Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Giáo dục môi trường cho học sinh các trường THPT huyện sông lô vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.92 KB, 142 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o0o







NGUYỄN THỊ NHUNG







GIÁO DỤC MÔI TRƢỜNG CHO HỌC SINH
CÁC TRƢỜNG THPT HUYỆN SÔNG LÔ – VĨNH PHÚC








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC










THÁI NGUYÊN - 2010


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o0o





NGUYỄN THỊ NHUNG





GIÁO DỤC MÔI TRƢỜNG CHO HỌC SINH
CÁC TRƢỜNG THPT HUYỆN SÔNG LÔ – VĨNH PHÚC






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 601 401




Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN THANH LONG





THÁI NGUYÊN - 2010

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian tiến hành nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn khoa học
của tiến sỹ Phan Thanh Long, em đã hoàn thành xong luận văn thạc sỹ của
mình với đề tài: “Giáo dục môi trường cho học sinh các trường THPT
huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc”.

Nhân dịp luận văn được hoàn thành, với lòng biết ơn sâu sắc em xin trân
trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học sư phạm Thái Nguyên và
trường ĐH sư phạm Hà Nội, những người đã tận tình giảng dạy và tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn trân thành tới thầy giáo - Tiến sỹ Phan
Thanh Long , người đã giao đề tài và tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em cách
thức và con đường nghiên cứu đề tài để hoàn thành đề tài nghiên cứu của em
theo đúng tiến độ được giao.
Nhân dịp này, tôi cũng xin trân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và các
em học sinh thuộc trường THPT Bình Sơn và THPT Sáng Sơn, huyện Sông Lô,
tỉnh Vĩnh Phúc, những người đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Với điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế, chắc chắn bản luận văn
của em còn có những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét,
góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và các nhà khoa học…. những người quan
tâm đến vấn đề này cho luận văn của em được hoàn thiện hơn và em xin trân
trọng cảm ơn sự quan tâm đó!

Thái Nguyên, ngày 30 tháng 10 năm 2010
Tác giả

Nguyễn Thị Nhung


MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
I. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3
4. Phạm vi nghiên cứu 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
6. Giả thuyết khoa học 3
7. Các phương pháp nghiên cứu 4
8. Những đóng góp mới của đề tài 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA GIÁO DỤC MÔI TRƢỜNG 5
1.1.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 5
1.1.1 Giáo dục môi trường trên thế giới 5
1.1.2 Giáo dục môi trường ở Việt Nam 9
1.2. Một số khái niệm công cụ của vấn đề nghiên cứu 16
1.2.1. Khái niệm môi trường 16
1.2.2. Ô nhiễm môi trường 18
1.2.3. Bảo vệ môi trường 19
1.2.4. Giáo dục môi trường 20
1.2.5. Chất lượng giáo dục môi trường 22
1.3. Đặc điểm tâm lý học sinh THPT 24
1.4. Giáo dục môi trường cho học sinh THPT 26
1.4.1. Vai trò và ý nghĩa của GDMT cho học sinh THPT 26
1.4.2. Mục tiêu GDMT cho học sinh THPT 28

1.4.3. Những quan điểm nguyên tắc trong GDMT 30
1.4.4. Nội dung GDMT ở trường THPT 32
1.4.5. Các phương pháp GDMT và hình thức tổ chức GDMT trong nhà
trường THPT 34
1.4.6. Sử dụng phương tiện dạy học trong giáo dục môi trường 37
1.4.7. Kiểm tra, đánh giá trong GDMT ở nhà trường THPT 39
1.4.8. Các điều kiện để tiến hành GDMT trong nhà trường THPT 40
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GDMT CHO HỌC SINH
Ở CÁC TRƢỜNG THPT HUYỆN SÔNG LÔ – VĨNH PHÚC 46

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và giáo dục huyện
Sông Lô 46
2.2. Thực trạng công tác GDMT cho học sinh các trường THPT huyện
Sông Lô – Vĩnh Phúc 47
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên các trường THPT huyện Sông
Lô về công tác GDMT cho học sinh 48
2.2.2. Thực trạng hoạt động GDMT của GV các trường THPT huyện
Sông Lô 54
2.2.3. Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi tham gia BVMT của học
sinh các trường THPT huyện Sông Lô 69
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 80
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
GIÁO DỤC MÔI TRƢỜNG CHO HỌC SINH CÁC TRƢỜNG
THPT HUYỆN SÔNG LÔ – VĨNH PHÚC 81
3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp 81
3.2 Nguyên tắc đề xuất biện pháp 81
3.3 Các biện pháp đề xuất 81
3.3.1 Biện pháp thứ nhất: 81

3.3.2 Biện pháp thứ hai: 84
3.3.3. Biện pháp thứ ba: 93
3.3.4 Biện pháp thứ tư: 96
3.3.5 Biện pháp thứ năm: 99
3.3.6 Biện pháp thứ 6: 100
3.3.7 Biện pháp thứ bảy: 101
3.4 Khảo nghịêm về sự cần thiết và tính khả thi của biện pháp đề xuất 102
3.4.1 Mục đích khảo nghiệm: 102
3.4.2 Phạm vi và nội dung khảo nghiệm: 103
3.4.3 Phương pháp khảo nghiệm 103
3.4.4 Kết quả khảo nghiệm 103

