Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Lý thuyết phát triển pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.02 KB, 27 trang )

Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Lý thuyết phát triển
Đề tài: Các nghiên cứu điển hình của trường phái Hiện đại hóa
phục hưng ( trường phái Hiện đại hóa mới )
Giảng viên môn học: Nguyễn Minh Đức
Nhóm thực hiện: nhóm 4
1. Nguyễn Thị Thanh Hoa (nhóm trưởng)
2. Bùi Văn Dũng
3. Nguyễn Trà Giang
4. Bùi Thị Hiền
5. Đỗ Thị Ngọc Hiền
6. Phạm Thị Kim Huế
7. Trần Thị Lan
8. Nguyễn Thị Mến
9. Lương Thị Thủy
10.Vũ Thị Thúy
11.Phan Thị Như Trang
12.Nguyễn Thị Tuyết
13.Nguyễn Thị Ánh Tuyết
1
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
NỘI DUNG
I - Phản ứng lại với các phê bình.
II- Các nghiên cứu điển hình:
• Wong: Kinh doanh gia đình
• Davis: Xem xét lại tôn giáo của Nhật Bản
• Banuazizi: Cách mạng Hồi giáo ở Iran
• Huntington: Nhiều nước sẽ trở nên dân chủ?
III- Sức mạnh của các lý thuyết mới của trường phái HĐH
I - PHẢN ỨNG LẠI VỚI CÁC PHÊ BÌNH
Vào cuối năm 1970, khi sức nóng của những lời chỉ trích của trường


hiện đại hóa đã lắng xuống, có một sự phục hưng của nghiên cứu hiện đại
hoá. Giống như trường phái HĐH cổ điển, HĐH mới tập trung nghiên cứu
về sự phát triển của các nước thế giới thứ ba. Sự phân tích về trường phái
học này là ở mức độ truyền thống, và mục đích chính của họ là nhằm giải
thích sự phát triển xảy ra chủ yếu, xuyên suốt bên trong những nhân tố như
là văn hoá – xã hội. Trường phái học cổ điển làm nền móng cho trường phái
mới, sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Về cơ bản, chúng sẽ chia sẻ
sự giống nhau về từng phần của trường phái mới (có liên hệ với các nước ở
phương Tây), đó là khái quát về lợi ích của các nước thế giới thứ 3.
Tuy nhiên, có nhiều điểm khác nhau giữa trường phái cổ điển và
trường phái mới. Các thành viên của trường phái mới đã bắt đầu tìm hiểu.
Một mặt, họ quay trở lại lợi dụng những nhà phê bình tư tưởng Mác của họ
như là những tuyên truyền viên, người mà đã hiểu sai lí luận của họ. Mặt
khác, họ thẳng thắn đưa ra những giả định cơ bản của trường phái học hiện
đại. Họ tránh sự xung đột xảy ra trong nhóm của họ. Họ không do dự để
đưa ra 1 số giả định không rõ ràng về trường phái học cổ điển. Những giả
định mới này rất khác trường phái học cổ điển của những người ủng hộ
trường phái cũ.
Đầu tiên, trường phái hiện đại mới tránh sự đối xử truyền thống và cái
hiện đại như không chấp nhận những tư tưởng lệch lạc của nhau. Nghiên
cứu trường phái hiện đại mới, nét truyền thống và hiện đại không chỉ có thể
2
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
song song cùng tồn tại mà chúng còn có thể xâm nhập và hoà trộn lẫn nhau.
Tiếp nữa, thay vì tranh cãi về truyền thống là sự cản trở phát triển , trường
phái hiện đại mới đã cố gắng thể hiện những lợi ích, vai trò của truyền
thống. Những quan niệm mới đã được phát hiện trong những lần nghiên cứu
mới. Những nhà nghiên cứu trường phái hiện đại hoá mới đã đặt trọng tâm
nhiều về đặc điểm của truyền thống ( như là chủng tộc và tôn giáo) hơn họ
làm trước đây.

Thứ hai, có sự thay đổi trong phương pháp luận: thay vì nghiên cứu ở
cấp độ trừu tượng hoá cao, trường phái hiện đại hóa mới hướng tới sự tập
trung vào từng trường hợp cụ thể. Lịch sử thường thể hiện rõ ràng về giai
đoạn phát triển trong một đất nước cụ thể. Thông thường trong trường phái
học này được bổ sung tương đối như là nghiên cứu tại sao cùng một sự thiết
lập giống nhau lại có vai trò khác nhau trong đất nước khác nhau.
Thứ ba, với thành quả của bảo vệ sứ mệnh lịch sử của trường phái học
mới này không giả định theo một hướng duy nhất của sự phát triển hướng về
phía Tây hiện đại. Theo các nhà nghiên cứu, họ cho rằng các nước thế giới
thứ 3 có thể theo đuổi con đường phát triển vận mệnh của họ.
Cuối cùng, trường phái hiện đại hóa mới chú trọng nhiều hơn vào các
nhân tố bên ngoài (quốc tế). Mặc dù họ vẫn còn tập trung trên các yếu tố nội
bộ, nhưng họ không bỏ qua vai trò của các yếu tố bên ngoài trong việc định
hình sự phát triển của các nước thế giới thứ 3. Ngoài ra, họ chú trọng hơn
nữa về hiện tượng của sự xung đột. Họ thường kết hợp các yếu tố xung đột
giai cấp , sự thống trị tư tưởng và cuộc cách mạng tôn giáo vào phân tích của
họ.
Bảng 4.1. So sánh các nghiên cứu HĐH cổ điển với nghiên cứu của trường phái
HĐH mới
Hiện đại hoá cổ điển Hiện đại hoá mới
Sự giống nhau:
• Trọng tâm nghiên
cứu
Sự phát triển của các nước
thế giới thứ 3
Tương tự
3
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
• Quy mô phân tích
Cấp quốc gia Tương tự

• Chính biến
Các nhân tố bên trong: giá
trị văn hoá – xã hội và các
tổ chức xã hội
Tương tự
• Thuật ngữ chính
Truyền thống và hiện đại Tương tự
• Hàm ý chính sách
HĐH nói chung là có lợi Tương tự
Sự khác nhau:
• Về truyền thống
Truyền thống là 1 trở ngại
cho sự phát triển
Truyền thống là 1 yếu tố
hỗ trợ sự phát triển
• Về phương pháp
Xây dựng ở mức độ cao
cấp trừu tượng
Phân tích cụ thể từng
trường hợp nghiên cứu
riêng biệt
• Về hướng phát
triển
Theo con đường 1 chiều về
phía mô hình của Mỹ
Theo nhiều chiều hướng
phát triển khác nhau
• Về các yếu tố bên
ngoài và sự xung
đột

Không được chú ý Chú ý nhiều hơn
Bởi vì sửa đổi một số giả định cơ bản của các trường phái hiện đại hoá
, các nghiên cứu hiện đại hoá mới đã mở ra một bước tiến mới của chu trình
nghiên cứu trong các phần sau đây . Một số vấn đề nghiên cứu giải quyết
bằng các nghiên cứu hiện đại hoá mới sẽ được thảo luận. Chẳng hạn như làm
thế nào để thúc đẩy kinh doanh hộ gia đình ở Hồng Kông? Tôn giáo dân
gian đã định hình hiện đại hoá của Nhật Bản như thế nào? Đạo Hồi đã liên
quan đến cuộc cách mạng Iran như thế nào? Và làm thế nào để môi trường
quốc tế ảnh hưởng tới sự phát triển dân chủ ở các nước thế giới thứ 3.
II - CÁC NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH:
1. Wong: Kinh doanh gia đình
2. Davis: Xem xét lại tôn giáo của Nhật Bản
3. Banuazizi: Cách mạng Hồi giáo ở Iran
4. Huntington: Nhiều nước sẽ trở nên dân chủ?
4
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
1. WONG: KINH DOANH GIA ĐÌNH
Nghiên cứu của Wong (1988) bắt đầu với một phê phán của nhà
nghiên cứu lý thuyết hiện đại hóa cổ điển của gia đình truyền thống Trung
Quốc. Trong văn học hiện đại hóa cổ điển, các gia đình Trung Quốc được
xem như một lực lượng mạnh mẽ của truyền thống lâu đời, làm yếu đi kỷ
luật công việc, cản trở việc lựa chọn thị trường tự do của lao động, khuyến
khích cá nhân đầu tư, sự hợp lý hoá bị tắc nghẽn và ức chế sự nổi lên của
một doanh nghiệp. Kết quả là các nhà nghiên cứu HĐH cổ điển chủ chương
loại bỏ các giá trị truyền thống gia đình Trung Quốc để hiệu quả kinh tế
được tăng lên. Tuy nhiên, Wong lập luận rằng hiệu ứng kinh tế tiêu cực này
của các giá trị truyền thống Trung Quốc đã được phóng đại. Ảnh hưởng của
gia đình về tổ chức nội bộ của các doanh nghiệp ở Hồng Kông đặc biệt là
việc làm và quyền sở hữu gia đình. Wong chứng tỏ rằng các gia đình có tác
động tích cực đến phát triển kinh tế.

