TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
TIỂU LUẬN
KINH TẾ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
Đề tài :
Tăng trưởng trong Doanh nghiệp
thương mại
2005
MỤC LỤC
Trang
Phần I
KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG TRONG DNTM
Phần II
CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN ĐẢM BẢO SỰ TĂNG TRƯỞNG
1.Nguồn vốn ………………………………………………………………. 4
2.Nguồn nhân lực …………………………………………………………. 5
Phần III
CÁC PHƯƠNG THỨC TĂNG TRƯỞNG
1.Tăng trưởng nhờ sát nhập theo chiều dọc …………………………………. 6
2.Tăng trưởng bằng đa dạng hóa ……………………………………………. 8
3.Tăng trưởng nhờ liên doanh ………………………………………………. 10
Phần IV
CÔNG TY CỔ PHẦN KINH ĐÔ
1.Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của công ty ……………………. 11
2.Các nhân tố thuận lợi, khó khăn tác động đến sự tăng trưởng của công ty …… 13
3.Hợp tác đầu tư ………………………………………………………………… 14
2
2
Phần I >KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp thương mại là mức gia tăng sản lượng hàng
hóa tiêu thụ hay là doanh thu bán hàng trong một thời kỳ.
Doanh thu bán hàng là chỉ tiêu kết quả cơ bản phản ánh khả năng huy động của các
nguồn lực và trình độ kết hợp các nguồn lực của doanh nghiệp trong việc đáp ứng cho
các nhu cầu xã hội. Doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu về do
bán hàng. Sự gia tăng doanh thu là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tăng trưởng vì nó
phản ánh mục tiêu hoạt động và có thể do kết quả của việc sử dụng hợp lý các nguồn
lực hoặc tăng các yếu tố đầu vào. Tăng doanh thu là điều kiện cơ bản nhất để tăng lợi
nhuận. Đến lượt mình sự tăng lên của lợi nhuận là yếu tố đảm bảo cho mở rộng tái đầu
tư, tăng quy mô hoạt động và đồng thời tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, lợi nhuận
cho việc thu hút vốn, thúc đẩy sự tăng trưởng .
Sự tăng lên của vốn qua đầu tư bằng nguồn tự tài trợ và vay vốn cùng với lao động
là một trong những chỉ tiêu cơ bản đo lường sự tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
Tăng vốn cố định thể hiện tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật : hệ thống kho tàng cửa
hàng, trang thiết bị phục vụ mua vào, dự trữ và bán ra. Sự tăng lên của vốn lưu động
trong đó chủ yếu là mức dự trữ hàng hoá bình quân thể hiện sự tăng trưởng về quy mô
hoạt động của doanh nghiệp .
Các chỉ tiêu trên đây cho phép đánh giá mức tăng trưởng tuyệt đối song nó chưa
phản ánh được vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Do đó để thấy được đầy đủ
sự tăng trưởng cần phải sử dụng một chỉ tiêu tương đối thị phần của doanh nghiệp : sự
tăng lên của chỉ tiêu này phản ánh vị thế của doanh nghiệp được tăng lên trước các đối
thủ cạnh tranh.
2.Ý nghĩa
Tăng trưởng của doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển
trong suốt cuộc đời hoạt động của nó. Tăng trưởng trong doanh nghiệp giúp đạt được
các mục tiêu của người chủ và người lao động cũng như đối với xã hội.
Đối với xã hội : tăng trưởng trong doanh nghiệp là điều kiện cơ bản để tăng trưởng
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà
nước trong từng giai đoạn. Vì mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế , một đất
nước mạnh bởi có một hệ thống doanh nghiệp mạnh, thường xuyên tăng trưởng và phát
triển.
Đối với doanh nghiệp : tăng trưởng là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp đạt được
các mục tiêu của mình trong suốt cuộc đời hoạt động, tăng vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thương trường đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp
trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
Đối với người chủ và người lao động : sự tăng trưởng sẽ thoả mãn được mục tiêu
của mỗi thành phần tham gia vào doanh nghiệp . Người chủ thu được lợi nhuận cao và
3
ổn định qua đầu tư, người lao động tăng thu nhập, có việc làm ổn định, tay nghề được
nâng cao.
Đối với người cung ứng : cũng nhận được một phần lợi ích thông qua hoạt động
cung ứng cho doanh nghiệp – góp phần tăng cường được cac mối quan hệ bạn hàng, hạn
chế được nhưng rủi ro nhờ các mối liên kết kinh doanh tin cậy và bền vững.
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp thương mại
Có những yếu tố khác nhau ở cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp thúc đẩy
hay kìm hãm sự tăng trưởng của doanh nghiệp .
Thị trường và môi trường hoạt động : sự thay đổi cung cầu và cơ cấu thị trường,
tình trang cạnh tranh có thể tạo thời cơ hay cản trở cho sự tăng trưởng . Sự cạnh tranh
gay gắt vừa tạo những kho khăn cho doanh nghiệp cũng là yếu tố kích thích các nhà
quản lý doanh nghiệp phấn đấu tăng trưởng để đạt được lợi thể trong cạnh tranh. Các
yếu tố kinh tế, kỹ thuật , công nghệ, pháp luật, chính trị xã hội… cũng góp phần thúc
đẩy hạn chế tăng trưởng .
Mục tiêu của các thành phần tham gia doanh nghiệp , cả người chủ và người lao
động đều mong muốn doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng liên tục bền vững vì đó là
điều kiện cơ bản đảm bảo thu nhập cho các nhà đầu tư và công ăn việc làm cho người
lao động…. Quy mô lớn vừa là kết quả của sự tăng trưởng vừa là yếu tố kích thích tăng
trưởng vì những lợi thế của nó. Sự tăng trưởng dẫn đến tăng quy mô hoạt động của
doanh nghiệp. Và quy mô lớn đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn. Vì tận dụng được cơ
sở vật chất kỹ thuật, khai thác được lợi thế chuyên môn hoá trong lao động và quản lý,
giảm bớt được các chi phí quản lý, giao dịch….