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MT
BVMT
GDMT
GD – ĐT
DH
GD
GV
HS
LHQ
THPT
UNESSCO

UNDP
UNEP
SXKD
CNH –HĐH
ÔNMT
PP
GDNGLL
SGK
TNTN
TN&MT
Môi trường

Bảo vệ môi trường
Giáo dục môi trường
Giáo dục – Đào tạo
Dạy học
Giáo dục
Giáo viên
Học sinh
Liên hợp quốc
Trung học phổ thông
Tổ chức Văn hoá – khoa học và giáo dục
của Liên hợp quốc
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc
Chương trình môi trường của Liên hợp quốc
Sản xuất kinh doanh
Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá
Ô nhiễm môi trường
Phương pháp
Giáo dục ngoài giờ lên lớp
Sách giáo khoa
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên và môi trường



DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Nhận thức của GV về tầm quan trọng của công tác GDMT cho HS THPT
Bảng 2.2: Quan niệm của GV về vai trò của các lực lượng GD trong công
tác GDMT cho học sinh
Bảng 2.3: Thực trạng xác định nội dung GDMT cho học sinh của GV

Bảng 2.4: Nhận thức của GV về các con đường GDMT cho học sinh THPT
Bảng 2. 5: Nhận thức của GV về khả năng lồng ghép GDMT vào các môn học
Bảng 2.6: Thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học của GV khi giảng
dạy những bài học có lồng ghép nội dung GDMT
Bảng 2.7: Thực trạng sử dụng các phương tiện dạy học của GV khi giảng dạy
những bài học có lồng ghép nội dung GDMT.
Bảng 2.8: Thực trạng tổ chức các hoạt động ngoại khoá nhằm GDMT cho học
sinh các trường THPT huyện Sông Lô
Bảng 2.9: Nhận thức của học sinh về các vấn đề môi trường và BVMT
Bảng 2.10: Thái độ của HS đối với những hành động ảnh hưởng tới môi trường
Bảng 2.11: Thói quen và hành vi tham gia BVMT của học sinh
Bảng 3.1: Sự cần thiết và mức độ quan trọng của các biện pháp nâng cao chất
lượng GDMT trong các trường THPT
Bảng 3.2: Tính khả thi của các biện pháp nâng chất lượng GDMT trong các
trường THPT huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc
Sơ đồ 1.1: Các phương pháp giáo dục môi trường (Nguồn UNESCO)
Sơ đồ 1.2: Các điều kiện cơ bản trong GDMT
Sơ đồ 2.1 Nhận Thức của GV về mục tiêu GDMT cho học sinh THPT
Sơ đồ 2.2: Thái độ và mức độ tham gia các hoạt động GDMT do nhà trường
tổ chức của học sinh THPT
Sơ đồ 2.3: Nhận xét của GV về nhận thức, thái độ và hành vi tham gia BVMT
của HS các trường THPT huyện Sông Lô

1
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Môi trường đang trở thành vấn đề chung của nhân loại được cả thế giới
quan tâm. Việt Nam cũng là nước có môi trường đang bị huỷ hoại nghiêm
trọng, gây nguy cơ mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên, ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống và sự phát triển của đất nước. Một trong những nguyên

nhân cơ bản là do nhận thức và thái độ của con người về bảo vệ môi trường
(BVMT) còn hạn chế. Từ đó, yêu cầu đặt ra là cần phải tăng cường công tác giáo
dục môi trường (GDMT) cho cộng đồng mà trước hết là GDMT cho thế hệ trẻ,
những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường - những chủ nhân tương lai của
đất nước. Trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh THPT. Bởi các em là lực lượng quan trọng tham gia vào các hoạt động gìn
giữ và bảo vệ môi trường của con người trong hiện tại cũng như tương lai.
2. Trong những năm qua, thực hiện Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày
25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kì CNH
– HĐH đất nước và Quyết định số 1363/QĐ - TTg, ngày 17/10/2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đưa các nội dung giáo dục bảo vệ
môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ
đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ chức triển khai các nhiệm vụ về
GDMT và thực hiện tốt các hoạt động giáo dục BVMT trong nhà trường.
Trên tinh thần đó, chương trình giáo dục môi trường đã được đưa vào giảng
dạy tại các cấp học từ tiểu học, THCS, THPT đến đại học. Nhiều nội dung
giáo dục môi trường đã được thực hiện ở các cơ sở giáo dục. Song nhìn chung
việc thực hiện các nội dung GDMT trong hệ thống giáo dục quốc dân nói
chung và trong các trường THPT nói riêng hiện nay chưa thực sự mang lại
hiệu quả. Các giải pháp thực hiện chương trình GDMT trong các nhà trường
mới chỉ là giải pháp tình thế, chưa có hệ thống (mang tính thời vụ); chương

2
trình GDMT chưa được triển khai một cách thống nhất, rộng khắp trong cả
nước, chưa trở thành nội dung bắt buộc và chưa được coi là một tiêu chí đánh
giá chất lượng giáo dục trong nhà trường….
Những tồn tại trên là phổ biến ở hầu hết các trường THPT trong cả nước.
Đặc biệt đối với các trường THPT trên địa bàn huyện Sông Lô – tỉnh Vĩnh Phúc
thì những hạn chế đó được bộc lộ khá rõ bởi những điều kiện chủ quan và khách
quan của các nhà trường nơi đây.

