù hợp với những diễn biến của
thời cuộc và được triển khai đúng hướng suốt từ 1986 đến 1995. Chúng ta đã có cả quá
trình chuẩn bị đầy công phu, những tính toán rõ ràng và cả những bài học của giai đoạn
trước đây cho việc gia nhập. Bước vào cộng đồng ASEAN, chúng ta sẽ phá vỡ được thế bị
bao vây, tìm kiếm thêm đồng minh, dần phát huy ảnh hưởng của mình và thiết lập các mối
quan hệ phục vụ cho sự nghiệp phát triển của nước nhà
)
Nhìn lại chặng đường đã đi qua, chúng ta một lần nữa có thể khẳng định việc gia
nhập ASEAN không phải là một sự vội vàng mà đó là cả một quá trình cân nhắc về lợi ích
và được chuẩn bị trong suốt khoảng thời gian không hề ngắn. Đây là một quyết sách đúng
đắn, phù hợp với tinh thần đổi mới chung cũng như với xu thế lúc bấy giờ.
Bài học và kiến nghị về chính sách đối ngoại giai đoạn tới
Quá trình gia nhập ASEAN cũng như những bước chuyển trong chính sách đối
ngoại đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm trên lĩnh vực này.
Trước hết, việc gia nhập ASEAN cho chúng ta thấy, để hoạch định đúng đường lối,
chính sách đối ngoại phải luôn nắm vững lí luận, trong đó cơ bản là hệ thống chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời phải luôn nhạy bén trong việc nắm bắt tình
hình trong và ngoài nước.
Ngoài ra, chính sách chỉ có thể thành công khi có những bước triển khai phù hợp.
Quá trình gia nhập ASEAN cũng chỉ ra rằng, trong quan hệ quốc tế, phải luôn biết tính
toán, cân nhắc những lợi ích quốc gia một cách kĩ lưỡng, không để những dấu vết quá khứ

hay cái nhìn chủ quan chi phối cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề.
Bài học lớn nhất mà chúng ta nhận được chính là phải luôn mở rộng mối quan hệ
quốc tế. Việc xác định bạn thù không phải là điều quan trọng nhất trong giai đoạn hiện
nay mà quan trọng là phải biết biến thù thành bạn, biết cách chung sống trong cộng đồng
quốc tế bởi trong giai đoạn hiện nay, cô lập đồng nghĩa với tự tiêu vong.
Qua nghiên cứu, đánh giá quá trình gia nhập ASEAN cũng như ghi nhận những bài
học kinh nghiệm, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị cho chính sách đối ngoại Việt
Nam- ASEAN giai đoạn hiện nay.
Kể từ khi gia nhập ASEAN năm 1995 đến nay, chúng ta đã không ngừng thể hiện
mình là một thành viên tích cực trong cộng đồng và cũng đã thể hiện được vị thế ngày một
cao của quốc gia mình, đặc biệt là trong nhiệm kì làm chủ tịch ASEAN 2010. Tuy nhiên
việc phát huy vai trò của chúng ta còn có những hạn chế. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay
cũng như tiếp theo, Việt Nam cần tiếp tục có chính sách tăng cường, phát huy quan hệ với
ASEAN hơn nữa. Chúng ta phải phát huy vai trò và sức ảnh hưởng của mình trong tổ
chức này bằng các chính sách rộng mở, hợp tác đa dạng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội… đồng thời có chính sách để giúp đỡ ASEAN có vị thế, tiếng nói cao hơn trên
trường quốc tế, ngày càng trở thành một tổ chức có uy tín và ảnh hưởng. Bên cạnh đó
chúng ta cũng cần tích cực trong việc thiết lập quan hệ láng giềng tốt, hàng xóm tốt, người
bạn tin cậy trong hợp tác kinh tế với từng quốc gia trong khối.
[
Có thể nói, quan hệ Việt Nam- ASEAN là mối quan hệ quan trọng hàng đầu và cần
có mối quan tâm, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của ta, bởi thực tế luôn cho thấy tầm
ảnh hưởng rất lớn của các nước khu vực đối với đời sống quốc gia mình. Người ta vẫn
thường nói “ Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Việt Nam cần phải xúc tiến mạnh mẽ
hơn nữa những chính sách đối ngoại với các nước láng giềng, nhất là với ASEAN để có
được những láng giềng tin cậy, có được những người bạn trên con đường phát triển đưa
đất nướ đi lên.
Kết Luận
Cùng với xu thế mới của thời đại, Việt Nam đã lựa chọn được hướng đi thích hợp
cho mình để đưa đất nước phát triển và mở rộng quan hệ. Suốt chặng đường đổi mới và

gia nhập ASEAN, ngành đối ngoại Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh, khả năng nhạy bén của
mình trong nhận định tình hình cũng như hoạch định và triển khai đường lối.
Gia nhập ASEAN là một mục tiêu lớn của chúng ta và đến 1995 giấc mơ đó đã trở
thành hiện thực. Sự kiện này đã góp phần đưa năm 1995 trở thành một năm thành công
rực rỡ trong hoạt động đối ngoại của nước nhà. Gia nhập ASEAN mở ra cho Việt Nam
nhiều thuận lợi cũng như những thách thức mới đòi hỏi chúng ta phải có những bước đi
đúng đắn trong tương lai. Có thể sẽ có nhiều luồng ý kiến trái chiều về thời điểm gia nhập
ASEAN của Việt Nam nhưng đứng trên cái nhìn khách quan và qua những phân tích đánh
giá về tình hình, quá trình hoạch định, triển khai đường lối, chúng tôi khẳng định tính
đúng đắn và hợp lí của bước đi này. Dĩ nhiên trong quá trình thực hiện sẽ không tránh
khỏi những vướng mắc, sai sót nhưng đó là những vấn đề vi mô, không thể vì những tiểu
tiết này khiến chúng ta đi đến đánh giá việc gia nhập là vội vàng được. Thực tế cho thấy,
từ khi gia nhập vào ASEAN đến nay, Việt Nam đã phát huy được thế mạnh và tầm ảnh
hưởng của mình hơn cũng như mở rộng được mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới
trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính trị…. Mặc dù vây, tiểu luận không có ý phủ
nhận bất kì quan điểm của ai về vấn đề này. Đây chỉ là những suy nghĩ, cách nhìn trên góc
độ khác vì bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng cần được nhìn nhận một cách đa chiều.
Gia nhập ASEAN năm 1995 là một bước đi thành công của đối ngoại Việt Nam
nhưng đó chỉ là bước khởi động ban đầu. Chúng ta còn cả một chặng đường dài với những
thách thức mới ở phía trước. Chính vì thế, nhằm phát huy hơn nữa thắng lợi ấy chúng ta
cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác với ASEAN trong giai đoạn tới để Việt Nam thực
d
sự là một thành viên tích cực và có uy tín trong tổ chức này, đồng thời góp phần đưa
ASEAN trở thành một tổ chức không những đáng tin cậy của khu vực mà còn có tiếng nói
và sức ảnh hưởng trên trường quốc tế.
A
Danh sách nhóm:
1. Phan Thị Trang Đoan- Nhóm trưởng
2. Mai Thị Diệu Hải
3. Đỗ Mạnh Hoàng

4. Đỗ Thị Thu Thảo
5. Nguyễn Ngọc Trang
6. Kayson Phommachack
Tên đề tài : “Gia nhập ASEAN năm 1995- một đích đến thành công trên con
đường đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam”
(

×