Quy mô lớn đặc biệt có lợi thế trong thu hút vốn, thu hút lao động trẻ có chất lượng
cao, dễ có điều kiện nghiên cứu và áp dụng công nghệ kỹ thuật mới, tạo ra năng suất lao
động cao ….có thể mua hàng hoá , nguyên vật liệu với giá hạ hơn và lợi thể cạnh tranh
lớn hơn.
4
PHẦN II >CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN ĐẢM BẢO SỰ TĂNG TRƯỞNG
1.Nguồn vốn
a) Phân bổ nguồn vốn
Việc phân bổ nguồn vốn trước tiên phụ thuộc vào tiến trình thực hiện các chiến
lược mục tiêu mà doanh nghiệp đang theo đuổi trong từng thời kỳ. Doanh nghiệp cần
phải có định hướng phân bổ và sử dụng nguồn vốn sao cho hữu hiệu nhất và từ các yêu
cầu này sẽ tính toán cân nhắc xem cần phải huy động vốn từ các nguồn nào ? Phân bổ
nguồn vốn được tiến hành theo các bước :
-Thứ nhất : Định hướng tổng quát về phân bổ nguồn vốn trong mỗi thời kỳ. Việc
thu hút từ các nguồn phải hướng tới đạt được các mục tiêu quan trọng, chủ yếu nhất cho
dù yêu cầu về vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp có thể có những biến động thậm
chí rất lớn song đảm bảo về vốn cho các dự án thực hiện mục tiêu tăng trưởng vẫn có sự
ưu tiên.
-Thứ hai : Cần phải xác định nhu cầu về vốn, xác lập ngân sách về vốn trong đó
xác định những nhu cầu nào về vốn được chấp nhận và những nhu cầu nào chưa cấp
bách hay bác bỏ. Trong ngân sách về vốn cần xác định :
Mô tả chi tiết yêu cầu về vốn bao gồm cả lượng tiền cần đầu tư và thu nhập kỳ
vọng.
Loại bỏ các yêu cầu không phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp cũng như các
bộ phận chức năng .
Phân tích chi phí biên và thu nhập biên.
Phân loại yêu cầu về vốn theo các phương pháp giá trị hiện tại ròng và lãi suất thu
hồi nội bộ hay phương pháp hoà vốn.
Lựa chọn các phương pháp mà vốn bỏ ra mang lại mức lãi cao nhất. Quá trình đầu
tư vốn tiếp tục cho đến khi doanh nghiệp sử dụng hết vốn hiện có hay mức lãi của dự án
xuống thấp dưới mức doanh nghiệp có thể chấp nhận.
-Thứ ba : Phân tích cơ cấu tài chính của doanh nghiệp .
Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp thương mại bao gồm vốn sở hữu và vốn vay mà
doanh nghiệp sử dụng – cơ cấu này thể hiện mạnh, yếu của tài chính doanh nghiệp và có
ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến việc thu hút các nguồn vốn. Cơ cấu tài chính cũng
thể hiện khả năng chi trả tài chính. Cơ cấu tài chính chịu ảnh hưởng của mục tiêu và
chiến lược doanh nghiệp và phải thích ứng với tính chất của các nhu cầu về vốn. Định
kỳ doanh nghiệp cần phải kiểm tra tính hợp lý của cơ cấu hiện tại. Đặc biệt khi thu hút
thêm nguồn vốn mới cần phải kiểm tra lại cơ cấu tài chính mà doanh nghiệp muốn đạt
được.
-Thứ tư : Phân tích và đánh giá các nguồn vốn khác nhau trước khi đi đến lựa chọn
nguồn vốn nào đó.
Có những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng của doanh nghiệp khi lựa
chọn nguồn tài chính của doanh nghiệp : cơ cấu tài chính hiện tại, tính chất các tài sản
có, thu nhập và sự ổn định của thu nhập cũng như các điều kiện của thị trường tài chính
hiện tại chi phối. Điều quan trọng nhất trong việc thu hút vốn là doanh nghiệp cần phải
tạo ra và duy trì sự hấp dẫn của mình trên thị trường tài chính. Doanh nghiệp cũng có
thể thu hút vốn nhờ các chủ sở hữu, cổ đông hay các nguồn tín dụng dài hạn trung hạn
và các nguồn khác………
5
-Thứ năm : Sau khi đã phân tích , đánh giá các nguồn vốn, doanh nghiệp thường
lựa chọn nguồn vốn đảm bảo thực hiện phương thức tăng trưởng trên cơ sở xem xét các
yếu tố cơ bản.
+ Mục đích sử dụng vốn
+ Chi phí sử dụng vốn
+ Những lợi ích và thiệt hại khi thu hút vốn
b) Ngân sách
Ngân sách là công cụ quan trọng của quản lý tài chính và kiểm tra quản lý. Với ý
nghĩa nào đó ngân sách là kế hoạch tác nghiệp mà doanh nghiệp dự định thực hiện trong
tương lai. Các loại ngân sách chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm : ngân quỹ tiền mặt,
ngân quỹ và doanh số bán , ngân sách về vốn và dự toán của các loại chi phí….
Phân bổ nguồn vốn và lập ngân sách là những công cụ cơ bản đảm bảo cho việc thu
hút và sử dụng các nguồn vốn để thực hiện phương thức tăng trưởng đã lựa chọn một
cách có hiệu quả
2.Nguồn nhân lực
Là một trong những yếu tố quyết định nhất đối với việc đạt được các mục tiêu và
chiến lược của doanh nghiệp trong đó có tăng trưởng . Khi lựa chọn một phương thức
tăng trưởng , bên cạnh cần phải tính đến nguồn nhân lực hiện có doanh nghiệp cần phải
tính đến nguồn nhân lực doanh nghiệp có thể thu hút từ bên ngoài (trong tương lai qua
thị trường lao động).
Doanh nghiệp cần phải chủ động và thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng kiến
thức quản trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người quản lý các cấp, nhân viên kho
tàng, bán hàng…. để đảm bảo khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng
về chất lượng hàng hoá và dịch vụ.