Đầu tiên, ông đã chỉ ra có hình thức quản lý kiểu gia trưởng tại các
doanh nghiệp của Hồng Kông. Nghiên cứu của Wong (1988, p.137) cho thấy
có “ các tổ công nghiệp, những người thực hiện kiểm soát chặt chẽ, xa lánh
các đoàn đại biểu của quyền lực, trao trợ cấp phúc lợi nhân viên của họ như
đặc ân, đóng vai người gìn giữ đạo đức cho cấp dưới của họ, trái ngược với
pháp luật về bảo hộ lao động và không được chấp thuận của các hoạt động
công đoàn. Wong chỉ ra rằng gia đình sẵn sàng cung cấp tạo văn hoá để bảo
trợ hợp pháp một mối quan hệ ông chủ-khách hàng giữa chủ đi thuê và
người làm thuê. Nền tảng kinh tế của gia đình là nó sẽ giúp các doanh
nghiệp thu hút và giữ chân người lao động trong ngành công nghiệp đầy
biến động trong sản xuất này. Hệ quả chính trị của gia đình là nó làm chậm
sự tăng trưởng của ý thức giữa các tầng lớp người lao động. Wong khẳng
định rằng, lao động bất mãn được thể hiện nhiều hơn trong các hình thức
hành vi cá nhân chẳng hạn như vắng mặt nhiều hơn so với các hành vi của
việc thương lượng tập thể và đình công.
Thứ hai, gia đình trị - tuyển dụng thân nhân của họ vào doanh nghiệp
- cũng có thể góp phần vào sự thành công của các công ty Hồng Kông.
Wong lưu ý rằng hầu hết những người Trung Quốc sẽ nhờ người thân cho
công việc chỉ như một phương sách cuối cùng. Thân nhân thường chỉ là một
5
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
phần nhỏ của toàn thể các nhân viên trong công ty. Mặt khác, với các công
ty nhỏ, các thành viên gia đình cung cấp một lực lượng đáng tin cậy và giá
rẻ. Trong thực tế, họ mong rằng họ hàng thân thiết sẽ làm việc cứng hơn cho
việc trả ít tiền lương hơn, giúp nâng cao sức cạnh tranh của các công ty
trong thời kỳ suy thoái. Nếu thành viên gia đình đang ở các vị trí quản lý,
doanh nhân Trung Quốc thường cẩn thận trang bị cho họ với hình thức giáo
dục tốt như đào tạo tại chức. Do đó, Wong lập luận rằng các nhà quản lý là
hiếm khi nhân viên không đạt chuẩn với năng lực kém.
Thứ ba, Wong chỉ ra chế độ gia đình sở hữu, vào năm 1978, có gần

60% các nhà máy nhỏ ở Hồng Kông đã được sở hữu bởi cá nhân người chủ
và gia đình của họ. Wong cũng chỉ ra rằng nguyên tắc gốc theo phụ hệ đã
dẫn đến một đơn vị quan hệ họ hàng rời rạc và lâu dài của công ty, đó là lợi
cho quản lý hay nguồn lực kinh tế. Thậm chí nếu gia đình phân chia được
đưa ra, nó sẽ đi theo hình thức lợi nhuận hơn là phân mảnh vật chất của bất
động sản trong gia đình. Với những đặc điểm của gia đình, Wong (1988,
p.142) khẳng định rằng những thế mạnh cạnh tranh của các công ty gia đình
ở Trung Quốc là đáng kể.
Ở đó tồn tại một biện pháp mạnh mẽ hơn lòng tin giữa các thành viên
gia đình mà không liên quan giữa các đối tác kinh doanh, sự đồng thuận
được dễ dàng đạt được hơn, sự cần thiết về khả năng là giảm. Các yếu tố
này cho phép các công ty gia đình được thích nghi hơn trong hoạt động của
họ. Họ có thể đưa ra quyết định nhanh chóng trong quá trình thay đổi hoàn
cảnh và duy trì bí mật lớn hơn bằng cam kết ít hơn để ghi lại bằng văn bản.
Kết quả là họ hoàn toàn phù hợp để tồn tại và phát triển mạnh trong các tình
huống với mức độ rủi ro cao.
Vì vậy, thay vì việc xem gia đình như phương pháp để phát triển
kinh tế, Wong lập luận cho một bản chất năng động kinh tế của kinh doanh
gia đình. Bản tính này liên quan đến gia đình như là một đơn vị cơ bản của
cuộc cạnh tranh kinh tế, cung cấp động lực hướng tới sự đổi mới và rủi ro.
Hơn nữa, Wong lập luận rằng bản chất này không chỉ tồn tại trong số các
nhà doanh nghiệp, mà trong tất cả các xã hội của Hồng Kông.
6
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Kinh doanh gia đình có ba đặc điểm phân biệt. Thứ nhất là mức độ
cao, tập trung trong việc ra quyết định nhưng với mức độ thấp của cơ cấu tổ
chức. Thứ hai, quyền tự chủ được đánh giá cao và tự làm việc được ưa thích.
Các lý tưởng chung, các nhà quản lý và người lao động như nhau, trở thành
ông chủ của chính mình. Vì lòng trung thành không thể quản lý được giả
định, sử dụng lao động dựa trên thực tế chủ nghĩa gia trưởng, giám sát chặt

chẽ đoàn đại biểu tối thiểu của các cơ quan như là một phương tiện đối phó
với tình trạng này. Thứ ba, các công ty gia đình hiếm khi chịu đựng và họ
đang liên tục thông lượng. Ngoài ra các doanh nghiệp đều không tham gia
vào quyền tự chủ kinh doanh.
Nếu gia đình đóng một vai trò quan trọng như vậy tại Hồng Kông, tại
sao nó không nhận ra tiềm năng của nó trong quá khứ trên lục địa Trung
Hoa? Đối với Wong, giải thích nằm trong một mối quan hệ xã hôi bên ngoài
của gia đình. Mặc dù gia đình vẫn là một lực lượng kinh tế đang hoạt động,
trong quá khứ có lẽ nó đã được kiểm tra bởi một nhà nước bận tâm tới
nhiệm vụ hội nhập , kỳ dị sinh thái và môi trường kinh tế mà thành lập “cấp
độ cân bằng cái bẫy”. Ở Hồng Kông, những ràng buộc bên ngoài của nhà
nước và môi trường được gỡ bỏ. Như Hồng Kông được quản lý bởi một môi
trường thuộc địa được loại bỏ. Do đó, các gia đình tại Hồng Kông đã nhận
ra tiềm năng như là động cơ của phát triển kinh tế.
Tóm lại, Wong chỉ trích các HĐH cổ điển để nhìn ra vai trò năng
động của gia đình Trung Quốc trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Xu
hướng của họ để xem mọi người tách biệt rõ ràng giữa Châu Âu và Trung
Quốc, kết quả không có khả năng của họ để hiểu được vai trò của gia đình.
Wong tin rằng kinh nghiệm của Châu Âu về phát triển tư bản là không có
khả năng được nhân rộng ở Trung Quốc; mô kình khác nhau của cơ cấu xã
hội Trung Quốc nhất thiết sẽ gây mô hình phân kỳ của HĐH. Wong tiếp tục
cho rằng gia đình Trung Quốc có thể khác của Hàn Quốc và các đối tác Nhật
Bản vì sự khác biệt trong cấu trúc xã hội. Như vậy vai trò của gia đình Hàn
Quốc và Nhật Bản trong phát triển kinh tế có thể là đặc biệt.
7
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
2. DAVIS: XEM XÉT LẠI TÔN GIÁO Ở NHẬT BẢN
• Lý thuyết chạy vượt rào (Weber 1958)
• Lý thuyết rào cản (Davis 1987)
• Viết lại lịch sử tôn giáo của Nhật Bản

