Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn hoạt động huy động vốn tại NHNoPTNT thành phố thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.82 KB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam trong những năm gần đây cơ sở hạ tầng bắt đầu dược quan
tâm thì xuất hiện hai vấn đề :” Sự căng thẳng về vốn và làm thế nào để sử
dụng vốn có hiệu quả”. Với bất kỳ Doanh nghiệp nào vốn là 1 trong các yếu
tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với
Ngân hàng thương mại(NHTM) tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho vay từ số tiền
huy động được, đồng thời làm các dịch vụ Ngân hàng thì vai trò của nguồn
vốn đang trở nên đặc biệt quan trọng. Qui mô, cơ cấu và các dịch vụ mang
đặc tính của nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của một NHTM
bao gồm qui mô, cơ cấu, thời hạn tài sản và khả năng cung ứng dịch vụ, từ
đó quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn của mỗi Ngân hàng.
Là mét chi nhánh của NHNo&PTNT Việt nam, NHNo&PTNT Thành
phố Thái Nguyên trải qua hơn 10 năm đã đạt mức tăng trưởng đáng kể trong
mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh nhưng thực
tiễn đang đặt ra những thách thức mới ở phía trước. Do ảnh hưởng của tình
hình kinh tế xã hội địa phương, những khó khăn từ môi trường kinh tế vĩ mô
từ nội tại của mình và cạnh tranh càng gia tăng bởi có thêm nhiều hoạt động
của các tổ chức tài chính phi Ngân hàng về huy dộng vốn như: Bảo hiểm,
Quỹ hỗ trợ phát triển, Bưu điện huy động tiền gửi tiết kiệm, Kho bạc huy
động trái phiếu, sự ra đời của pháp lệnh thương phiếu điều chỉnh các quan hệ
tín dụng thương mại … Mặt khác trần lãi suất cho vay ngày càng giảm thấp
và những đặc điểm riêng có của mình thì hoạt động huy động vốn của
NHNo&PTNT Thành phố Thái Nguyên cần áp dụng những giải pháp thích
ứng .
Sau khi ngiên cứu các vấn đề lý luận kết hợp với thực tiễn ở đơn vị thực
tập em đã mạnh dạn chọn đề tài :”Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên “
làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Huy động vốn –vấn đề sống còn đối với hoạt động kinh


doanh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng về huy động vốn của Ngân hàng Nông ngiệp
và Phát triển Nông thôn Thành phố Thái Nguyên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
NHNO&PTNT Thành phố Thái Nguyên.
Do hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên chuyên đề
của em còn có những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu của các Thầy giáo, Cô giáo thuộc bộ môn, Ban lãnh đạo
NHNo&PTNT Thành phố Thái Nguyên và tất cả những ai quan tâm tới
chuyên đề để em nâng cao nhận thức và hoàn thành chuyên đề một cách tốt
hơn.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 20

tháng 4 năm 2005
Sinh viên thực hiện
Đỗ thị phương Thảo
CHƯƠNG 1
HUY ĐỘNG VỐN- VẤN ĐỀ SỐNG CÒN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.1 TỔNG QUAN VỀ NHTM
Hệ thống NHTM ra đời là kết quả của quá trình hình thành và phát
triển lâu dài của kinh tế hàng hoá , của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Tuy khái
niệm vế NHTM ở mỗi quốc gia còn có những điểm khác nhau nhưng đều
thống nhất coi NHTM là Doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ và cung
ứng những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong số những tổ chức
tài chính trung gian, các tổ chức tài chính có năng lực giống nhau là dẫn
vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ở Việt nam pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính năm 1990 định nghĩa: ”NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt

động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Theo luật các tổ chức tín dụng (Luật số 02/1997/QH10) Điều 20:
”NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
NHTM hoạt động kinh doanh trên cơ sở các điều kiện kinh tế và quy
định của luật pháp, thông qua các hoạt động đó chúng tác động đến nền
kinh tế và đời sống kinh tế xã hội . Cơ sở kinh tế khách quan của chức năng
mà hệ thống NHTM đảm nhận là sự cần thiết có các trung gian tài chính
dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn , làm trung gian thanh toán trong
nền kinh tế v.v…NHTM nhận tiền gửi phát hành các công cụ nợ, sử dụng
số tiền này để cho vay với một lãi suất và kỳ hạn nhất định, người vay phải
trả cho Ngân hàng cả gốc và lãi . Lãi thu được từ các khoản cho vay và các
khoản đầu tư vào chứng khoán tạo nên bộ phận thu nhập của Ngân hàng .
Để tạo lập nguồn vốn, Ngân hàng phải trả cho các khoản tiền gửi hoặc các
khoản vay và chi phí khác. Với mục tiêu tăng cường hoạt động kinh doanh
và tối đa hoá lợi nhuận, NHTM thường xuyên tổ chức khai thác các nguồn
vốn với chi phí thấp để mở rộng cho vay và đầu tư,…Xuất phát từ xu hướng
phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở rộng các hoạt động
dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Thông qua việc đa dạng hoá hoạt động ,
các Ngân hàng có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định
chế tài chính phi Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ.
1.2 VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NHTM
Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải
có vốn, vốn là năng lực chủ yếu nó quyết định đến khả năng, quy mô hoạt