Nhu cầu về nhân lực (số lượng, chất lượng, cơ cấu…) có thể xác định theo yêu cầu
của mỗi dự án cũng như phục vụ cho thực hiện chiến lược mà doanh nghiệp hướng tới.
Song bên cạnh yếu tố này cần phải quan tâm đến sự thống nhất ý chí, sự cam kết của
các thành viên trong doanh nghiệp , từ người chủ, nhà quản trị cho đến người lao động
làm công ăn lương. Chính yếu tố chất lượng của nguồn nhân lực sẽ đảm bảo khắc phục
những khó khăn trở ngại trong việc đạt được những mục tiêu của tăng trưởng , để đạt
được sự thống nhất của tập thể ngườc lao động. Lãnh đạo doanh nghiệp cần phải làm rõ
mục tiêu và chiến lựơc mà doanh nghiệp theo đuổi và giải thích để mọi người hiểu, các
mục tiêu này đáp ứng được mục đích của mỗi cá nhân cũng như lợi ích cuả doanh
nghiệp trước mắt cũng như lâu dài. Nhà quản trị có thể sử dụng nhiều cách khác nhau
để tạo điều kiện và động lực cho tập thể lao động phát huy tối đa tiềm năng sẵn có, tận
dụng cơ hội hành động tiến tới mục tiêu.
Tạo bầu không khí đoàn kết, đồng tâm nhất trí, cùng nhau hành động, cùng sáng
tạo với tinh thần trách nhiệm cao là một trong những yếu tố căn bản giúp doanh nghiệp
thực hiện có hiệu quả phương thức tăng trưởng đã lựa chọn.
6
PHẦN III >CÁC PHƯƠNG THỨC TĂNG TRƯỞNG
Có hai phương thức tăng trưởng trong các doanh nghiệp thương mại :
Một là : Tăng trưởng bằng tự đầu tư, tức là bằng cách tăng thêm nguồn lực nhờ khả
năng sẵn có của doanh nghiệp mà không có sự tham gia của chủ đầu tư khác.
Phương thức tăng trưởng này có những ưu thế :
Thuận lợi và chủ động kiểm soát được sự phát triển của doanh nghiệp.
Không có nguy cơ bị mất quyền soát vốn trong điều kiện doanh nghiệp vẫn còn
những nguồn tiềm năng để tăng trưởng.
Song trong trường hợp có những điều kiện về môi trường và thị trường như nhu
cầu tăng cao đặc biệt, các đối thủ cạnh tranh mạnh lên, hoạt động ráo riết sự xuất hiện
những mặt hàng có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi phải có đầu tư lớn để đổi mới
kinh doanh, đầu tư vào maketing, mạng lưới tiêu thụ …. thì các nguồn lực của doanh
nghiệp có thể phải tìm cách tăng trưởng thông qua con đường thu hút các nguồn lực từ
bên ngoài như tìm kiếm, mua lại công ty khác…(Sự tăng trưởng như vậy được gọi là
tăng trưởng ngoại vi).
Hai là : tăng trưởng ngoại vi có ưu điểm là khắc phục những khuyết điểm của tăng
trưởng nhờ các nguồn lực bên trong doanh nghiệp . Nó cho phép doanh nghiệp có thể
thu hút được khối lượng các nguồn lực và sự tham gia của các chủ thể mới, làm tăng
thêm khả năng doanh nghiệp thích ứng được sự biến động lớn của thị trường và môi
trường, giảm bớt được các chi phí đào tạo và chi phí thâm nhập thị trường. Sau nữa dễ
thực hiện với những thuận lợi về tài chính, vì với các giá tài sản hiện có thường rẻ hơn
so với việc đầu tư mới, rút ngắn thời gian khai thác. Đương nhiên việc có mặt thêm các
chủ sở hữu càng làm mất đi quyền tự do lựa chọn các quyết định, phải chia sẻ quyền lực
và lợi ích.
*Tăng trưởng ngoại vi
1.Tăng trưởng nhờ sát nhập theo chiều dọc
Tăng trưởng bằng hội nhập của doanh nghiệp thương mại được thực hiện bằng
cách doanh nghiệp liên kết (sát nhập) với những người cung ứng (doanh nghiệp sản xuất
hay thương mại bán buôn) hay với những doanh nghiệp thương mại khác ( bán buôn
hay bán lẻ) để thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm hoặc sát nhập với tất cả các doanh
nghiệp loại này để thực hiện sự kiểm soát toàn bộ từ cung ứng đến tiêu thụ sản phẩm.
Sự sát nhập như vậy thực chất là tạo lập một sự liên kết giữa các doanh nghiệp mà mỗi
doanh nghiệp đảm nhận một khâu hay công đoạn trong quá trình đưa hàng hoá từ sản
xuất đến tiêu dùng.
Thực hiện sự liên kết này sẽ giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đạt được mục
tiêu của mình, củng cố được vị thế của doanh nghiệp trên thương trường và phát huy tốt
hơn các nguồn tiềm năng của doanh nghiệp .
Có những yếu tố khác nhau thúc đẩy sự sát nhập theo chiều dọc :
Thứ nhất : do hoạt động của doanh nghiệp luôn gắn với các yếu tố của môi trường
và thị trường, gắn chặt với người cung ứng và khách hàng tiêu thụ sản phẩm đặc biệt
các công ty chuyên doanh nên nếu các mối quan hệ này không chặt chẽ, phối hợp không
tốt thì các chi phí giao dịch sẽ tăng mà kết quả có thể vẫn không đạt được, tính bị động
trong kinh doanh tăng lên.
7
Thứ hai : Việc sát nhập sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng cường được các nguồn lực
và chúng được sử dụng hợp lý hơn, thực hiện được sự chỉ đạo tập trung thống nhất từ
đầu vào đến đầu ra, đồng thời việc nắm bắt các thông tin ở đầu vào và đầu ra sẽ nhanh
chóng và đầy đủ hơn, các quyết định sẽ kịp thời, trở nên phù hợp.