• Nhật Bản: xã hội công nghiệp hậu Khổng giáo
Lý thuyết chạy vượt rào
Theo Davis, Weber (1958) đã cung cấp một lý thuyết về rào cản là
quá trình phát triển như là một cuộc thi chạy vượt rào mở rộng trải dài từ
vạch xuất phát (xã hội truyền thống) và đích (xã hội hiện đại). Trong cuộc
đua này, đấu thủ chạy đua (tức là, các quốc gia đang phát triển) ai thành
công trong việc khắc phục tất cả các hàng rào của khóa học được thưởng với
các danh hiệu " hợp lý " và nền văn minh hiện đại.
Sau đó những gì là những rào cản của sự phát triển? Để tới được đích
cần phải vượt qua các rào cản:
• Đầu tiên, các nhà phát triển phải vượt qua rào cản kinh tế để đạt được
chính các đặc trưng cơ bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa
• Thứ hai, rào cản chính trị - xã hội thay thế với mối quan hệ kinh tế và
tổ chức hành chính, pháp luật tách các địa điểm kinh doanh và khu
dân cư phân biệt tài sản cá nhân và tài sản công ty.
• Thứ ba, rào cản tâm lý (thành tích, lợi nhuận… ) nét đặc trưng của
tinh thần cũng như nghĩa vụ trong quá trình làm việc.
Những sự nghiên cứu của Weber về tôn giáo bắt đầu một khuynh
hướng của việc tìm kiếm những sự tương tự với đạo Tin lành trong Nhật
bản, Hàn Quốc, Singapore và các nước Thế giới thứ ba. Vào những năm
1950, như được thảo luận trong chương 3, Bellah (1957) cho rằng Tokugawa
tôn giáo cung cấp nguồn của một "hệ thống giá trị trung ương" để đưa Nhật
Bản vào chủ nghĩa tư bản hiện đại. Những năm 1980, Moshima (1982) lấy
quan điểm của Bellah và lập luận cho rằng thành công của Nhật bản là do
8
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
lòng trung thành của Nho giáo, dân tộc và toàn xã hội và đặc biệt là tầng lớp
Samurai với quan điểm lòng trung thành tuyệt đối. Có thể được quy cho di
sản của Khổng Tử, Nhật Bản thất bại trong việc hấp thụ "chủ nghĩa tự do,
quốc tế, và cá nhân của phương Tây mặc dù Nhật Bản nhập khẩu khoa học,

công nghiệp và công Nghệ của các nước này.
Ông cũng khẳng định với những nét đặc biệt về tôn giáo và văn hóa
đó mà Nhật Bản khó có thể hấp thụ được những sự tiến bộ của văn hóa
phương Tây như là chủ nghĩa tự do, tinh thần quốc tế, chủ nghĩa cá nhân…
trong khi Nhật Bản đang nhập khẩu công nghệ công nghiệp và khoa học của
phương Tây.
Thiếu sót của Weber: Theo Davis, Weber và những người theo ông đã
mắc một số lỗi sau trong quá trình nghiên cứu:
• Họ đã giả thiết tôn giáo là nguồn giá trị trung tâm làm ảnh hưởng tới
tất cả các khía cạnh của xã hội hơn là một hệ thống giá trị trung tâm.
Họ đã dựu nhiều vào đó để giải thích, đã quá chủ quan trong suy nghĩ.
• Weber và những người theo ông đã có xu hướng nhấn mạnh vào nét
đặc biệt của tôn giáo Nhật để giải thích sự thành công của nền kinh tế
mà không để ý tới các yếu tố khác như là thị trường, sự cạnh tranh,
xung đột,…. hoặc vai trò của chính phủ như là thuế, lương bổng, công
nghiệp…
Lý thuyết rào cản
Sau phê bình lý luận của Wrong là tới quan điểm lý luận của Davis về
lý thuyết hiện đại hóa.
Nội dung chính nói về các mối quan hệ phức tạp giữa tôn giáo và sự
phát triển ở Anh nói chung và ở Nhật Bản nói riêng.
Sau khi bác bỏ lý thuyết trở ngại của Weber, Davis đưa ra một lý
thuyết mới của chướng ngại vật. Lý thuyết rào cản này nhìn vào tôn giáo chủ
yếu từ điểm nhìn của sự hiện đại hoá và phát triển, và ông giả định rằng trở
ngại trên con đường phát triển đơn giản chỉ có thể vượt qua trong quá trình
chạy đua. Davis cung cấp thêm tình hình tương tự từ quan điểm của xã hội
truyền thống cách thiết lập rào chắn như thế nào để bảo vệ mình khỏi sự tiến
9
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
bộ đột phá của các giá trị tư bản.Những gì xã hội truyền thống lo sợ không

phải là tiến bộ mà là sự hỗn loạn xã hội và suy đồi đạo đức do tự do thuơng
mại và thương mại mang lại.
Trong việc trình bày lý thuyết của ông về chướng ngại vật truyền
thống, Davis mô tả xã hội truyền thống bao gồm 3 vòng tròn đồng tâm (xem
hình 4.1)
A – Xã hội
B – Các rào cản: tôn giáo, phép
thuật, đạo đức, truyền thống dân
gian.
C – Nền kinh tế (bị bao vây)
Hình 4.1. Mô hình xã hội truyền
thống của Davis
• Vòng trong cùng (C) đại diện cho các nền kinh tế và giá trị của nó (ví
dụ thành tích và sự phổ biến).
• Vòng ở giữa (B) đại diện các “chướng ngại vật miễn dịch” mà xã hội
truyền thống dựng lên đối với nền kinh tế (gồm các điều cấm kị, phép
thuật, truyền thống tôn giáo, đạo đức, pháp luật, triết học, tôn giáo và
các loại tương tự).
• Vòng ngoài cùng (A) đại diện cho xã hội và các giá trị của nó.
Davis khái niệm về vòng giữa là tạo ra từ các tổ chức bảo vệ mà có
thể giữ cho nền kinh tế trong sự kìm hãm. Vòng giữa này hoạt động một
cách tương tự như nền kinh tế đóng (1994) của Polany mà hạn chế phạm vi
của thị trường này bởi các nghi thức truyền thống và nghi lễ, bảo đảm rằng
thị truờng sẽ hoạt động trong giới hạn hẹp.
Trong mô hình rào cản của Davis (1987) thì “phát triển kinh tế diễn ra
không chỉ khi một đối phương (nghĩa là hiện đại hoá hoặc phát triển) xâm
nhập quy mô các thành luỹ của xã hội mà còn khi những rào cản bị suy yếu
và sụp đổ”.
10
Lý thuyết phát triển Nhóm 4

Trong hình 4.2, các kẽ hở của các chướng ngại vật tôn giáo (được vẽ
bởi những đuờng chấm chấm) đã cho phép các nền kinh tế và giá trị của nó
mở rộng và xâm nhập vào phạm vi của xã hội. Thông qua các ẩn dụ rào
chắn, Davis đã diễn giải lại sự phát triển của xã hội tư bản ở Phương Tây.
Một nền kinh tế hợp lý ra đời không chỉ vì “sự sôi nổi của đạo Tin lành”
chiếm lĩnh thị truờng với “lòng nhiệt thành của Chúa” mà vì những ngưòi
theo đạo Cơ Đốc đã hững hờ,chống cự quá yếu với sự bóc lột. Ở Anh, các
nhà thờ hầu như không có gì để nói về sự đau khổ (như nghèo đói, kìm hãm
và bóc lột) của sản xuất bởi đổi mới của đạo Tin lành.