động của Ngân hàng. Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh lớn cho phép mở
rộng các hình thức kinh doanh hay đa dạng hoá cho các hoạt động kinh
doanh giúp cho các Ngân hàng giảm thiểu rủi ro.
Nguồn vốn quyết định khả năng thanh toán chi trả của một Ngân
hàng, nếu có nguồn vốn lớn, năng lực thanh toán tốt thì sẽ gây được uy tín
trên thị truờng.
Nguồn vốn của Ngân hàng còn là một nhân tố tác động đến sự thắng
lợi trong cạnh tranh tạo cho Ngân hàng có một chỗ đứng vững chắc trên thị
trường. Ngân hàng có khả năng vốn dồi dào cho phép điều chỉnh phí bình
quân đầu vào là một lợi thế cạnh tranh.
Mặt khác, Ngân hàng khi có nguồn vốn lớn sẽ có đủ khả năng tài
chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, thoát khỏi hình thức kinh
doanh đơn điệu, có quỹ dự trữ cần thiết tạo đà mở rộng quy mô hoạt động
tín dụng và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của Ngân hàng.
Đại bộ phận nguồn vốn của NHTM là nguồn vốn mà Ngân hàng huy
động được trong nền kinh tế. Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn
vốn phong phú, đa dạng đòi hỏi NHTM phải đa dạng hoá được các nguồn
vốn nghĩa là có một tỷ trọng vốn trung và dài hạn thích hợp để thực hiện
chức năng của một Ngân hàng đa năng, khi thực hiện được điều đó Ngân
hàng sẽ luôn giữ được lợi thế trong cạnh tranh , uy tín của Ngân hàng không
ngừng được nâng cao.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
- Nguồn vốn tự có.
- Nguồn vốn huy động.(TG thanh toán , TG tiết kiệm của dân cư,
tiền đi vay)
- Nguồn vốn khác.
Trong các nguồn vốn của NHTM thì nguồn vốn huy động có ý nghĩa
hêt sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh . vì vậy để duy trì và phát
triển NHTM phải hết sức chú trọng đến công tác huy động vốn.
1.3 CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM

Các NHTM với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính
trung gian, nhận tiền của khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi vào Ngân hàng
hoặc phát hành các công cụ tài chính như các chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếuv.v…để thu hót vốn.
Các tổ chức cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng đáp ứng cho nhu cầu
thanh toán, thông qua việc làm trung gian thanh toán và chuyển hoá thanh
toán, Ngân hàng thu hót được lượng vốn lớn trong thanh toán . Đây là
nguồn vốn có chi phí thấp nên các NHTM thường xuyên cải tiến các
phương tiện, nâng cao công nghệ thanh toán để thắng thế trong việc hấp dẫn
khách hàng gửi tiền và bán thêm các dịch vô . Các doanh nghiệp , tổ chức
kinh tế cá nhân thường mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một hoặc một số
NHTM nhất định, khi cần thiết yêu cầu rót ra hoặc chuyển trả tiền cho bên
thụ hưởng một cách nhanh chóng vì tính chất của tài khoản này là thanh
toán theo yêu cầu. Qua đó Ngân hàng vừa là thủ quỹ, vừa cung cấp dịch vụ
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.
Ơ’ Việt nam, mét trong các yếu cầu bắt buộc khi mét Doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh phải mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một
NHTM, tài khoản này một mặt llà nơi thu nhận tiền từ những người mua
hàng hoặc dịch vụ mà Doanh nghiệp này cung ứng, một lúc nào và trong
nhiều trường hợp, số dư của nó được định để bảo lãnh hay đặt cọc cho các
hợp đồng hoặc thoả ước khác.
Trong khi thực hiện là trung gian thanh toán các NHTM còn nhận được
tiền gửi các tổ chức tín dụng là một loại tiền gửi giao dịch.
để thu hót được tiền gửi phi giao dịch của tổ chức, cá nhân, Ngân hàng
sử dụng các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn các tổ chức kinh
tế xã hội hoặc phát hành các loại giấy tờ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu, giấy
chứng nhận tiền gửi.
1.3.1 Huy động vốn dưới hình thức tiền gửi (tiền gửi thanh toán)
Các tổ chức kinh tế - xã hội, các tổ chức tín dụng khác, cá nhân mở tài
khoản giao dịch tại các NHTM, thông qua tài khoản này, người sở hữu