Để đi đến quyết định có nên thực hiện việc sát nhập theo chiều dọc hay không
doanh nghiệp cần phải tính đến chi phí giao dịch - giao dịch trong việc mua hàng của
người cung ứng và trong việc bán hàng cho những người tham gia vào việc tiêu thụ
hàng hoá đầu ra của doanh nghiệp . Nếu thực hiện việc sát nhập thì các chi phí này sẽ
trở thành chi phí phối hợp nội bộ. Doanh nghiệp thương mại sẽ thực hiện sát nhập với
người cung ứng hay doanh nghiệp thương mại khác trong khâu tiêu thụ nếu chi phí
phối hợp nội bộ không vượt quá chi phí giao dịch. Sau nữa sát nhập cũng đem lại sự ổn
định trong cung ứng cũng như tiêu thụ, chia sẻ những rủi ro, biến động trong kinh
doanh. Tổ chức nội bộ cũng tạo ra những thuận lợi cho việc phối hợp hiệp đồng áp dụng
một hệ thống quyết định thích hợp và chủ động, tăng cường sự hợp tác và giảm bớt
những đối kháng giữa những đối tác trước đây.
Sự sát nhập theo chiều dọc cũng giúp các doanh nghiệp thương mại thực hiện được
sự điều hoà thị trường ở đầu ra do các thông tin ở đầu vào và đầu ra được xử lý tốt hơn,
đồng bộ và toàn diện hơn, sự xích lại gần giữa cung ứng và tiêu thụ sẽ làm cho các
quyết định được đưa ra nhanh chóng, kịp thời, hiệu chỉnh tốt hơn các hoạt động trong
quá trình hàng hoá đi từ sản xuất đến tiêu dùng, tiết kiệm được các chi phí và nâng cao
hiệu quả .
Sau cùng, sát nhập theo chiều dọc sẽ giúp tận dụng được những nguồn tiềm năng
của từng doanh nghiệp chưa được khai thác hết hay chưa khai thác có hiệu quả.
a.Sự sát nhập theo chiều dọc với người cung ứng
Đây là hình thức tìm cách đạt được sự tăng trưởng bằng cách nắm quyền sở hữu
hay tăng sự kiểm soát đối với người cung ứng, có hai cách để đạt được mục tiêu này:
Một là : Doanh nghiệp thương mại thành lập một công ty con chuyên thực hiện
chức năng cung ứng, qua đó thiết lập nguồn cung ứng của mình.
Hai là : Thực hiện việc mua một phần hay toàn bộ các cơ sở cung ứng cho doanh
nghiệp .
Sát nhập ngược chiều đặc biệt có lợi trong trường hợp người cung ứng đang tăng
trưởng nhanh, có nhiều khả năng thu được lợi nhuận. Nó cũng hấp dẫn nếu như nguồn
cung ứng hàng hoá cho doanh nghiệp bấp bênh, không ổn định và có thể giảm được các
chi phí giao dịch.
Tuy vậy sát nhập ngược chiều cũng có không ít những vấn đề phát sinh : để thực
hiện việc kiểm soát đối với cung ứng cần phải có vốn lớn, quy mô tăng dẫn đến việc
quản lý cũng trở nên phức tạp hơn. Nếu không đạt được sự phối hợp đồng bộ, nhịp
nhàng thì hiệu quả có thể bị hạ thấp, tính linh hoạt sẽ giảm.
b.Sát nhập theo chiều dọc với người tiêu thụ ( sát nhập thuận chiều)
Đây là hình thức doanh nghiệp thương mại tìm cách tăng trưởng bằng việc mua lại
toàn bộ hay một phần các doanh nghiệp hay đại lý … thuộc hệ thống tiêu thụ sản phẩm
sát với thị trường đích, cụ thể là có thể lập hệ thống bán buôn, bán lẻ trực thuộc doanh
nghiệp hay mua lại các cơ sở này từ bên ngoài để thực hiện quyền kiểm soát toàn bộ hay
một phần các kênh tiêu thụ mà doanh nghiệp thấy cần thiết.
8
Hình thức này có lợi đối với các doanh nghiệp nếu các cơ sở tham gia các kênh
phân phối ở đầu ra đang trong quá trình tăng trưởng nhanh hoặc hàng hoá doanh nghiệp
đang tồn đọng với khối lượng lớn, khó tiêu thụ. Sự sát nhập ở đầu ra giúp doanh nghiệp
tránh được những khó khăn trong tiêu thụ nhờ việc nắm được quyền kiểm soát, điều hoà
việc phân phối hàng hoá và tránh được sự cạnh tranh gay gắt về giá. Các doanh nghiệp
khi thực hiện sự sát nhập đã đem lại hiệu quả to lớn và sự tăng trưởng ổn định như
Petrolimex, Tổng công ty thép…. nhờ nắm được kiểm soát nguồn cung ứng và hệ thống
tiêu thụ các doanh nghiệp này đã thực hiện một sự điều tiết có hiệu quả, luôn giữ được
sự ổn định với nguồn cung ứng, điều hoà hàng hoá và giá cả ở đầu ra tránh được những
ảnh hưởng mạnh từ môi trường cũng như thị trường trong nước và quốc tế.
2.Tăng trưởng bằng đa dạng hoá
Cơ sở của việc tăng trưởng bằng đa dạng hoá
Khi doanh nghiệp thương mại không thể thực hiện được sự tăng trưởng bằng
những mặt hàng hiện đang kinh doanh và trên thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt
động thì việc tăng trưởng bằng đa dạng hoá thị trường tiêu thụ tỏ ra thích hợp.
Những lý do khiến doanh nghiệp thương mại lựa chọn phương thức tăng trưởng
bằng đa dạng hoá là :
Thị trường mặt hàng kinh doanh đang tiến tới bão hoà hay mặt hàng kinh doanh đã
ở cuối chu kỳ, tổng doanh số khó có thể tăng ở trên thị trường này.