A – Xã hội (vòng ngoài cùng)
B – Các rào cản cũ
C – Nền kinh tế (đang phát
triển) (vòng trong cùng)
Mô hình rào chắn này nó cung cấp cách tiếp cận mới cho việc kiểm
tra mối quan hệ giữa tôn giáo và sự phát triển. Thay vì tập trung vào việc đổi
mới cách nhảy qua rào cản thì cách tiếp cận mới của Davis cần thiết cho một
phân tích về các hoạt động của nhưng nguời bảo vệ tôn giáo và truyền thống.
Davis cho rằng chúng ta phải cẩn thận các thuộc tính cho những nguời mới
có cùng 1 năng lực mà chúng ta gán cho sự đổi mới tiến bộ:
Chúng ta phải hướng dẫn cho họ khả năng lé tránh, lẩn trốn, giả mạo,
âm mưu, phối hợp, phản bội, sự thoả hiệp và thậm chí là phải đầu hàng kẻ
thù và phải làm thế nào để họ tự hào về sự phát triển đó như sự phát triển
của bản thân họ. Cách hùng biện và chiến lược của họ đã góp phần tạo chiến
thắng và thực hiện một phần của tổng thể kế hoạch phát triển bản thân.
11
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Viết lại lịch sử tôn giáo của Nhật Bản
Sử dụng mô hình rào chắn của mình, Davis nỗ lực để diễn đạt lại mối
quan hệ giữa tôn giáo Nhật và sự phát triển. Ông tập trung vào 2 khía cạnh:

(1) Các mặt tiêu cực của tôn giáo (Tại sao tôn giáo Nhật không cản trở
sự thay đổi?)
(2) Các măt tích cực của tôn giáo (Tôn giáo Nhật làm thế nào để thúc
đẩy sự phát triển?)
Mặt tiêu cực: Davis cho rằng tôn giáo Nhật Bản đã đặt ra không có
cản trở sự thay đổi vì những lý do sau đây. Thứ nhất, đối với Phật giáo, nó
đã làm gì để ngăn chặn sự phát triển nhanh chóng của các vùng nông thôn
Nhật Bản. Không giống như Hồi giáo, Phật giáo không tìm cách áp đặt luật
thần thánh ở trên xã hội mà cuối cùng ngăn cản sự thay đổi. Ví dụ như Phật
giáo áp đặt không hạn chế về nghề nghiệp của một người. Những thầy tu
Phật chỉ giới hạn những công tác của họ để tang và thực hiện những thói
quen của các nghi lễ tổ tiên.
Thứ hai, từ Thần giáo không có những giáo chủ phổ thông để giám sát
việc thi hành những tuyên bố của mình để dành được các nguồn lực hiện đại
hóa. Davis (1987) đã làm sáng tỏ điểm này: “Nếu một lễ hội can thiệp vào
lịch trình làm việc mới, nó được hoãn lại, cắt bớt, hoặc đơn giản chỉ giảm
ngày lịch. Những điều cấm kỵ cổ là giới hạn sự giao tiếp với những người
ngoài một cách thận trọng bị bỏ qua hoặc bị lãng quên.”
Thứ ba, vì sự cùng tồn tại của Nho giáo, Phật giáo sang Thần giáo, có
lòng khoan dung độ lượng phát triển các giá trị tôn giáo ở mức độ cao tại
Nhật Bản. Hơn nữa, Nhật Bản thậm chí còn phát triển giá trị thực tế của
nhiều đảng phái tôn giáo. Davis lập luận rằng mô hình về khoan dung tôn
giáo này cho phép Nhật Bản vay mượn khoa học, công nghệ và văn hóa của
thế giới phương Tây với chi phí tâm lý tối thiểu.
Thứ tư, Nhật Bản đô thị hóa đã thúc đẩy một thế tục hóa của tôn giáo,
dẫn đến điều này- tinh thần thế gian trong số những nhà buôn thành thị và
những người học Nho giáo.
12
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Thứ năm, Davis quan sát sự bùng nổ sau chiến tranh trong các tôn

giáo mới, với phong trào quần chúng lớn được thành lập bởi sức lôi cuốn
của những nhà lãnh đạo mà đánh những sự pha chế mới trong những chạn
bát cũ của Thần giáo, Phật giáo, Kitô giáo và Nho giáo. Những tôn giáo mới
đẩy mạnh sự kính trọng tổ tiên, chủ nghĩa vị chủng trước chiến tranh và
những giá trị truyền thống khác. Các thành viên của họ được tuyển chọn từ
các phân đoạn dân số bị tổn thương bởi quá trình công nghiệp hóa nhanh
chóng của Nhật Bản. Không được bảo vệ bởi các ngành công nghiệp lớn hay
các công đoàn lao động, bị áp bức là những bí phương luôn mang tính tôn
giáo hay ảo thuật, như một câu thần chú mà có thể chăm sóc mọi điều hay
hứa hẹn mơ hồ về sự xuất hiện của một "vị Phật Thích ca trong tương lai"
người sẽ thiết lập mọi thứ. Các tôn giáo mới của loại này đã giúp các tín đồ
đối phó với một thế giới tàn tạ, cho phép họ chấp nhận những gánh nặng bất
bình đẳng của một xã hội phát triển nhanh, và do đó hiếm khi có trong con
đường phát triển.
Mặt tích cực:
- Ông cho rằng tôn giáo thường được sử dụng rộng rãi làm tăng năng
suất và hiệu quả làm việc.
- Tôn giáo góp phần phát triển đạo đức nghề nghiệp.
- Nền công nghiệp Nhật chú trọng vào việc truyền tải hoạt động tôn
giáo đạo đức cho công nhân thông qua việc tham gia các hoạt động nghi
thức khác nhau, các buổi huấn luyện và giáo dục về tinh thần.
Kết luận, các yếu tố tích cực của tôn giáo đối với sự phát triển kinh tế:
ở Nhật, tôn giáo tăng cường sự phát triển kinh tế thông qua việc phát triển
đạo đức nghề nghiệp, cân bằng tâm linh, hình thành tính cách người Nhật
(đã là người Nhật thì phải làm việc chăm chỉ trung thành và ngay thẳng).
Tuy nhiên, Davis cũng lưu ý rằng ngành công nghiệp của Nhật bản
nhấn mạnh việc truyền tải hoạt động tôn giáo, đạo đức cho công nhân (từ
trên xuống) thông qua cách tham gia các nghi thức khác nhau, các buổi huấn
luyện và giáo dục về tinh thần. Ngoài ra, đạo đức là công việc tuyên truyền
trong các lý thuyết của Nhật Bản làm việc của Morishima. Nhấn mạnh tính

13
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
độc đáo của người Nhật là một người phải làm việc chăm chỉ, trung thành và
chân thành. Thông qua sự bảo trợ của chính phủ Nhật Bản với ngành công
nghiệp, công việc được làm một phần dựa trên các giá trị của sự hòa hợp,
thống nhất, đồng thuận, lòng trung thành, chân thành, và các dịch vụ vị tha
cho gia đình của cá nhân, công ty và quốc gia.
Theo Davis quan sát như có một hỗn hợp của các tôn giáo dân sự và
làm việc đạo đức để có một hỗn hợp của các tôn giáo dân sự và tư tưởng
kinh doanh.
Trong thời kỳ Tokugawa, trường học Nho giáo nhằm mục đích sản
xuất những người đàn ông nên thái ấp của họ. Sau đó, các tham vọng cùng
được hợp pháp hóa trong tên của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản. Các nhà giàu
mới tại Nhật Bản chứng minh sự giàu có của mình trong tên của gia đình và
quốc gia, càng nhiều càng sớm tiếng Anh dành riêng cho các doanh nhân
thành quả của lao động của mình cho vinh quang của Thiên Chúa và cải
thiện các bất động của con người.
Tuy nhiên, Davis lập luận rằng sự pha trộn của các tôn giáo dân sự và
tư tưởng kinh doanh đã không thành công. Trong thập niên 1920, các truyền
thống Nho giáo "rào cản" được tổ chức trên thế giới. Các tầng lớp doanh
nghiệp thất bại trong việc xây dựng một lý do thuyết phục cho tư bản và họ
đã lên án sự ích kỷ và sự buôn bán lợi nhuận của họ. Điều này dẫn đến sự
gia tăng của quân phiệt và chủ nghĩa phát xít, để lại rất ít không gian cho nền
dân chủ phương Tây phát triển.
Nhật Bản: xã hội công nghiệp hậu Khổng giáo
Davis lập luận rằng do những năm 1980, một ít rào cản biện hộ cho
chủ nghĩa truyền thống. Thay vì được gắn vào xã hội trong giai đoạn truyền
thống, kinh tế bây giờ mở rộng và lấy phí của xã hội hiện đại. Hôm nay, nó
là ngành công nghiệp mà hỏi để được an toàn khỏi sự xâm nhập của xã
hội.Đối với Davis, những chướng ngại vật mới bao gồm những người thuyết