chúng có quyền phát hành séc hoặc lệnh chi trả cho người khác. Trước đây
tài khoản tiền gửi có thể phát séc không được hưởng lãi nhưng để huy động
được nguồn vốn này ngoài việc cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thanh
toán, các NHTM đã thực hiện trả lãi cho loại tiền gửi này. Loại tiền gửi này
là nguồn vốn Ngân hàng phải chi phí huy động thấp nhất do người gửi tiền
quan tâm nhiều hơn đến tính lỏng trong tài khoản của họ.
Ở mét số nước, một số tài khoản có thể phát séc ra đời nhằm huy động
nguồn vốn ổn định hơn nhưng phải áp dụng lãi suất hấp dẫn hơn như tài
khoản ATS (Automatic trangfer from savings), tài khoản NOW (Negotiable
order of with drawal) xuất hiện ở Mỹ năm 1970 và tài khoản MMDAS
(Money market deposit accounts) được sử dụng năm 1982. Các ngân hàng
thường yêu cầu mức dư tối thiểu trên tài khoản trước khi người gửi được
hưởng lãi, lãi suất trả cho loại tiền gửi này cao hơn lại tài khoản vay lãi, đổi
lại số dư của nó tương đối ổn định hơn. Những quy định về loại tài khoản
này rất khác nhau giữa các Ngân hàng, tuy nhiên đặc điểm vốn có của tiền
gửi phát hành séc là tiền gửi có thể được thanh toán khi người gửi yêu cầu
nên nguồn vốn này có độ ổn định thấp. Một lý do khác gây nên sự mất ổn
định của loại tiền gửi này do chi phí của Ngân hàng cho nó thấp dẫn đến việc
cạnh tranh giữa các NHTM để huy động tiền gửi.
1.3.2 Huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Bao gồm hai loại chính là tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn hoặc
các giấy chứng nhận tiền gửi. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất của
các NHTM đặc tính chung của loại này là người sở hữu được hưởng lãi và
không được phát hành séc. Mức lãi suất thường cao hơn tiền gửi giao dịch vì
người gửi tiền không được hưởng dịch vụ của Ngân hàng và họ đánh đổi tính
lỏng lấy thu thập từ tài sản của họ.
Tiền gửi trên tài khoản tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch phổ biến
nhất, tiền gửi tiết kiệm có thể có hoặc không có kỳ hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn có thể gửi thêm hoặc rót ra bất kỳ lúc nào. Tiền
gửi có kỳ hạn về nguyên tắc không được rút trước hạn. Tuy nhiên do cạnh