Doanh nghiệp có đủ vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật lao động… để có thể nhanh
chóng đầu tư kinh doanh một mặt hàng mới hay trên thị trường mới hy vọng phát triển
thị trường, nâng cao doanh thu và đạt được lợi nhuận cao.
Luật chống độc quyền hạn chế doanh nghiệp mở rộng thêm doanh thu ở trên thị
trường đang hoạt động.
Các điều kiện để thâm nhập thị trường mới tương đối thuận lợi. Đa dạng hoá giúp
doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn vốn đầu tư. Nhờ đa dạng hoá mặt hàng kinh
doanh mà doanh nghiệp khai thác triệt để hơn các tài sản chưa được sử dụng hết hay
chưa hợp lý qua đó hạ thấp được giá thành nhờ các chi phí cố định phân bổ cho một sản
phẩm giảm . Sự đa dạng hoá sẽ có lợi nếu doanh nghiệp trước đó chỉ kinh doanh những
mặt hàng mang tính thời vụ, những mặt hàng mà nhu cầu của thị trường thay đổi không
ổn định.
Đa dạng hoá cũng giúp doanh nghiệp khai thác tốt hơn các nguồn lực về lao động
và tiềm năng của cán bộ quản lý. Tận dụng được các lợi thế và vị trí của doanh nghiệp
cũng như lợi thế thương mại, sử dụng có hiệu quả hơn các chi phí tiếp thị và phân phối.
Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh cũng tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với khách hàng gây
được sự uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Sự đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và thị trường kinh doanh cũng giúp doanh
nghiệp giảm được những rủi ro nhất là rui ro tài chính đối với các doanh nghiệp lớn.
Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các tập đoàn kinh doanh, các doanh nghiệp lớn ở
trong nước cũng như nước ngoài đều đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và thị trường
kinh doanh . Sự phân chia rủi ro cho các mặt hàng kinh doanh và cho thị trường làm cho
doanh nghiệp có thể bù trừ được các khoản lỗ của một mặt hàng hay tên một thị trường
bằng những khoản lãi cao hơn ở những mặt hàng và thị trường khác.
Chính vì giảm bớt rủi ro, thu lợi nhuận ổn định nên các doanh nghiệp này thu hút
vốn đầu tư hay vay vốn lợi nhuận lớn hơn với những chi phí thấp hơn. Lợi thế đòn bẩy
9
đánh giá tăng lên của khả năng sinh lời của vốn tự có kéo theo sự tăng lên của hệ số vay
nợ. Doanh nghiệp cũng đạt được sự hoà vốn nhanh hơn.
Sự giảm bớt rủi ro trong kinh doanh vừa làm yên lòng người chủ vừa là một trong
những mục tiêu của nhà quản lý cũng như người lao động vì thu nhập và công việc làm
ổn định của họ.
Đa dạng hoá giúp doanh nghiệp giảm được những rủi ro nếu doanh nghiệp khẳng
định được đầy đủ các yếu tố cần thiết đảm bảo thành công khi thực hiện đa dạng hoá
phải đánh giá được chính xác nhu cầu thị trường, lối vào thị trường , phản ứng của đối
thủ cạnh tranh và của khách hàng…. Và các vấn đề liên quan khác. Phải xác định chính
xác quy mô hiệu quả của tăng trưởng , đảm bảo thu hút được các nguồn lực và tránh
lãng phí nguồn lực trong tương lai. Sau cùng tăng trưởng bằng đa dạng hoá phải nằm
trong chiến lược phát triển doanh nghiệp , đảm bảo thực hiện có hiệu quả chiến lược mà
doanh nghiệp đang theo đuổi.
Tăng trưởng bằng đa dạng hoá được thực hiện bằng những con đường : đa dạng
hoá đồng tâm , đa dạng hoá ngang và đa dạng hoá tổ hợp.
a.Tăng trưởng bằng đa dạng hoá đồng tâm
Đa dạng hoá đồng tâm là hình thức doanh nghiệp tận dụng những ưu thế của mình
để đưa ra mặt hàng mới hướng tới những thị trường mới hoặc mặt hàng cũ song có thể
đem lại kết quả cao. Một doanh nghiệp kinh doanh hàng thực phẩm tươi sống có thể
kinh doanh thực phẩm công nghệ trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ
nhân viên với những hiểu biết ngành hàng và kinh doanh ngành hàng, những kinh
nghiệm trong mua hàng, tiếp thị cũng như tiêu thụ sản phẩm….
Doanh nghiệp cũng có thể thực hiện Đa dạng hoá đồng tâm bằng việc thực hiện tự
mình đầu tư kinh doanh hoặc mua lại các cơ sở bên ngoài.
b.Tăng trưởng đa dạng hoá ngang
Là tăng trưởng mà doanh nghiệp hướng vào thị trường tiêu thụ với những mặt hàng
mới về mặt công nghệ chế tạo không liên quan đến mặt hạng hiện có mà doanh nghiệp
đang kinh doanh. Khi tiến hành phương thức tăng trưởng bằng đa dạng hoá ngang
doanh nghiệp cần phải tính đến các điều kiện vể tiền vốn, kỹ thuật và nghiệp vụ kinh
doanh những mặt hàng mới, các kiến thức vể Marketing cũng như trong phân phối, tiêu
thụ ….
Thực hiện đa dạng hoá ngang doanh nghiệp cũng có thể bằng con đường tự đầu tư
kinh doanh hoặc mua lại những cơ sở kinh doanh ở bên ngoài.
c.Tăng trưởng bằng đa dạng hoá tổ hợp
Thực hiện đa dạng hoá tổ hợp là tìm cách hướng tới kinh doanh trên thị trường mới
ứng với những mặt hàng mới thuộc những nhóm ngành hàng khác nhau
Tăng trưởng bằng phương thức này giúp doanh nghiệp khắc phục được tính thời
vụ, thiếu vốn, thu nhập thấp hay trong môi trường kinh doanh không thuận lợi. Đôi khi
doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá tổ hợp vì có sẵn các nguồn tài chính. Điều cơ bản
khi thực hiện đa dạng hoá tổ hợp là kinh doanh cần đánh giá đựơc lợi ích mà phương
thức tăng trưởng này đem lại hay là đối với thị trường hiện tại không cho phép họ thực
hiện tăng trưởng bằng các phương pháp khác.