3. Là huyện miền núi của tỉnh Vĩnh Phúc, Huyện Sông Lô được thành lập
và chính thức đi vào hoạt động từ ngày mùng 1/4/2009. Là huyện mới nên điều
kiện kinh tế - xã hội, giáo dục của huyện còn gặp rất nhiều khó khăn. Công tác
giáo dục nói chung và GDMT tại các trường THPT nói riêng trên địa bàn huyện
chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều tồn tại, bất cập: Hoạt động DGMT
ở các trường THPT nơi đây mới chỉ mang tính chất phong trào, chưa có biện
pháp hiệu quả; đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về
hệ thống nghiệp vụ và chuyên môn trong công tác GDMT… làm cho công tác
GDMT của các nhà trường nơi đây chưa đạt đạt được hiệu quả cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn GDMT hiện nay.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khắc phục được những tồn tại, bất cập và
nâng cao được chất lượng công tác GDMT ở các nhà trường nói chung và các
trường THPT trên địa bàn huyện Sông Lô nói riêng? Đây chính là lý do khiến
chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề: “Giáo dục môi trƣờng cho học sinh các
trƣờng THPT huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác GDMT cho học sinh
ở các trường THPT trên địa bàn huyện Sông Lô – tỉnh Vĩnh Phúc. Đề tài xây
dựng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GDMT cho học sinh THPT
phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và các nhà trường THPT trên địa
bàn huyện Sông Lô -Vĩnh Phúc.

3
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình GDMT cho học sinh THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
GDMT cho học sinh THPT.
- Đối tượng khảo sát: Điều tra lấy ý kiến của 117 giáo viên, cán bộ quản
lý và 300 học sinh (100 HS khối 10, 100 HS khối 11, 100 HS khối 12) ở hai
trường: THPT Bình Sơn và THPT Sáng Sơn thuộc huyện Sông Lô.

4. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp giáo dục môi trường cho học sinh THPT là một vấn đề chứa
đựng phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi chỉ đi
sâu vào nghiên cứu cơ sở khoa học của một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng GDMT cho học sinh THPT và cách thức thực hiện các biện pháp đó về
mặt lý luận.
Do điều kiện và thời gian có hạn, Chúng tôi không tiến hành thực nghiệm
các biện pháp nâng cao chất lượng GDMT đã đề xuất mà chỉ tiến hành khảo
nghiệm về sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đó trên phạm vi 2
trường THPT thuộc địa bàn huyện Sông Lô là: trường THPT Bình Sơn và
trường THPT Sáng Sơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề GDMT cho học sinh nói chung
và cho học sinh THPT nói riêng.
5.2. Phản ánh và đánh giá thực trạng công tác GDMT ở các trường THPT
huyện Sông Lô – Vĩnh phúc, tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GDMT cho học
sinh các trường THPT trên địa bàn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Giả thuyết khoa học
GDMT đang được đặt ra như một vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam.
Tuy nhiên hiệu quả GDMT ở một số nhà trường nói chung và các trường THPT
huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc nói riêng còn rất thấp. Vì vậy nếu sử dụng các biện

4
pháp nâng cao chất lượng GDMT cho học sinh phù hợp với điều kiện cụ thể của
nhà trường và địa phương theo một quy trình chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất thì
sẽ hình thành cho học sinh thái độ, kỹ năng và thói quen BVMT, qua đó làm cho
chất lượng GDMT của các nhà trường được tăng lên.
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Chúng tôi sử dụng nhóm phương pháp này để thu thập và tập hợp các
thông tin lý luận có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Các phương pháp cụ thể
như:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết
- Phương pháp giả thuyết
- Phương pháp mô hình hóa lí thuyết
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (bằng ankét).
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
7.3. Phương pháp xử lí các số liệu bằng toán thống kê
8. Những đóng góp mới của đề tài
* Về mặt lý luận: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về môi trường,
BVMT, GDMT cho học sinh nói chung và cho học sinh THPT nói riêng.
* Về mặt thực tiễn:
- Phản ánh thực trạng công tác GDMT ở các trường THPT trên địa bàn
huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc và chỉ ra được nguyên nhân cơ bản của thực
trạng đó.
- Xây dựng được cơ sở khoa học và cách thức thực hiện một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng GDMT cho học sinh THPT.

5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA GIÁO DỤC MÔI TRƢỜNG

1.1.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Giáo dục môi trường trên thế giới

Môi trường sống đã và đang trở thành một trong những vấn đề được
quan tâm nhất và cũng là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại.
Bởi lẽ môi trường sống gắn bó hữu cơ với cuộc sống của con người cũng như
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngay từ khi xuất hiện trên
trái đất, con người đã sống dựa vào môi trường tự nhiên, tồn tại nhờ những gì
có sẵn trong tự nhiên. Cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người,
sự phụ thuộc của con người vào tự nhiên giảm dần và thay vào đó con người
đã không ngừng tham gia vào các hoạt động cải tạo giới tự nhiên, trên cơ sở
nắm bắt các quy luật của tự nhiên để phục vụ cho mục đích sinh tồn và phát
triển của con người.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội,
sự bùng nổ của dân số thế giới, nhu cầu về cuộc sống của con người ngày
càng nâng cao kéo theo sự ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên bị suy giảm
nghiêm trọng. Vấn đề bảo vệ môi trường và giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho con người đặc biệt là cho thế hệ trẻ trở nên hết sức cần thiết.
Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1948, trong cuộc họp của LHQ về bảo
vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên diễn ra tại Pari (Pháp) thuật ngữ “giáo
dục môi trƣờng” đã được sử dụng.
Năm 1970, Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (IUCN) đã định nghĩa:
GDMT là quá trình nhận biết các giá trị và làm sáng tỏ các khái niệm nhằm phát
triển các kỹ năng và quan điểm cần thiết để hiểu và đánh giá được sự quan hệ
tương tác giữa con người, nền văn hoá, thế giới vật chất bao quanh môi trường