giáo trường kỳ " (của) sách Phúc âm (của) sự giàu, Reaganomics, cải cách
hành chính, lý thuyết Nhật bản. Đứng(vị trí) bên cạnh họ, tuy nhiên, là
những người truyền bá phúc âm, shamans, những nhà ảo thuật, và những
14
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
thầy tu cao (của) những tôn giáo cả truyền thống lẫn Mới mà bây giờ ban
phúc chính bọn họ những cơ quan một lần bị nguyền rủa "
Tóm lại, Davis tóm tắt rằng con số 3 của ông không phải là dự định
được xem như là một mô hình phát triển của mỗi phía Đông Nam. Thay vào
đó, họ chỉ nêu bật cách thức mà tôn giáo xâm nhập xã hội, và cách thức các
nền kinh tế đã trở thành "hàng rào". Davis cũng muốn nhắc nhở độc giả của
ông về các chức năng hoặc vai trò hợp pháp của các tôn giáo, và cách tôn
giáo chính nó đã được chuyển đổi để thích nghi vai trò mới trong phát triển.
Davis khẳng định rằng sự suy tàn của tôn giáo không còn cần được thực hiện
cho các cấp và tôn giáo mà dân gian và ma thuật có thể tiếp tục tồn tại và
cộng tác với các cơ sở giáo dục của xã hội hiện đại.
3. BANUAZIZI: CÁCH MẠNG HỒI GIÁO Ở IRAN
Giống như Davis, người đã xem xét vai trò của các tôn giáo dân gian
trong phát triển, Banuazizi lập luận cho một sự đánh giá cao hơn của truyền
thống ở bên phải của riêng mình. Tiếp theo xu hướng cuối thập niên 1960,
Banuazizi (1987) chỉ trích các nhà lý thuyết hiện đại hóa các cổ điển cho
ngừng khơi dậy những hình ảnh lý tưởng của xã hội phương Tây hiện, định
nghĩa truyền thống về dư và tiêu cực, và lập luận rằng thế giới thứ ba đã để
thoát khỏi chướng ngại vật truyền thống của mình trước khi hiện đại hóa có
thể xảy ra Banuazizi chủ trương đưa trở lại truyền thống;sự tín ngưỡng có
thể được như phản xạ, sáng tạo và đáp ứng nhu cầu cá nhân và tập thể như là
đối tác của nó có thể hiện đại và truyền thống đã bao la tiềm năng huy động
xã hội và thay đổi.
Từ khía cạnh này, Banuazizi quan sát hồi sinh của một phong trào
truyền thống ở dạng các trỗi dậy Hồi giáo "". Trong những năm 1980, đã có

hầu như không một quốc gia Hồi giáo trong đó hồi sinh Hồi giáo đã không
đã có một tác động đáng chú ý, về hình thức và nội dung chính trị, về việc
bác các giá trị phương Tây và phong cách sống hoặc về việc chấp hành
nghiêm ngặt của các mã Hồi giáo và thực thi thiêng luật. Đặc biệt, Banuazizi
kiểm tra một trong những outbursts kịch tính nhất của phục hưng cuộc Cách
mạng Hồi giáo Iran của 1977-1979. Iran là trường hợp đặc biệt đáng chú ý
bởi nó là chỉ người lãnh đạo phong trào đã thực sự mang lại một chế độ cơ
15
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
sở Hồi giáo đến quyền lực. Những nguyên nhân của Cách mạng Iran được
gì? Làm thế nào thú trường hợp này có thể nâng cao sự hiểu biết của chúng
ta về các nghiên cứu hiện đại hóa mới?Trong các phương tiện truyền thông
phương Tây, các phong trào trỗi dậy Hồi giáo đã được miêu tả như là cực
đoan, lỗi thời và lui lại. Từ điểm nhìn của những nghiên cứu hiện đại hóa cổ
điển, các phong trào đã được chỉ của một sự cố trong xây dựng cơ sở giáo
dục theo chủng của quần chúng và vận động chính trị xã hội nhanh chóng.
Nó đã sợ rằng phong trào này sẽ đem lại những chế độ độc tài, leo thang
conficts ethnoreligious và tan vỡ chính trị. Đối với cuộc Cách mạng của Iran
1977-1979, sự trỗi dậy của hồi giáo thường được miêu tả như là một sự phản
đối của các phần tử phản động, chẳng hạn như các giáo sĩ đạo hồi, những
người đã thông qua một phản ứng phòng vệ chống lại hiện đại hóa ở Iran.
Banuazizi lập luận rằng những diễn giải là một trong những mặt vì họ
không xem xét các yếu tố như cấu trúc cơ sở, bộ phận văn hóa và tính chất
của các tôn giáo Shi'ite, cũng như các liên minh phức tạp của các lực lượng
xã hội khác nhau mà giải thích nguồn gốc của Cách mạng Iran
Trước tiên, Banuazizi điểm đến rễ cấu trúc của Cách mạng Iran.
Trong những năm 1970, Iran đã trải qua, bao gồm hiện đại hóa, bao gồm cả
công nghiệp nặng, đô thị hóa, mở rộng giáo dục chính thức, và tăng trưởng
của các phương tiện thông tin đại chúng
Tuy nhiên, hiện đại hoá làn sóng ủng hộ chủ yếu là phương Tây, phần

lớn đô thị, trên và giữa các tầng lớp lao động và các tầng lớp quý tộc ""
trong ngành công nghiệp hiện đại. Cánh cùng đã được hiện đại hoá ngày
càng tăng sự bất bình đẳng về cấu trúc, sự điều hành của shah(người đứng
đầu iran) để các bang Kỳ, khinh của shah cho nền văn hóa Hồi giáo, và đàn
áp và tham nhũng của chế độ đặc hữu của shah. Những mâu thuẫn dẫn đến
sự phẫn nộ đối với shah ở hầu hết mọi tầng lớp dân số.
Thứ hai, các lực lượng sản xuất hiện đại đã sản sinh một bộ phận văn
hóa sâu sắc giữa một phân đoạn hiện đại nhỏ của tầng lớp Westerneducated
và một phân đoạn lớn truyền thống của nông dân, người nghèo đô thị,
thương nhân nhỏ, và các nghệ nhân. Các phân đoạn hiện đại ủng hộ các giá
trị như phương Tây như chủ nghĩa cá nhân, tự do, tự do và dân chủ, trong
16
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
khi phân khúc truyền thống tôn trọng các giá trị Hồi giáo, cuộc sống, phong
cách, và hành vi.
Thứ ba, bản chất độc đáo của các tôn giáo Shi'ite đã hành động để
phát triển cuộc cách mạng. trên cấp độ ý thức hệ, Shi'ism ở Iran không bao
giờ bị mất vốn tiềm năng của nó. Banuazizi giải thích
Biểu tượng mạnh mẽ của nó vững vàng, khó khăn trong việc theo đuổi
sự thật và hiển thị trong nghi thức khác nhau kịch tính của nó; năng lực vượt
trội của nó cho xung đột chính trị về tôn giáo; logic của chủ nghĩa dân tuý và
từ vựng ; và hứa hẹn một trật tự xã hội chỉ với trở lại của "Imam ẩn" làm cho
nó một tôn giáo bất thường của kháng mạnh mẽ.
Ngoài ra, giáo sĩ hổi giáo đã hành động như là các tầng lớp để lãnh
đạo cuộc cách mạng về phía trước. Họ có thể đóng một vai trò như vậy, vì
họ đã có từ lâu đã tích cực trong mọi phong trào đấu tranh lớn trong thế kỷ
qua, đã đóng kinh tế và quan hệ cá nhân với truyền thống giữa thành thị và
tầng lớp thấp hơn, có năng lực tài chính, và có thể sử dụng nhà thờ Hồi giáo,
đền thờ, và các hiệp hội lên tiếng than phiền công cộng và phê bình chế độ
với bị trừng phạt tương đối. Cuối cùng, đã có các yếu tố của charisma tôn