10
3.Tăng trưởng nhờ liên doanh
Liên doanh là sự tham gia của hai hay nhiều công ty vào một doanh nghiệp trong
đó các bên cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Sự
liên doanh có thể thực hiện giữa các công ty trong một nước hay của các nước khác
nhau.
Thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp khác sẽ tạo được thị trường tiêu thụ lớn
hơn, thâm nhập thị trường của các nước đối tác dễ dàng hơn. Khai thác tốt hơn lợi thế so
sánh và những nguồn tiềm năng của các bên do có thể bổ sung cho nhau những khiếm
khuyết về các nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ. Những tiến bộ và kinh nghiệm
quản lý và công nghệ cho phép doanh nghiệp sẽ hoạt động có hiệu quả hơn khi ở quy
mô lớn. Liên doanh cũng cho phép doanh nghiệp dễ dàng đạt được sự đa dạng hoá thị
trường . Đồng thời cũng giúp cho các doanh nghiệp phân tán được rủi ro trong kinh
doanh , nâng cao lợi nhuận.
Song tăng trưởng nhờ liên doanh cùng làm cho doanh nghiệp bị mất đi những lợi
thế : do phân chia quyền sở hữu nên doanh nghiệp cũng mất đi quyền tự do hành động ,
lợi nhuận thu được cũng bị chia sẻ. Những bí quyết công nghệ , kinh doanh , quản lý có
thể cũng bị mất. Sau nữa việc hoạt động ở một thị trường mới lạ cũng dễ bị rủi ro hơn
so với thị trường quen thuộc.
11
PHẦN IV > CÔNG TY CỔ PHẦN KINH ĐÔ
1.Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của công ty
Công ty cổ phần Kinh Đô được thành lập năm 1993, khởi đầu là một doanh nghiệp nhỏ
sản xuất bánh Snack tại Phú Lâm, quận 6. Trải qua quá trình 10 năm xây dựng và phát
triển, đến nay công ty Kinh Đô có 4 công ty thành viên với tổng số lao động hơn 4000
người:
• Công ty cổ phần Kinh Đô tại TP. HCM.
• Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Kinh Đô miền Bắc.
• Công ty TNHH xây dựng và chế biến thực phẩm Kinh Đô – Hệ thống Kinh Đô
Bakery.
• Công ty cổ phần kem KI DO
Công ty Kinh Đô hiện là công ty sản xuất và chế biến bánh kẹo hàng đầu tại thị trường
Việt Nam với 7 năm liên tục được người tiêu dùnh bình chọn là Hàng Việt Nam chất
lượng cao. Hệ thống phân phối của Kinh Đô trải khắp 64 tỉnh và thành phố với 150 nhà
phân phối và gần 40.000 điểm bán lẻ. Sản phẩm của Kinh Đô đã được xuất khẩu sang
thị trường 20 nước trên thế giới như Mỹ, Úc, Canada, Đài Loan, Singapore… với kim
ngạch xuất khẩu phấn đấu đạt 10 triệu USD vào năm 2003.
Trong chiến lược phát triển, Công ty Kinh Đô đã đầu tư máy móc thiết bị, ứng dụng kỹ
thuật công nghệ tiên tiến theo tiêu chuẩn Châu Au, quản lý theo hệ thống chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001. Bên cạnh đó, Công ty nghiên cứu và phát triển sản phẩm phù
hợp với thị hiếu, nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của khách hàng Việt Nam và nước
ngoài với hàm lượng đường, chất béo thấp, sản phẩm giàu các loại vitamin, canxi,
khoáng chất, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng.
Sơ lược về quá trình xây dựng và phát triển của công ty
Thương hiệu Kinh Đô gần đây được nhiều người biết đến thông qua sản phẩm bánh
kẹo và gần đây Kinh Đô còn được nổi tiếng do công ty thành viên cùng hệ thống Kinh
Đô là Công ty CP Kinh Đô miền Bắc tham gia thị trường chứng khoán, với cổ phiếu
NKD. Có nhiều nhà đầu tư không hiểu vì sao có nhiều công ty Kinh Đô. Ông Trần Lệ
Nguyên, Tổng giám đốc Công ty CP Kinh Đô cho biết, tiền thân của Công ty CP Kinh
Đô là Công ty TNHH xây dựng và Chế biến Thực phẩm Kinh Đô được thành lập năm
1993 tại TP. Hồ Chí Minh với vốn đầu tư là 1,4 tỷ đồng, chuyên sản xuất bánh snack,
một loại bánh mới đối với người tiêu dùng trong nước. Một năm sau, công ty kinh
doanh thành công với loại bánh snack, công ty tăng vốn điều lệ lên gấp 10 lần và nhập
về dây chuyền sản xuất bánh snack trị giá 750.000USD từ Nhật Bản. Năm 1997, công
ty nhập về dây chuyền sản xuất bánh mì, bánh bông lan công nghiệp, cuối năm 1998
nhập thêm dây chuyền sản xuất kéo sôcôla. Đến năm 1999, Công ty nâng vốn điều lệ
lên 40 tỷ đồng, mở rộng nhà xưởng và khai trương hệ thống cửa hàng bánh kẹo khắp
nơi trong nước và năm 2000 vốn công ty đã lên 51 tỷ đồng. Với nhiều dây chuyền sản
xuất nhiều loại bánh, công ty đã đẩy mạnh XK sang các nước Mỹ, Pháp, Canada,
Singapore, Nhật, Lào, Thái Lan. Năm 2001, có thêm Công ty CP Thực phẩm Kinh Đô
Miền Bắc được thành lập tại Hưng Yên với số vốn là 50 tỷ đồng, để sản xuất bánh kẹo
cung ứng cho thị trường phía Bắc. Đến năm 2002 vốn điều lệ Công ty Kinh Đô lên 150
12
tỷ đồng, trong đó có sự góp vốn của Công ty TNHH Xây dựng và Chế biến Thực phẩm
Kinh Đô là 50 tỷ đồng. Tính đến nay Công ty CP Kinh Đô có vốn điều lệ là 200 tỷ
đồng, trong đó có 7 đơn vị và cá nhân có số cổ phần tỷ lệ từ 5% trở lên, với tổng giá trị
cổ phiếu sở hữu là 182 tỷ đồng. Số còn lại là của cán bộ CNV.