tranh về vốn huy động, các NHTM đã cho phép khách hàng rút theo yêu cầu
sau khi họ phải chịu mức phạt tiền lãi. Đây là nguồn vốn có thời hạn dài nên
chi phí cao và khá ổn định. Tiền gửi kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội
là những khoản tiền gửi có thời gian đến hạn xác định từ một vài tháng đến
vài năm. Lãi suất phải trả cho loại tiền gửi này khá cao và tương quan với kỳ
hạn, có thể với cả quy mô tiền gửi tùy theo sự vận dụng của mỗi Ngân hàng.
Ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiền gửi có kỳ hạn
được chia làm hai nhóm: Tiền gửi kỳ hạn có quy mô nhỏ là loại tiền có lãi
suất cao hơn nhưng có tính lỏng lẻo hơn tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi kỳ hạn
loại lớn có thể đem bán trên thị trường thứ cấp trước khi đến hạn. Ở khía
cạnh này nó giống như một trái khoán. Loại chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá
lớn CDS (Certificat of deposits) có thể trao đổi xuất hiện ở Mỹ lần đầu vào
năm 1961 và đã trở thành công cụ nợ quan trọng của Ngân hàng tại các nước
có nền kinh tế phát triển.
Do đặc thù của quan hệ thanh toán mà các tổ chức tín dụng thường mở
tài khoản tại các tổ chức tín dụng khác tạo thành tiền gửi của các tổ chức tín dụng.
1.3.3 Huy động vốn bằng cách đi vạy
* Vay chiết khấu hay tải cấp vốn của Ngân hàng Trung ương
Việc vay vốn từ Ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm
thời của nguồn vốn do sự giảm sút số vốn hiện có với tài sản của NHTM.
Tuy nhiên nhu cầu khoản vay này phải phù hợp với mục tiêu của NHTM. Ở
nhiều nước khoản vay này phải ký quỹ bằng thương phiếu hoặc các giấy tờ
có giá khác như: Hối phiếu chấp nhận thanh toán… Đặc điểm nguồn vốn này
là thời hạn ngắn do đó các NHTM phải tăng cường huy động các nguồn vốn
khác để trả nợ ngay khi đến hạn. Là nguồn vốn quan trọng khi gặp khó khăn
trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Chi phí vốn cho tiền vay thường
cao hơn so với các nguồn khác.
* Vay các tổ chức tín dụng khác
Các NHTM có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường liên Ngân hàng trong nước hoặc Quốc tế. Tiền vay có thời hạn từ một

ngày (Over night) đến một vài tháng để bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn
vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên đây là nguồn vốn thường có thời hạn ngắn và
chi phí cao nên việc vay mượn có tính tạm thời, về lâu dài các NHTM tìm
cách khai thác nguồn vốn tiền gửi để trả khoản nợ này.
1.3.4 Huy động vốn bằng các hình thức khác
1.3.4.1 Phát hành các giấy tờ có giá
Các NHTM phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với đặc điểm là có kỳ
hạn và khoản lãi được hưởng ghi trên bề mặt của nó. Hình thức huy động
vốn này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời
gian phát hành nhất định khi cần thiết. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam kỳ phiếu ngân hàng thường chiếm khoảng
50% nguồn vốn huy động có kỳ hạn. Trường hợp khách hàng rút vốn trước
hạn, Ngân hàng thanh toán tiền lãi theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn xuất phát từ lý do cạnh tranh và yêu cầu bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Đặc điểm của khoản nợ này là có tính ổn định cao, quyền đòi tiền
thường xếp sau các khoản tiền gửi. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại giấy
tờ có giá có thể được mua bán trên thị trường trong khi với các nước có thị
trường tài chính phát triển, hoạt động mua bán các công cụ nợ diễn ra khá
phổ biến và sôi động.
1.3.4.2 Nhận vốn ủy thác đầu tư
Đối với một số NHTM, ngoài nguồn vốn huy động, vay tái cấp vốn
của Ngân hàng Trung ương còn có thể nhận được nguồn vốn ủy thác đầu tư
của Nhà nước và các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế theo các
chương trình, dự án có mục tiêu cụ thể. Để được nhận nguồn vốn này, các
Ngân hàng phải lập dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp
với đối tượng các khoản vay. Hiện nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam đang nhận vốn ủy thác của các dự án: Phục hồi và
phát triển nông thôn, dự án tín dụng nông thôn…
1.3.4.3 Sử dụng các nguồn vốn khác
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các NHTM có thể sử dụng

kết dư trên các tài khoản thanh toán vãng lại như chênh lệch thu hộ lớn hơn
chi hộ các Ngân hàng khác trong thanh toán liên hàng. Ngoài ra còn có thể
có số dư trên các tài khoản ký quỹ hoặc các khoản quản lý, giữ hộ nhưng số
vốn này không nhiều và Ngân hàng không chủ động trong việc tập trung
nguồn vốn này.
Như vậy, các NHTM tạo lập nguồn vốn chủ yếu bằng phương thức
huy động vốn để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi, vốn trong thanh toán của
khách hàng, trường hợp mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có thể
vay vốn các tổ chức tín dụng hoặc dưới hình thức chiết khấu của Ngân hàng
Trung ương và có thể nhận vốn ủy thác đầu tư cùng với số vốn của chủ sở
hữu để có nguồn vốn với quy mô nhất định đủ tài trợ cho danh mục tài sản.
Phương thức huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội giữ vai trò quan trọng nhất
do nã cho phép khai thác, phát huy nội lực để phát triển kinh tế đồng thời
thường có chi phí thấp hơn so với các nguồn vốn khác.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn
1.4.1 Môi trường kinh doanh
Hoạt động kinh doanh nói chung và huy động vốn của Ngân hàng nói
riêng luôn gắn với môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường kinh tế và
pháp lý.
Hệ thống Ngân hàng được coi là "Phong vũ biểu" của một nền kinh tế,
việc huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của thực thể, tốc độ chu chuyển
vốn, tình trạng thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát… tác động trực tiếp. Ngân hàng
là Doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt chịu tác động bởi nhiều chính sách, các
quy định của Chính phủ và của Ngân hàng Trung ương. Thay đổi chính sách
của Nhà nước, của Ngân hàng Trung ương về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi
suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hót vốn cũng như chất lượng của nguồn
vốn của Ngân hàng Trung ương. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách
ngoại giao cũng tác động đến quan hệ nguồn vốn của một Ngân hàng với các
quốc gia khác trong khu vực và trên Thế giới.