giáo. Khomeini là rất phổ biến trong các nhóm phản động khác nhau, và
những dân quân của ông đưa ra một bức tường phối hợp vận động cách
mạng, bằng cách sử dụng mọi hình thức truyền thống và hiện đại của giao
tiếp và kích động để nhận ra nhằm mục đích của họ.
Thứ tư, Cách mạng Iran là một loạt các cuộc cách mạng xã hội, liên
quan đến một liên minh các lực lượng xã hội và tư tưởng chính trị. Ở cấp độ
ý thức hệ, không có đơn, khối "tư tưởng Hồi giáo", nhưng một số hệ tư
tưởng và thế tục. mỗi một trong các hệ tư tưởng kêu gọi một nhóm xã hội,
đặc biệt là đóng vai trò trong cuộc đấu tranh cách mạng. ở phía bên hồi giáo
một mình, Banuazizi chỉ ra rằng có bốn biến thể
- Đạo hồi căn bản: hệ tư tưởng (của) người trí thức trẻ mà muốn quay Iran
vào trong một xã hội hồi giáo không có giai cấp
17
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
- Đạo hồi chiến sĩ: hệ tư tưởng, giai cấp tư sản nhỏ nhặt, và người bị tước
đoạt tài sản- những nhóm mà muốn thiết lập " Chúa trời " chính phủ trên trái
đất
- Đạo hồi Tự do: hệ tư tưởng (của) giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản-
những nhóm mà muốn chia sẻ sức mạnh với trạng thái xuyên qua những
phương tiện không bạo lực
- Đạo hồi truyền thống: hệ tư tưởng của các tầng lớp trung lưu cũ, một nhóm
desived trả lại trật tự cũ
Banuazizi lập luận rằng những lý tưởng và giá trị của hồi giáo có thể được
thực hiện như vậy đàn hồi rằng họ sẽ phù hợp với sở thích và xu hướng của
bất kỳ nhóm cụ thể. Ngoài ra, các giáo sĩ và các nhà lãnh đạo lôi cuốn được
hoạt động như xây dựng liên minh để mang lại cho tất cả các nhóm này lại
với nhau để huy động cách mạng, những gì chúng tôi đã học được từ phân
tích này của Cách mạng Iran?
Đầu tiên, giống như Davis, Banuazizi chỉ ra rằng, hiện đại hóa không
nhất thiết phải mang về sự mất đi của tôn giáo. Phong trào Riligious của Hồi

giáo có thể dễ dàng được điều kiện thuận lợi. Vì vậy, cuộc cách mạng Hồi
giáo ở Iran đã được nhìn thấy trong quan hệ với các quá trình lịch sử cụ thể
đã diễn ra trong xã hội đó, việc phát triển bất bình đẳng xã hội, văn hoá, đơn
vị, và ký tự vốn có của Hồi giáo dòng Shi'ite.
Thứ hai, Banuazizi nhận xét rằng các diễn viên truyền thống không
dường như bị cản trở bởi "của họ" đặc điểm. Do đó, tư tưởng truyền thống
dường như ít nhất là có hiệu quả trong một xã hội để thay đổi xã hội như bất
kỳ đối thế tục của họ hiện đại. Điều này áp dụng cho Shi'ite Hồi giáo như
InIsrael cũng như để Do Thái giáo Chính Thống, "thần học giải phóng"
trong tiếng Latin America, và nhà thờ Công giáo trong phong trào công nhân
của Poslish.
Thứ ba, phong trào truyền thống tôn giáo cũng có thể ảnh hưởng đến
những người đã tiếp xúc rộng rãi để hiện đại hóa các tổ chức (như các tầng
lớp trung lưu mới), cũng như các yếu tố cận biên xã hội (chẳng hạn như
người nghèo).Cuối cùng, sin 1979, Banuazizi đã chiến thắng của một yếu tố
18
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
truyền thống và loại bỏ của hầu như tất cả các nhóm khác đã tham gia vào
liên minh cách mạng ở Iran.Có một chiến dịch Hồi giáo, mở rộng điều khiển
của nó vào tất cả các lĩnh vực của đời sống công cộng và tư nhân. Dưới sự
quan sát này, Banuazizi khẳng định mở cửa trở lại.
4. HUNGTINGTON: NHIỀU NƯỚC SẼ TRỞ LÊN DÂN CHỦ HƠN?
Theo Banuazizi cung cấp một phân tích của Cách mạng Iran,
Huntington thực hiện một đánh giá toàn diện các yếu tố quan trọng liên quan
đến sự phát triển của nền dân chủ trong nước Thế giới thứ ba. Trong năm
1960, Lipset lạc quan giả thuyết phát triển kinh tế sẽ dẫn tới dân chủ. Trong
những năm 1970, với sự đổ vỡ của nhiều chế độ dân chủ, các nhà nghiên
cứu tại các trường học, hiện đại hóa trở nên bi quan về triển vọng cho dân
chủ trong thế giới thứ ba. Tuy nhiên, trong những năm 1980, những triển
vọng có vẻ đã sáng lại một lần nữa, và có một xu hướng nghiên cứu về khả

năng chuyển tiếp tới dân chủ.
Trong bối cảnh như vậy mà Huntington (1984) đặt câu hỏi: Liệu các
nước khác có trở thành dân chủ? Trong nghiên cứu câu hỏi này, Huntington
phân biệt hai nhóm yếu tố:
(1) Những điều kiện tiên quyết là ưu tiên phát triển dân chủ
(2) Các quá trình chính trị mà dân chủ phát triển đã xảy ra.
* Điều kiện tiên quyết của dân chủ.
Sau hai thập kỷ nghiên cứu, Hungtington cung cấp một phân tích phức
tạp hơn những điều kiện tiên quyết của nền dân chủ hơn biến phân tích của
Lipset. Ngoài các của cải kinh tế và bình đẳng, Hungtington đã xem xét cấu
trúc xã hội, môi trường bên ngoài, và bối cảnh văn hoá.
Đầu tiên là yếu tố của sự giàu kinh tế, kinh tế càng phát triển càng tạo
điều kiện lớn để trở thành dân chủ. Giả thuyết này giải thích về sự tương
quan giữa sự giàu mạnh, dân chủ là một nền kinh tế giàu có làm cho các cấp
có thể có tỷ lệ cao, giáo dục và tiếp xúc với phương tiện truyền thông đại
chúng, tất cả đều có lợi cho dân chủ. Một nền kinh tế giàu có cũng căng
thẳng chính trị thông qua việc cung cấp các cơ hội thay thế cho các nhà lãnh
đạo chính trị không thành công. Ngoài ra, nền kinh tế công nghiệp phát triển
phức tạp có thể không được quản lý hiệu quả bằng các phương tiện độc;
19
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
quyết định là nhất thiết phải phân tán, quyền được chia sẻ và quy định phải
được dựa trên sự đồng ý của những người bị ảnh hưởng bởi chúng. Hơn nữa,
một đất nước có nền kinh tế giàu có xu hướng có nhiều bình đẳng phân phối
thu nhập hơn làm nước nghèo, và do đó một khối lượng nhỏ hơn nghèo khổ.
Tuy nhiên, Huntington nảy sinh những vấn đề như mức độ phát triển
kinh tế như thế nào là cần thiết để có thể có sự chuyển đổi sang nền dân chủ.
Các quốc gia khác nhau đã trở thành dân chủ rộng rãi ở cấp độ khác nhau.On
Mặt khác, có rất nhiều nước, đặc biệt là ở Đông Á và Mỹ Latinh, mà đã đi
phát triển kinh tế và mặc dù chưa bật ra khỏi dân chủ. Trong đối lập với sự

giàu có Lispset của lý thuyết. O'Donnell (1978) đã phát triển một lý thuyết
về một hình thức mới và mạnh mẽ hơn của các nguyên tắc độc tài khi một
đất nước đang trải qua những chủng thay thế nhập khẩu.
Trong cố gắng để tiến hành hoà giải các chứng cứ mâu thuẫn trong
văn học này, Huntington đề xuất một khái niệm mới của khu vực chuyển
tiếp (hoặc chọn lựa). Theo khái niệm này, như các nước đang phát triển về
kinh tế, họ di chuyển vào một khu vực chuyển tiếp, trong đó cơ quan có
truyền thống chính trị ngày càng trở nên khó khăn để trở nên dân chủ. Phát
triển một mình không xác định hệ thống chính trị sẽ thay thế các cơ sở giáo
dục. . Thay vì di chuyển theo một hướng tuyến tính về hướng Tây-phong
cách dân chủ, các nước trong khu vực của quá trình chuyển đổi có thể có sự
lựa chọn trong số các lựa chọn thay thế khác nhau, và sự tiến triển trong
tương lai của họ là phụ thuộc vào sự lựa chọn lịch sử được thực hiện bởi
tầng lớp chính trị của họ. Tóm lại, sự giàu có kinh tế là điều kiện cần thiết
cho dân chủ, nó không phải là một đủ một. Một nghiên cứu của quá trình
chuyển đổi dân chủ, do đó, phải xem xét các yếu tố khác.
Yếu tố thứ hai là Huntington thảo luận về cơ cấu xã hội. Nếu có một
xã hội rộng rãi và riêng rẽ với các nhóm tương đối tự trị (như kinh doanh,
nghề nghiệp, tôn giáo, và các nhóm dân tộc), sau đó các nhóm sẽ cung cấp
cho các cơ sở cho việc kiểm tra của quyền lực nhà nước và các cơ sở cho
dân chủ chính trị. Nếu không có nhóm trung gian tự trị, sau đó các khả năng
sẽ bị chi phối bởi một bộ máy quyền lực tập trung trong những hình thức của
một chế độ quân chủ tuyệt đối, chế độ chuyên quyền là một phương Đông,
hoặc một chế độ độc tài.
20
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Huntington nhấn mạnh sự tồn tại của một giai cấp tư sản tự trị là quan
trọng nhất. Đồng ý với Barrington Moore, Huntington phát biểu: "không
có tư sản, không có dân chủ". Vấn đề với các nước Thế giới thứ ba là họ
thiếu một lớp tư sản tự trị đủ mạnh. Mặc dù có một số tăng trưởng kinh tế