6
đồng thời cũng thực hiện quyết định đưa ra bộ quy tắc ứng xử với những vấn đề
liên quan tới đặc tính môi trường.
Ngày 5/6/1972 LHQ đã tổ chức “Hội nghị quốc tế về Môi trường và
Con người” tại Stockholm (Thụy Điển) với sự tham gia của 113 đại diện của
Chính phủ các nước trên thế giới. Có thể nói đây là Hội nghị đầu tiên của
nhân loại về vấn đề phát triển và môi trường. Hội nghị đã ra bản Tuyên bố

Stockholm về Môi trường và Con người gồm 7 điểm và 26 nguyên tắc, trong
đó nguyên tắc thứ 19 đã chỉ rõ: “GDMT cho thế hệ trẻ cũng như người lớn
tuổi, quan tâm thích đáng tới những người tàn tật là một việc làm hết sức cần
thiết”. Đến ngày15/12/1972 chương trình nghiên cứu của LHQ về môi trường
(UNEP) được thành lập. Sau Hội nghị Stockholm, hàng loạt các hội nghị sau
đó của các tổ chức quốc tế diễn ra tại nhiều nước trên thế giới đều dành sự
quan tâm rất lớn đến vấn đề bảo vệ môi trường và giáo dục môi trường trong
giai đoạn hiện nay:
- Năm 1975, Hội nghị quốc tế về GDMT họp ở Belgrade (Nam Tư) đã
khởi thảo một chương trình quốc tế về GDMT (chương trình IEEP). Các mục
đích, mục tiêu, những khái niệm cốt yếu và các nguyên tắc hướng dẫn của
chương trình được đưa vào một văn kiện của Hội nghị có tên là “Hiến chương
Belgrade - một hệ thống nguyên tắc toàn cầu cho GDMT”. Một tập hợp các
mục tiêu ngắn gọn, bao quát về GDMT được đưa ra tại Belgrade có thể tóm
tắt như sau:
1) Nâng cao nhận thức và quan tâm tới mối quan hệ tương tác về kinh
tế, xã hội, chính trị, sinh thái giữa nông thôn và thành thị.
2) Cung cấp cho mỗi cá nhân cơ hội tiếp thu kiến thức, những giá trị, quan
niệm, trách nhiệm và các kĩ năng cần thiết nhằm bảo vệ và cải tạo môi trường.
3) Tạo ra những mô hình ứng xử với môi trường cho các cá nhân, cũng
như toàn xã hội

7
- Tháng 10/1977, Hội nghị liên Chính phủ về DGMT do UNESCO tổ
chức họp tại Tbilisi (thủ đô Cộng hòa Gruzia) đã đưa ra tuyên ngôn về
GDMT trong đó có 41 khuyến nghị về chiến lược GDMT đối với các quốc
gia. Hội nghị đã khuyến cáo mỗi nước ưu tiên thành lập một tổ chức có hiệu
quả để chịu trách nhiệm triển khai GDMT. Hội nghị cũng đưa ra các ý kiến
đóng góp cho việc áp dụng rộng rãi hơn nữa GDMT trong chương trình giáo
dục chính thức và không chính thức. Sự kiện quan trọng này và những công

bố tiếp theo sau hội nghị đó đã tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của hệ
thống nguyên tắc GDMT trên toàn thế giới ngày nay.
- Tháng 9/1980 Hội thảo khu vực châu Á Thái Bình Dương về GDMT
họp tại Băngkok (Thái Lan) với 17 nước tham dự. Mục đích của hội thảo
nhằm trao đổi kinh nghiệm trong DGMT ở từng nước. Tại đây Hội thảo đã
kiến nghị đưa DGMT vào các cấp học và cho các đối tượng khác nhau (Đại
học, giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp; giáo dục trung học, tiểu học, đào tạo
bồi dưỡng giáo viên, giáo dục người lớn, v.v…) và các chủ đề cần ưu tiên là:
Bảo vệ tài nguyên; Sự ô nhiễm và các thiệt hại; Dinh dưỡng và sức khoẻ; Môi
trường đô thị; Vấn đề tai biến thiên nhiên.
- Tháng 8/1987, UNESCO và UNEP phối hợp tổ chức Hội nghị quốc tế
về GDMT, họp ở Matxcơva (Liên Xô cũ) với sự tham gia của đại diện hơn
100 nước và tổ chức quốc tế. Tại Hội nghị này một loạt các vấn đề cơ bản
được đưa ra thảo luận, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của
GDMT, với nội dung: “Rút cục là sẽ không có gì giảm được mối đe doạ mang
tính khu vực và quốc tế đối với môi trường, trừ phi ý thức của đại đa số quần
chúng về mối liên quan thiết yếu giữa đặc trưng môi trường và sự tiếp tục
thoả mãn các nhu cầu của con người được thức tỉnh. Hoạt động của con
người phụ thuộc vào động cơ, mà động cơ phụ thuộc vào sự hiểu biết của
chính họ. Vì thế chúng ta hiểu được tầm quan trọng tại sao mỗi người phải có