Bắt đầu từ ngày 01/10/2002, Công Ty Kinh Đô chính thức chuyển thể từ Công ty
TNHH Xây dựng và Chế Biến Thực Phẩm Kinh Đô sang hình thức Công ty Cổ Phần
Kinh Đô. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 được
thay thế bằng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000, nhằm tăng
hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhanh chóng hội nhập với quá trình phát
triển của các nước trong khu vực, chuẩn bị cho tiến trình gia nhập AFTA vào năm 2003.
Tình hình sản xuất, kinh doanh
Cty đang sản xuất 7 nhóm sản phẩm: bánh cookies, bánh crackers, bánh quế, bánh
snack, bánh trung thu, bánh mì công nghiệp, kẹo cứng, mềm và chocolate. Trong đó
bánhn crackers là sản phẩm chủ lực của Cty, chiếm 52% thị phần bánh crackers trong
nước. Sản phẩm bánh crackers của Cty đã được xuất đi nhiều nước trong đó có cả thị
trường Mỹ. Kế đến là bánh cookies của Công ty chiếm tới 45% thị phần bánh cookies
trên thị trường trong nước. Tiếp theo là bánh trung thu, tuy là mặt hàng có tính chất thời
vụ nhưng doanh thu từ bánh trung thu lại chiếm tới 15% tổng doanh thu của Cty và
Kinh Đô là nhãn hiệu chiếm vị trí số một về sản lượng, doanh số và công nghệ.
Hiện nay đã là nhà sản xuất bánh kẹo có hệ thống phân phối lớn với 150 nhà phân
phối, 40.000 điểm bán lẻ và 25 bakery tại VN.
Doanh thu thuần (đơn vị : tỷ đồng)
Năm 2003 : 623
Năm 2004 : 718
Theo Kế hoạch :
Năm 2005 : 870
Năm 2006 : 1.050
Năm 2007 : 1.250
Triển vọng phát triển của ngành bánh kẹo :
Ngành bánh kẹo là một trong những ngành có mức tăng trưởng tương đối ổn định
(khoảng 2%/năm) và là ngành năng động nhất trong ngành công nghiệp thực phẩm thế
giới. Tại Việt Nam ngành bánh kẹo cũng đạt được sự tăng trưởng khá ổn định và có
mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân của thế giới. Mặt khác sự gia tăng dân số, tốc
độ đô thị hóa cùng với sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua tác động tích cực đến
mức tiêu thụ bánh kẹo, do đó triển vọng phát triển của ngành là rất khả quan. Với lợi thế
của ngành cùng với nỗ lực của Công ty rõ ràng triển vọng phát triển của Công ty trong
thời gian sắp tới là rất khả quan.
2.Các nhân tố thuận lợi, khó khăn tác động đến sự tăng trưởng của công ty
13
a>Thuận lợi
Về kinh tế :Tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người có ảnh
hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm bánh kẹo. Những năm trở lại đây Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng khá cao và ổn định, trung bình đạt 7,3%/năm. Các chuyên gia phân tích đều
cho rằng trong các năm tới việc Việt nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 7%-
8%/năm là hoàn toàn khả thi và sự tăng trưởng này có tác động tích cực đến sự phát
triển của ngành sản xuất bánh kẹo .
Về luật pháp : Có thể nói, bánh kẹo là một trong những sản phẩm cần thiết trong
cuộc sống hàng ngày của con người, đảm báo nhu cầu dinh dưỡng của các tầng lớp dân
cư trong xã hội. Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo đều sử dụng nhiều lao
động và các lọai nguyên liệu do trong nước sản xuất như đường, sữa, trứng… Vì vậy,
ngành được nhà nước dành cho những chính sách ưu đãi nhất định, cụ thể là những ưu
đãi trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước về tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế nhập khẩu máy móc thiết bị… Những ràng buộc pháp lý đối với ngành
bánh kẹo chủ yếu liên quan đến an tòan thực phẩm và bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng. Đây cũng là những chiến lược được Công ty cổ phần Kinh Đô rất chú trọng và
xem là chiến lược lâu dài của công ty. Vì vậy, xét toàn cảnh môi trường pháp lý và tình
hình thực tế của Công ty thì rủi ro pháp luật ít có ảnh hưởng đến hoạt động của cty.
b>Khó khăn
Sự biến động giá nguyên vật liệu : Do nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá
thành sản phẩm (khỏang 65% đến 70%) nên biến động giá cả nguyên vật liệu sẽ tác
động đến lợi nhuận của Công ty. Đối với Cty thì hiện nay rủi ro tăng giá nguyên vật liệu
có thể xuất pháp từ hai nguyên nhân: Ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm tác động đến giá
trứng gà, trong 6 tháng đầu năm 2004 để đảm bảo an toàn cho sản phẩm Cty đã sử dụng
trứng gia cầm nhập khẩu từ Đan Mạch, giá của chất thay thế trứng gà đắt hơn trứng bình
thường từ 3-5%. Đến nay giá trứng gà đã tăng gấp đôi so với thời điểm trước khi xảy ra
dịch cúm gia cầm. Do đó nếu dịch cúm gia cầm vẫn không dập tắt được thì cả doanh thu
và lợi nhuận của Cty sẽ bị ảnh hưởng do cho phí tăng và tâm lý e ngại sử dụng sản
phẩm có sử dụng trứng gia cầm. Ảnh hưởng của lạm phát tác động đến giá một số
nguyên vật liệu đầu vào như đường tăng 20%, bột tăng 40%, sữa tăng 17%, bao bì nhựa
tăng 10%, ngoài ra chi phí dành cho một số nguyên liệu nhập khẩu cũng tăng do thuế
nhập khẩu tăng. Trước tình hình này Công ty đã có biện pháp xử lý rủi ro biến động giá
trên thông qua việc điều chỉnh tăng giá bán sản phẩm, dẫn đến doanh thu tăng và triệt
tiêu rủi ro tăng giá nguyên liệu và duy trì mức lợi nhuận.