trong các nước Thế giới thứ ba, nó là chủ yếu được thực hiện bởi nhà nước
và của các doanh nghiệp đa quốc gia. Khi phát triển kinh tế chạy trước sự
phát triển của một trong nước Thế giới thứ ba.
Một yếu tố quan trọng trong cơ cấu xã hội phát huy dân chủ là sự tồn
tại của nền kinh tế thị trường định hướng. Tất cả chính trị có nền kinh tế thị
trường định hướng, mặc dù không phải tất cả các nền kinh tế thị trường theo
định hướng được ghép nối với các hệ thống dân chủ chính trị. Lý
do, Huntington giải thích, là một nền kinh tế thị trường đòi hỏi một sự phân
tán của quyền lực kinh tế, từ đó tạo ra một kiểm trađể quyền lực nhà
nước. Một nền kinh tế thị trường do đó cho phép giai cấp tư sản đểhạn
chế quyền lực nhà nước và khai thác có nghĩa là dân chủ để phục vụ lợi
ích của mình. Ngoài ra, một nền kinh tế thị trường có khả năng làm tăng sự
giàu có về kinh tế và việc phân phối thu nhập công bằng hơn, cung
cấp các cơ sở hạ tầng của nền dân chủ.
Yếu tố thứ ba mà Huntington điểm nổi bật là môi trường bên
ngoài. Như Huntington nói ngắn gọn nhà nước dân chủ là kết quả của sự
khuếch tán hơn là phát triển, được gán cho một phần lớn và ảnh hưởng Anh
Mĩ, thông qua quyết toán, chế độ thực dân, thất bại trong chiến tranh, hoặc
khá áp dụng trực tiếp. nơi mà quân đội Mỹ đi trong chiến tranh thế giới II,
dân chủ theo sau. nơi mà quân đội Liên Xô đã đi, cộng sản tiếp . Về mặt
này, những thăng trầm của nền dân chủ trên quy mô toàn cầu là một chức
năng của việc gia tăng và sự suy giảm hoặc các nhà nước dân chủ mạnh
mẽ nhất. Sự lan truyền của dân chủ trong thế kỷ XIX đã cùng
với paxbritannica, và phần mở rộng của nền dân chủ sau khi chiến tranh thế
giới II phản ánh sức mạnh toàn cầu của các quốc gia thống nhất Ngược lại,
sự suy giảm của nền dân chủ ở Đông Á và Mỹ Latinh trong những năm 1970
là một sự phản ánh của sự suy tàn hoặc ảnh hưởng đến Mỹ. Điều này ảnh
hưởng đến dân chủ, như Huntington (1984, p.206) chỉ ra, "là giảm cả trực
tiếp, như là kết quả của những nỗ lực hoặc chính phủ Mỹ để ảnh hưởng đến
quá trình chính trị trong các xã hội khác, và cũng gián tiếp bằng cách cung

cấp một mô hình mạnh mẽ và thành công để được theo sau "
Hơn nữa, thông báo Huntington rằng ở một số vùng, một xu hướng
khu vực có thể tồn tại. Hơn nữa, chính phủ Mỹ latinh di chuyển theo hướng
21
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
dân chủ trong thập niên 1950 và đầu những năm 1960, sau đó theo hướng
độc đoán trong cuối thập niên 1960 và đầu những năm 1970, và sau đó một
lần nữa theo hướng dân chủ trong cuối thập niên 1970 và đầu những năm
1980. những thay đổi khu vực có thể có được kết quả phát triển kinh tế, ảnh
hưởng của nước láng giềng, và thúc đẩy chính phủ Mỹ.
Thảo luận về yếu tố thứ tư Huntington là bối cảnh văn hóa. Kiểm tra
tác động của các tôn giáo vào nền văn hóa chính trị, đạo Tin lành
Huntington thấy rằng có một mối tương quan cao với dân chủ, mà Công giáo
có tác động trung bình và trì hoãn về sự tăng trưởng của nền dân chủ, mà
đạo Hindu và Thần đạo, các nền văn hóa đã không ngăn được dân chủ, rằng
Hồi giáo, Khổng giáo, và Phật giáo đã được thuận lợi cho chế độ độc tài
làm thế nào những khác biệt này có thể được giải thích? Huntington phân
biệt 2 loại văn hóa tôn giáo. Một nền văn hóa tôn
giáo consummatory nơi kết thúc trung gian và cuối cùng liên quan chặt
chẽ là kém thuận lợi cho dân chủ. Ví dụ như trong đạo Hồi, không có sự
phân biệt giữa tôn giáo và chính trị (hoặc giữa tinh thần và thế tục) và sự
tham gia chính trị trong lịch sử là một khái niệm xa lạ. một nền văn
hóa cụ tôn giáo được đặc trưng bởi sự phân chia kết thúc trung gian từ cuối
cùng kết thúc. Hindu truyền thống, chẳng hạn, chấp nhận sự đa dạng và
xung đột giữa các nhóm, công nhận tính hợp pháp của thỏa hiệp, do
đó nên không gây trở ngại cho dân.
Tổng hợp lại, Huntington kết luận rằng các điều kiện tiên quyết để
phát triển của dân chủ là:
• Sự giàu có về kinh tế.
• Cơ cấu xã hội đa nguyên (một giai cấp tư sản tự trị và thị trườngmột

nền kinh tế định hướng)
• Ảnh hưởng của môi trường bên ngoài với xã hội của quốc gia dân
chủ hiện tại
• Bối cảnh văn hóa: ảnh hưởng của văn hóa đến văn hóa chính trị.
Quá trình dân chủ
Ngoài việc tập trung vào những tiêu điểm trong những điều kiện tiên
quyết của chế độ dân chủ, Hungtington đã nghiên cứu quá trình chính trị hóa
và đã tìm ra được sự phát triển của nó dựa trên nguyên tắc của chế độ dân
chủ. Ông thảo luận 3 vấn đề của dân chủ hóa:
1. "Mô hình tuyến tính" : là mô hình được rút ra từ sự trải nghiệm thực
tế của người Anh và người Thụy Điển. Trong trường hợp của Anh,
22
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
dân chủ hóa tiến bộ từ quyền chính trị của công dân, đến từng bước
phát triển quyền tối cao của nghị viện và sự cai trị của chính phủ và
cuối cùng là mở rộng quyền bầu cử trong cả một thế kỷ. Trong sự trải
nghiệm thực tế của người Thụy Điển, đã hướng dẫn những lộ trình
như: sự thống nhất của dân tộc, kéo dài và không đi đến kết luận nỗ
lực chính trị, một tư tưởng quyết định lựa chọn dựa trên nguyên tắc
luật lệ của chế độ dân chủ và cuối cùng phải làm quen với các luật lệ
đó.
2. "Mô hình chu lì" : Mô hình dân chủ hóa là sự tuần hoàn theo một chu
kỳ xen kẽ giữa chế độ chuyên quyền và chế độ dân chủ. Đây là mô
hình phổ biến nhất trong các nước Mĩ Latinh. Trong mô hình này,
cách tốt nhất là chấp nhận hợp pháp hóa hình thức dựa trên nguyên tắc
của chế độ dân chủ. Các cuộc bầu cử được trợ giúp theo thời gian
nhưng hiếm khi có sự nối tiếp vững chắc của chính phủ đến năng lực
của cử tri thông qua quá trình bầu cử. Chính phủ các nước thường
xuyên nhận được sự can thiệp của quân đội khi cuộc bầu cử được diễn
ra hoàn toàn triệt để, khi nền kinh tế khủng hoảng (tỉ lệ lạm phát và