8
nhận thức môi trường đúng đắn thông qua GDMT”. Trên tinh thần đó Hội
nghị đã xây dựng Chiến lược quốc tế về chương trình hành động DGMT cho
thập niên 90 và đặt tên cho thập niên này là “Thập niên toàn thế giới cho giáo
dục môi trường”.
Để thực hiện chương trình hành động GDMT cho thập niên 90, tháng
10/1990 UNESCO và UNEP phối hợp tổ chức Hội nghị quốc tế về GDMT
lần 2 tại Pari (Pháp). Hội nghị này đã trao đổi về trách nhiệm của từng tổ chức
quốc tế trong lĩnh vực giáo dục môi trường và một lần nữa UNEP lại nhấn

mạnh nhiệm vụ GDMT cho tất cả mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ và việc
bồi dưỡng kiến thức, năng lực GDMT cho giáo viên các cấp.
- Tháng 6/1992, tại Rio De Janeiro (Brazin) LHQ đã tổ chức Hội nghị
Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển với sự hội tụ chưa từng thấy
của chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế. Trong số hơn 1000 đại biểu
đại diện cho 178 quốc gia, có 116 nguyên thủ quốc gia. Hội nghị đã hội thảo
trên một phạm vi rộng về các đề tài và vấn đề môi trường. Có nhiều công bố
dành cho GDMT thông qua suốt các văn kiện. Một trong những kết quả chính
của Hội nghị là sự nhất trí rằng: Sự phát triển, giáo dục và môi trường phải là
một bộ phận thống nhất của quá trình học tập ở cả hai dạng chính thức và
không chính thức. Và một dự kiến được đưa ra là mọi chính phủ phải nỗ lực
phấn đấu để cập nhật hoá hoặc chuẩn bị các chiến lược nhằm mục đích kết
hợp môi trường và phát triển thành vấn đề trung tâm để đưa vào tất cả các cấp
giáo dục.
Tóm lại trên bình diện quốc tế GDMT đã được đề cập ở những góc độ sau:
+ Các nhà khoa học đều khẳng định vai trò quan trọng của GDMT và sự
cần thiết phải GDMT cho các đối tượng khác nhau, đặc biệt là cho thế hệ trẻ.
+ Các hội nghị quốc tế cũng đi đến thống nhất mục tiêu của GDMT là
nhằm giúp cho mọi người có được nhận thức, tri thức, ý thức trách nhiệm,

9
khả năng đánh giá các vấn đề nảy sinh về môi trường, có thói quen trong hành
vi và tự giác tham gia vào các hoạt động bảo vệ, cải thiện môi trường
+ Nội dung GDMT cũng được xác định tập trung ở một số chủ đề như:
mối quan hệ tương hỗ trong thiên nhiên, sự cân bằng trong thiên nhiên, hậu quả
của sự mất cân bằng trong thiên nhiên, sự cần thiết phải bảo tồn thiên nhiên.
+ Khẳng định GDMT cần phải đưa vào trường học ở tất cả các bậc
học và cho mọi đối tượng. Cần phải có những biện pháp và xây dựng
những chương trình về GDMT một cách hợp lý để đưa những nội dung
GDMT vào các trường học, nâng cao và bồi dưỡng năng lực GDMT cho

giáo viên các cấp….
1.1.2 Giáo dục môi trường ở Việt Nam
1.1.2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDMT trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
Việt Nam là một trong những nước đang phải đối mặt với những thách
thức rất lớn từ sự ô nhiễm môi trường, vì vậy công tác bảo vệ môi trường và
giáo dục, đào tạo về bảo vệ môi trường cũng được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm từ nhiều năm nay. Nhiều chủ trương, chính sách về BVMT và GDMT đã
được triển khai, trong đó chú trọng nhiều đến công tác GDMT trong các
trường phổ thông.
Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội Nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 đã thể chế hoá một bước các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường và giáo dục,
đào tạo về bảo vệ môi trường. Điều 4 của Luật nêu rõ: “Nhà nước có trách
nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công
nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và pháp luật về BVMT” coi GDMT là một
trong những biện pháp cơ bản của những hoạt động BVMT.