Sự lan tràn hàng giả và hàng kém phẩm chất : Cũng như một số thị trường đang
phát triển khác thị trường Việt Nam vận bị ảnh hưởngnặng nề bởi nạn hàng giả, trong
đó có bánh kẹo giả các thương hiệu nổi tiếng như: Kinh Đô, Bibica, Hải Hà…Điều này
không những ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động của nhà sản xuất mà còn tác
động xấu đến sức khỏe của người tiêu dùng. Thị phần của hàng giả chiếm khoảng 25-
30% thị phần bánh kẹo cả nước. Để ngăn chặn tình trạng này, Cty đã liên tục triển khai
các chương trình chống hàng giả thông qua việc nâng cấp bao bì sản phẩm, tuyên truyền
những đặc điểm giúp người tiêu dung phân biệt giữa hàng giả và hàng thật, phối hợp với
các cơ quan chức năng phát hiện hàng giả trên thị trường. Vì vậy thời gian gần đây số
lượng hàng giả nhãn hiệu Kinh Đô đã có dấu hiệu giảm.
14
Khó khăn hội nhập : Chính phủ Việt Nam đang tích cực xúc tiến việc gia nhập
WTO trong năm 2005 cũng là yếu tố ảnh hưởng lâu dài tới ngành bánh kẹo. Hiện nay
mức thuế suất nhập khẩu phổ thông áp dụng cho sản phẩm bánh kẹo là 75%, đối với các
nước thuộc diện ưu đãi là 50%. Riêng với các nước thuộc ASEAN thuế suất thuế nhập
khẩu sẽ giảm còn 5% vào năm 2006. Như vậy việc gia nhập WTO và AFTA làm giảm
mức thuế nhập khẩu áp dụng cho các mặt hàng bánh kẹo đang là thách thức lớn đối với
những nhà sản xuất bánh kẹo trong nước, đặc biệt là mặt hàng bánh kẹo cao cấp. Tuy
nhiên, bánh kẹo trong nước vẫn có nhiều lợi thế do giá thành sản xuất thấp hơn so với
các nước ASEAN khoảng 40-60%. Vì vậy dù giảm thuế nhập khẩu thì giá bán bánh kẹo
nhập khẩu trên thị truờng vẫn cao hơn từ 20-30% so với bánh kẹo sản xuất trong nước.
Do Công ty đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng bằng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và
marketing thích hợp nên Công ty không gặp sự cạnh tranh của bánh kẹo nhập khẩu.
Hơn nữa với lợi thế về thương hiệu và mạng lưới phân phối rộng khắp, Cty hoàn toàn
chủ động trong việc khống chế sự thâm nhập của hàng hóa ngoại nhập.
3.Hợp tác đầu tư
Công Ty TNHH Xây Dựng & Chế Biến Thực Phẩm Kinh Đô đã chính thức công bố
việc đầu tư trở thành cổ đông lớn nhất của Công ty Cổ Phần Nước Giải Khát Sài Gòn
(Tribeco). Lần đầu tiên tại Việt Nam, một công ty trong nước sử dụng công cụ tài chính
"đầu tư vào một công ty khác" thông qua Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khoán TPHCM
với mục đích đầu tư mở rộng, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của mình nhằm gia
tăng sức cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro trong môi trường hội nhập quốc tế.
Với xu hướng phát triển tất yếu hiện nay trong lãnh vực thực phẩm và đồ uống,
Kinh Đô – doanh nghiệp hàng đầu trong ngành bánh kẹo Việt Nam về quy mô, trình độ
công nghệ, thương hiệu và hệ thống phân phối nhận thức rõ điều này và mong muốn mở
rộng đầu tư sang lĩnh vực ngành hàng nước giải khát nhằm đa dạng hoá sản phẩm, mở
rộng thị phần, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Sau hơn 2 năm gia nhập vào thị
trường kem của công ty Cổ Phần KI DO, Kinh Đô đã tái cấu trúc, ứng dụng công nghệ
thực phẩm hàng đầu thế giới, điều hành và phát triển công ty này thành công với mức
tăng trưởng đều 20%/năm, lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 30%. Từ đó, Kinh Đô
tự tin vào khả năng và kinh nghiệm kinh doanh của mình trong lĩnh vực này.
Tribeco – một Công ty nuớc giải khát hàng đầu tại Việt Nam, công ty cổ phần đầu
tiên trong ngành nước giải khát được niêm yết cổ phiếu và giao dịch chính thức trên sàn
giao dịch chứng khoán với quy mô doanh số tương đối lớn, đạt mức tăng trưởng bình
quân 20%/năm. Tribeco có uy tín lâu năm trên thị trường nước giải khát với các thương
hiệu mạnh, là sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí Minh, đạt giải
thưởng chất lượng Việt Nam, hệ thống phân phối cả nước, hoạt động ổn định hàng năm,
bộ máy quản lý, điều hành tốt, công nghệ hiện đại,… sẽ hỗ trợ tốt cho hệ thống Kinh Đô
phát triển ngành nước giải khát.
Hợp tác với Tribeco, Kinh Đô tin tưởng rằng sẽ cùng với Tribeco chia sẻ kinh
nghiệm, xây dựng thương hiệu Tribeco ngày càng vững mạnh, nâng cao khả năng cạnh
tranh, phát triển bền vững, mang lại lợi ích cho các đối tác, cổ đông hiện tại và nhà đầu
tư tiềm năng. Đồng thời, với những lợi thế của mình, Tribeco cũng sẽ góp phần giúp hệ
thống Kinh Đô trở thành một tập đoàn thực phẩm mang tầm khu vực.
15