thất nghiệp cao), hoặc không có sự phổ biến rộng rãi của chính phủ.
Mỗi lần quân đội can thiệp thường hứa hẹn trả lại quyền lực cho nhân
dân trong tương lai gần. Tuy nhiên, chỉ khi nó bị áp đặt bởi số đông
bản kháng nghị hay chính mình không có khả năng lãnh đạo hiệu quả.
Trong hoàn cảnh đó, Hungtington đã điểm ra rằng không phải độc
đoán cũng không phải dâ chủ hóa tổ chức công tác xã hội có hiệu quả
trở thành tục lệ. Một khi quốc gia gia nhập vào mô hình chu kỳ của sự
xen kẽ giữa quyền lực độc quyền của quân đội và dân sự dân chủ, sẽ
càng khó phá vỡ chu kỳ đó.
3. "Mô hình biện chứng" : Trong mô hình này, phát triển đô thị giữa các
giai cấp thống trị dẫn đến áp lực trong việc độc quyền chế độ hiện
hành. Có một giai đoạn là "đô thị đột phá việc thay đổi hiện tại độc
khu với dân chủ". Tuy nhiên tìm ra phương pháp cai trị có hiệu quả
thường có sự chiếm đoạt của khu dân chủ và quay lại độc quyền
nguyên thủy. Trong thời kỳ này các khu độc quyền bị suy sụp và có
một thời gian kéo dài bền vững dựa trên nguyên tắc của chế độ dân
chủ nguyên thủy, đây là sự miêu tả quá trình diễn ra ở Đức, Ý, Hi Lạp
và Tây Ban Nha.
Ngoài việc nói về sự trải nghiệm, sự phát triển tuần hoàn và biện
chứng, Hungtington còn nói về quy luật của quá trình nối tiếp hợp lý nhất
cho sự phát triển của chế độ dân chủ.
23
Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Ông đưa ra toàn bộ quá trình như sau:
• Xác định điểm yếu của quốc gia.
• Phát triển các cơ sở giáo dục chính trị có hiệu quả
• Mở rộng tham gia chính trị
Hungtington nhấn mạnh rằng việc tham gia chính trị phải diễn ra ở
giai đoạn cuối của quá trình thay đổi, sau sự sắp đặt của cơ quan chính trị có
hiệu quả như hệ thống Đảng và bầu cử. Nếu sự tham gia mở rộng quá sớm

sẽ dẫn đến sự bất ổn và bạo lực chính trị. Để củng cố điểm này, Hungtington
khẳng định chế độ dân chủ kéo dài ít khi được thiết lập bởi hoạt động đại
chúng. Thay vào đó, chế độ dân chủ đến từ đỉnh xuống, từ đáy lên. Chỉ khi
nền chính trị ổn định nhất, sau khi xem xét mối quan tâm của mình, quyết
định đàm phán và thỏa hiệp với một cái khác - những cơ quan dân chủ đang
tồn tại.
Nhấn mạnh nguồn gốc dân chủ, Hungtington bác bỏ quan niệm của
Barring(1966) và tranh luận rằng dân chủ có thể được bắt đầu bởi một cuộc
chiến đẫm máu. Mặc dù tất cả cuộc nổi dậy đều yêu cầu được chế độ dân
chủ, họ đưa ra độc quyền một lần nữa, đưa ra quyền lực dữ dội và thường
gây ấn tượng áp đặt chế độ hiện hành hơn việc dùng vũ lực. Hungtington
nhấn mạnh rằng khuynh hướng dân chủ là kết quả của từng bước phát triển
trong cả quá trình cùng với luật đình bạo lực chứ không phải là kết quả hiện
có lan chảy quyền lãnh đạo.
Sau khi khảo sát các điều kiện tiên quyết và tiến hành dân chủ hóa,
Hungtington đưa ra những điều kiện kiểm tra thích ứng về triển vọng cho
quá trình dân chủ hóa những năm 1980. Ông hi vọng cao về sự dân chủ hóa
ở các nước Mỹ latinh, bởi vì đó là những quốc gia hiện đại, kinh tế phát
triển, dân chủ trước hi trải qua xã hội nhiều dân tộc và hầu hết các nước đều
thi đua theo châu Âu và các nước hiện đại ở Bắc Mỹ. Hơn nữa Hungtington
hầu như không giới thiệu về các chế độ hiện hành ở Đông Á. Mặc dù khu
vực Đông Á đã có một số tiểu bang phát triển kinh tế có chịu ảnh hưởng từ
Hoa Kỳ, các văn hóa truyền thống, các cấu trúc xã hội và điểm yếu của dân
chủ đã trải qua để phát triển. Hungtington chỉ ra rằng các nước Đông Á hiện
tại ban hành điều lệ kinh tế hay văn hóa đều có sự ảnh hưởng của chế độ dân
chủ. Cùng với sự tôn trọng các quốc gia Trung Đông và châu Phi, triển vọng
của dân chủ là cơ hội, do các tôn giáo, nạn nghèo đói hoặc bạo lực của
những người thống trị. Khả năng phát triển của dân chủ tại Đông Âu là
không có hậu. Nước Nga hiện diện là quyết định cân nhắc trở ngại, và
24

Lý thuyết phát triển Nhóm 4
Hungtington đã lấy lí lẽ để bảo vệ rằng không quốc gia cộng sản nào có dân
chủ trưởng thành từ kết quả của tình hình trong nước.
Tóm lại, Hungtington cho rằng Hoa Kỳ có thể đến với dân chủ, góp
phần trong việc phát triển các nước Thế giới thứ 3 như sau: Hỗ trợ họ phhát
triển kinh tế, bồi dưỡng các nền kinh tế thị trường, sự phát triển của những
nhà tư bản, tầm ảnh hưởng lớn hơn trên toàn thế giới và giúp đỡ tốt nhất các
nước đang phát triển tiến lên dân chủ hóa.
III - Quyền hạn của học thuyết hiện đại hóa mới
Theo Almond (1987, tr.45) việc tốt nhất của mọi phương pháp nghiên
cứu là sức sản xuất. Chính điều đó đưa ra từ cuốn tiểu thuyết cách nhìn nhận
chủ đề. Liệu điều đó có giúp nâng cao các kiến thức và làm nó đáng tin cậy
hơn. Almond đã sử dụng các tiêu chí mà chúng ta có thể nhìn thấy việc
nghiên cứu hiện đại hóa mới có thể đi đến xa hơn việc phân tích tương đối
của việc nghiên cứu hiện đại hóa cổ điển, sau sự đào thải của một số giả định
không vững vàng của các nghiên cứu cổ điển, chẳng hạn như miêu tả quá
trình hiện đại như không thể thay đổi, cải cách. Và hiện đại hóa cổ điển như
một trở ngại đến hiện đại hóa mới. Nghiên cứu hiện đại hóa mở ra con
đường nghiên cứu mới và tinh vi hơn.
Với việc đưa truyền thống vào, hướng dẫn bởi những khái niệm mới
như doanh nghiệp và việc phỏng đoán của sự phòng thủ, hồi sinh, việc
nghiên cứu hiện đai hóa có nhiều vấn đề cần nhìn nhận: truyền thống là gì?
Làm thế nào để tiếp xúc với công nghệ thông tin trong quá trình hiện đại
hóa. Mặc dù việc nghiên cứu hiện đại hóa mới bộc lộ mối quan hệ giữa
truyền thống và hiện đại. Do đó Wong cho rằng sự điều khiển quản lý kiểu
gia đình trị có vai trò thúc đẩy quyền sở hữu và sự phát triển kinh tế ở Hồng
Kông. Davis tranh luận rằng công nghiệp Nhật Bản mang lai một cơn sốc từ
truyền thống tôn giáo đến giáo dục công dân. Và Hungtington đã lưu ý đến
sự khác biệt về tác động của dân chủ.
Với việc đưa lịch sử vào, thay vì thực hiện các vấn đề cao và tóm tắt

mô hình, việc nghiên cứu mới đã mang lịch sử vào hình ảnh, tập trung vào
mỗi trường hợp cụ thể của quá trình nghiên cứu. Ví dụ: Davis ghi nhận việc
tôn giáo lịch sử Nhật Bản nhấn mạnh bằng tục lệ của các dân tộc và có thể
tiếp tục tồn tai và hợp tác sản xuất công nghiệp hiện đại. Làm thế nào để tập
trung vào lịch sử kết hợp với xã hội, chính trị và yếu tố tôn giáo tại cách
mạng Iran năm 1979. Và Hungtington cho rằng điều quan trọng nhất là phải
kiểm tra các quy trình và lịch sử dân chủ của sự phát triển.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×