10
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996) về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo nước ta trong thời kỳ CNH – HĐH đã
nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào
nhà trường. Đây là sự thể hiện cụ thể yêu cầu gắn phát triển giáo dục và đào
tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kì mới.
Chỉ thị 36 CT/TW ngày 25/06/1998 của Bộ Chính trị về “tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” đã coi vấn đề giáo dục BVMT là giải pháp đầu tiên : “Thường xuyên
giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong trào quần
chúng bảo vệ môi trường” trong đó cần “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường
vào chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục

quốc dân”. Đây là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ môi trường nước ta trong thời kỳ CNH – HĐH.
Thực hiện Chỉ thị 36 của Bộ Chính trị, ngày 02/10/1998 Bộ Giáo dục –
Đào tạo đã có Quyết định số 6621/QĐ-BGDĐT-KHCN ngày 30/12/2002 phê
duyệt "Chính sách và chương trình hành động giáo dục môi trường trong
trường phổ thông giai đoạn 2001 - 2010". Theo Chương trình này, thì giai
đoạn 2001 - 2005 là giai đoạn chuẩn bị, trong đó có các công việc như: soạn
thảo và ban hành các văn bản pháp quy; xây dựng chương trình, nội dung,
phương pháp giáo dục môi trường; bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý về
giáo dục môi trường; xây dựng tổ chức và cơ sở vật chất; tiến hành các hoạt
động ngoại khóa, các chiến dịch truyền thông môi trường; chỉ đạo điểm. Từ
năm 2006 trở đi mới là triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc. Các
văn bản này bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức,
triển khai các hoạt động GDMT ở các trường phổ thông và trường sư phạm
trong hệ thống giáo dục quốc dân.

11
Quyết định số 1363/QĐ - TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án : “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống
giáo dục quốc dân” đã xác định rõ các mục tiêu, nội dung, phương thức giáo
dục đào tạo về bảo vệ môi trường trong đó: Đối với giáo dục trung học cơ sở
và trung học phổ thông: trang bị những kiến thức về sinh thái học, mối quan
hệ giữa con người với thiên nhiên; trang bị và phát triển kĩ năng bảo vệ và
gìn giữ môi trường, biết ững xử tích cực với môi trường sống xung
quanh…Việc giáo dục bảo vệ môi trường chủ yếu thực hiện theo phương thức
khai thác triệt để tri thức về môi trường hiện có ở các môn học trong nhà
trường. Nội dung giáo dục BVMT còn thực hiện ngoài nhà trường dưới nhiều
hình thức khác nhau nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi
trường cho toàn cộng đồng.
Như vậy có thể thấy công tác GDMT trong hệ thống giáo dục quốc dân

đã được Đảng và Nhà Nước ta đặc biệt coi trọng. Các văn bản, chủ trương và
chính sách của Đảng và Nhà nước về GDMT là những căn cứ pháp lý quan
trọng để triển khai hoạt động GDMT cho học sinh các bậc học một cách hợp
lý, hiệu quả.
1.1.2.2 Một số thành tựu về GDMT trong hệ thống giáo dục quốc dân
những năm gần đây
Ở nước ta, việc giáo dục môi trường được quan tâm nghiên cứu từ
những năm cuối thập niên 70 của thế kỉ XX. Tuy nhiên đến năm 1980 thì
công tác DGMT mới được thực hiện trong các trường phổ thông cùng với kế
hoạch cải cách giáo dục, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học và nhà giáo dục. Các công trình nghiên cứu, đề tài nghiên cứu, các dự án
về giáo dục môi trường luôn được nhà nước ưu tiên. Những công trình nghiên
cứu này đã khởi thảo một số vấn đề lý luận chung về GDMT và vấn đề lồng
ghép, tích hợp GDMT qua các môn học.

12
Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục môi trường trong nhà trường phổ
thông, ngay từ những năm 80 ở nước ta đã có 2 đề tài cấp nhà nước tiến hành
nghiên cứu về phương thức, nội dung GDMT trong nhà trường, trong đó tập
trung chủ yếu vào môn sinh vật và địa lý. Đến năm 1985, cuốn “Quán triệt
tinh thần giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dân số và bảo vệ môi
trường” của Nhà xuất bản Giáo dục và cuốn “Giáo dục bảo vệ môi trường
trong nhà trường phổ thông” của tác giả Nguyễn Dược, xuất bản năm 1986
cho thấy rõ sự nhận thức về GDMT ở nước ta.
Hiện nay, các hoạt động GDMT được tiến hành một cách mạnh mẽ.
Ngoài việc GDMT cho quần chúng nhân dân thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng rất đa dạng và phong phú, trong nhiều trường đại học
đã có các môn học về môi trường, một số trường đại học còn thành lập cả
khoa Môi trường để đào tạo các cán bộ, cử nhân về lĩnh vực môi trường như
Khoa môi trường của trường Đại học khoa học tự nhiên (Hà nội), Khoa môi

trường của Đại học Thuỷ Lợi, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Lâm
Nghiệp, Đại học Nông nghiệp Hà Nội… . ở Thành phố Hồ Chí Minh khoa
môi trường cũng được thành lập ở các trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Bách khoa , Đại học Kỹ thuật
Song song với việc giảng dạy trong nhà trường, nhiều đề tài nghiên cứu
khoa học về GDMT cấp nhà nước và cán bộ quản lý cũng đã và đang được
thực hiện, có tác dụng mở rộng nội dung và hiệu quả của công tác GDMT:
Năm 1991 – 1995 chương trình nghiên cứu cấp nhà nước về BVMT
(KT.02) do Bộ Đại học – Trung học chuyên nghiệp chủ trì đã triển khai một
đề tài nghiên cứu khoa học quan trọng về GDMT (KT02, 07) với các vấn đề
cơ bản như: nâng cao nhận thức về môi trường cho đông đảo nhân dân;
DGMT trong hệ thống các trường phổ thông; GDMT trong các trường đại học
và chuyên nghiệp; GDMT trong các trường thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Nội

13
vụ và các đoàn thể nhân dân. 6 hướng nghiên cứu của đề tài đã đưa ra những
căn cứ khoa học để nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo, phổ cập kiến thức
môi trường ở Việt Nam và trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nội dung, hình
thức GDMT cho tất cả các đối tượng trong xã hội.
Năm 1994, với sự hỗ trợ của Cục Môi trường, Bộ Khoa học – Công
nghệ và Môi trường, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã nghiên cứu đề tài
“Thiết kế và thử nghiệm nội dung GDMT ở bậc tiểu học”. Các tác giả tham
gia nghiên cứu đề tài đã bước đầu xác định những nội dung chính cần được
triển khai ở bậc tiểu học và biên soạn mẫu về GDMT ở một số môn học như:
Đạo đức, Giáo dục sức khoẻ, Tự nhiên – xã hội. Năm học 1996 – 1997, Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam tiếp tục nghiên cứu đề tài “Phương thức hoạt
động giáo dục môi trường ở mẫu giáo và tiểu học”. Đề tài này đã đưa ra
những kiến nghị về các phương thức DGMT và điều kiện cần thiết để tiến
hành các phương thức GDMT có hiệu quả. Đến Năm 1998 – 2000. Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam tiếp tục triển khai đề tài “Nghiên cứu xây dựng

các phương pháp luận cơ bản về GDMT cho giáo sinh sư phạm và giáo viên”.
Đề tài này đã chỉ ra cơ sở lý luận của các phương pháp tiếp cận GDMT và
soạn thảo một số phương pháp luận cơ bản về GDMT.
Trong vài năm trở lại đây, một số địa phương trong cả nước với sự giúp
đỡ về kinh phí của Trung ương và của Sở Khoa học – Công nghệ, Sở Tài
nguyên và Môi trường và nhiều nguồn tài trợ khác đã tiến hành nghiên cứu
một số đề tài khoa học để đưa những kiến thức về môi trường địa phương vào
giảng dạy trong các trường phổ thông. Năm 1994 – 1996, Sở Giáo dục – Đào
tạo Quảng Ninh đã triển khai nghiên cứu đề tài: “Thực nghiệm giáo dục môi
trường cho học sinh trung học cơ sở”. Đề tài đã xây dựng được tài liệu về nội
dung BVMT vùng mỏ và rừng ngập mặn của địa phương. Báo cáo kết quả
nghiên cứu về phương thức GDMT ở trường phổ thông của tác giả Nguyễn

14
Văn Khang (Hải Dương) đã đưa ra những kinh nghiệm tốt để tổ chức GDMT.
Theo tác giả, muốn đưa GDMT vào trường phổ thông, trước hết cần tổ chức
bồi dưỡng cho giáo viên về nội dung và phương pháp GDMT như giới thiệu
các hướng chính về giáo dục môi trường trong các quyển: nêu lên một số khái
niệm thông thường về GDMT, gợi ý các hình thức lồng ghép chủ yếu để
GDMT cho học sinh. Ngoài ra tác giả còn đề xuất một số hình thức giáo dục
cụ thể cho từng bậc học.
Bên cạnh việc triển khai các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, địa
phương, nhiều luận văn, luận án tiến sĩ cũng đã nghiên cứu sâu về các khía
cạnh của GDMT trong nhà trường thông qua các môn học. Luận án tiến sĩ của
tác giả Nguyễn Thị Vân Hương (2002) “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng GDMT cho học sinh tiểu học” đã đưa ra một số biện pháp nâng cao
chất lượng GDMT cho học sinh tiểu học, tác giả đã tiến hành thực nghiệm các
biện pháp đó và bước đầu đã thu được những kết quả rất tốt. Luận án tiến sĩ
“Xác định các hình thức tổ chức và phương pháp GDMT qua môn địa lý ở
trường PTCS ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng (1994) đã xây

dựng cơ sở khoa học của việc xác định các hình thức và phương pháp GDMT
thông qua việc tích hợp giảng dạy các bài học của môn địa lý có liên quan đến
môi trường. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tâm (2005) với đề tài:
“Một số biện pháp quản lý hoạt động GDMT ở các trường THPT huyện
Thạch Thất, tỉnh Hà Tây” lại tập trung nghiên cứu các biện pháp để người
hiệu trưởng có thể nâng cao chất lượng quản lý hoạt động GDMT của giáo
viên trong nhà trường, qua đó nhằm nâng cao chất lượng GDMT trong các
trường THPT trên địa bàn huyện Thạch Thất, một số biện pháp được tác giả
đưa ra như: xây dựng kế hoạch DGMT của nhà trường gắn với xây dựng kế
hoạch dạy học bộ môn; Tăng cường công tác kiểm tra thông qua việc dự giờ
của giáo viên ở các bộ môn, bài học có kiến thức liên quan đến GDMT; tăng

15
cường bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn cho đội ngũ giáo viên về các hình
thức và phương pháp GDMT cho học sinh
Cùng với các đề tài nghiên cứu, trong những năm qua, nước ta cũng tổ
chức nhiều hội nghị khoa học về GDMT. Tháng 6/1982, Trung tâm bảo vệ
thiên nhiên và môi trường của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại
học Quốc gia Hà Nội) đã tổ chức hội thảo khoa học dài ngày, trong đó tập
trung nhiều đến vấn đề GDMT. Nhiều báo cáo về GDMT đã được trình bày
như: Báo cáo về GDMT trong chương trình các môn học ở trường phổ thông
của tác giả Hoàng Đức Nhuận; Báo cáo về GDMT ở Việt Nam của tác giả
Đào Văn Tiến… Trong 2 ngày 26 – 27/9/1995. Hội nghị khoa học về giáo
dục môi trường trong trường học do Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Khoa học
– Công nghệ và Môi trường tổ chức tại Hà Nội đã nêu lên những nét chung về
thực trạng môi trường và GDMT ở các địa phương và đề xuất các giải pháp
về vấn đề này trong thời gian sắp tới. Hội nghị này đã đưa ra khuyến nghị về
GDMT trong các trường học, vận động các địa phương nhanh chóng hưởng
ứng kế hoạch triển khai GDMT của quốc gia, thực hiện triển khai GDMT tại
các địa phương trong cả nước.

Vấn đề GDMT còn được triển khai nghiên cứu trong nhiều dự án. Dự
án VIE/94/01, chu kỳ 1994 – 1996, đã nghiên cứu việc tích hợp nội dung
GDMT vào chương trình giáo dục các cấp học và được phân chia thành các
thông điệp như: Môi trường – Tài nguyên; sự cần thiết và các biện pháp
BVMT… các nội dung trên được xây dựng cụ thể cho từng cấp học, theo từng
môn học và từng lớp học. Từ năm 1995 đến nay, Bộ Giáo dục & Đào tạo kết
hợp với chương trình phát triển cuả LHQ – UNDP đã triển khai Dự án
VIE/95/041, nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề GDMT trong nhà
trường. Trên cơ sở xác định vị trí, vai trò, mục tiêu, nguyên tắc và phương

16
pháp GDMT, chương trình đã tập hợp được tài liệu hướng dẫn GDMT cho
những người đào tạo giáo viên ở cả bậc tiểu học và bậc trung học.
Tóm lại, những thành tựu và kết quả của các công trình nghiên cứu về
GDMT trong thời gian qua ở nước ta cho thấy, vấn đề GDMT cho học sinh
trong các nhà trường ở nước ta đã thực sự trở thành một trong những vấn đề
cấp bách và cần thiết, góp phần quan trọng vào mục tiêu giáo dục nhân cách
toàn diện cho học sinh các bậc học, trong đó có học sinh THPT. Những
thành tựu đó có ý nghĩa to lớn cho việc xây dựng cơ sở lý luận về GDMT
trong nhà trường phổ thông tại Việt Nam và là nguồn tri thức quan trọng
giúp cho hoạt động GDMT của giáo viên trong các nhà trường đạt hiệu quả
cao. Kế thừa kinh nghiệm và những thành tựu của các công trình nghiên cứu
về GDMT trong và ngoài nước, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Giáo
dục môi trƣờng cho học sinh các trƣờng THPT huyện Sông Lô – Vĩnh
Phúc” với mong muốn tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong công
tác GDMT mà các công trình nghiên cứu trước đó đã khởi thảo xây dựng,
đồng thời căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực tiễn hoạt động GDMT tại các
trường THPT trên địa bàn huyện Sông Lô có thể xây dựng một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng GDMT cho HS THPT phù hợp với đặc trưng
riêng của các nhà trường.

1.2. Một số khái niệm công cụ của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm môi trường
Với cách hiểu rộng nhất “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các
yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có
ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên
nhiên” (Luật Bảo vệ môi trường).
Tuy nhiên, khái niệm môi trường sống của con người được dùng trong
những trường hợp cụ thể còn tuỳ thuộc vào mục đích, nội dung nghiên cứu và

17
được mở rộng theo sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau. Vì vậy mà khái niệm Môi
trường còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng tựu chung lại không
nằm ngoài định nghĩa khái quát nêu trên.
Trong giáo dục, môi trường chứa đựng phạm vi rộng lớn. Theo
UNESCO thì môi trường sống của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống
tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán,
niềm tin…), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Như
vậy, môi trường sống của con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và
phát triển cho một thực thể sinh vật là con người mà còn là “khung cảnh của
cuộc sống, của lao động và sự vui chơi giải trí của con người” (13).
Như vậy, môi trường sống của con người theo nghĩa rộng là tất cả
các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con
người như: tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh
quan, quan hệ xã hội…Với nghĩa hẹp, thì môi trường sống của con người
chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và nhân tố xã hội trực tiếp liên quan tới
chất lượng cuộc sống của con người như: số m
2
nhà ở, chất lượng bữa ăn

hàng ngày, nước sạch, điều kiện vui chơi giải trí…Tóm lại, Môi trường là
tất cả những gì xung quanh chúng ta, tạo điều kiện để chúng ta sống,
hoạt động và phát triển.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại sau:
- Môi trường tự nhiên: bao gồm tập hợp các yếu tố tự nhiên như: vật lý,
hoá học, sinh học tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng cũng ít nhiều chịu
tác động của con người như: đất, nước, không khí, nhiệt độ, ánh sáng, động
thực vật… Các yếu tố trong môi trường tự nhiên có quan hệ mật thiết với nhau,
nếu một yếu tố nào đó thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi các yếu tố khác.

×