Phân bổ dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm năng
có thể khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của NHTM.
Môi trường văn hóa như tập quán, tâm lý, thãi quen sử dông tiền của
dân cư ảnh hưởng nhiều đến quýêt định kinh tế của người có thu nhập về tiêu
dùng và tiết kiệm, mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín
dụng hay quyết định chỉ số tiền nhàn rỗi của các hộ đầu tư vào bất động sản,
động sản, chứng khoán.
Khả năng ứng dụng công nghệ trở thành một trong điều kiện bắt buộc
để Ngân hàng tồn tại và phát triển trong những năm gần đây, nhờ tiến bộ của
công nghệ thông tin, đã xuất hiện sản phẩm dịch vụ mới liên quan đến hoạt
động huy động nguồn vốn của Ngân hàng như dịch vụ Ngân hàng tại nhà
(Home banking), máy rút tiền tự động ATM, thư tín dụng, hệ thống thanh
toán tiền điện tử… Với những sản phẩm, dịch vụ mới tỷ lệ gửi tiền, thanh
toán qua Ngân hàng ngày càng tăng và đạt tỷ lệ rất cao ở các nước có nền
kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Đức…
Hoạt động kinh doanh Ngân hàng ngày có sự tham gia của nhiều loại
hình Ngân hàng mới và có tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Cạnh tranh có
xu hướng gia tăng mạnh, càng giảm đi sự khác biệt giữa các NHTM với các
tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Khách hàng có tiền nhàn rỗi có thể đầu tư
trực tiếp vào mua chứng khoàn của Chính phủ và Công ty. Xu hướng cạnh
tranh trong ngành càng gia tăng do các yếu tố: Thay đổi chính sách về tài
chính tiền tệ, đổi mới tài chính của Doanh nghiệp kinh tế tiền tệ, chứng
khoán hóa và toàn cấu hóa. Cạnh tranh trong ngành Ngân hàng về tiền gửi
diễn ra dưới nhiều hình thức. Các tổ chức tài chính phi Ngân hàng Ýt bị giới
hạn bởi các điền khoản liên quan đến tiền gửi do vậy khách hàng có thể thỏa
thuận về quy mô tiền gửi, lãi suất và thời hạn. Các Ngân hàng có thể áp dụng
những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do này,
các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến
nhanh chóng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức tài chính phi Ngân hàng có thể
huy động tiền gửi có kỳ hạn, thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ

hạn (Tiến kiệm bưu điện). Do cạnh tranh, lãi suất tiền gửi tăng lên tong khi
giá dịch vụ liên quan đến tiền gửi giảm xuống, điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả kinh doanh của các Ngân hàng.
1.4.2 Chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy đôịng vốn
Giê đây, khách hàng có nhiều cơ hội lùa chọn, Ngân hàng ma theo họ
là thuận tiện, hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cấp trừ tiền tệ và kiếm lời
từ lãi suất. Do đó, các Ngân hàng nhận thấy cần có chiến lược khách hàng
đúng đắn trong hoạt động nói chung và trong huy động vốn nói riêng.
Trước tiến, Ngân hàng cần hiểu được động cơ, thãi quen và những
mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng gửi tiền
thông qua phân tích lợi Ých của khách hàng, mục đích gửi tiền của Doanh
nghiệp thường là nhở ngân hàng quản lý, ký quỹ hoặc nhờ chi trả trong thanh
toán trong khi các cá nhân gửi tiết kiệm có mục đích là hưởng lãi. Mục đích
của tiền gửi trên loại tài khoản khác nhau cũng rất khác nhau như tiền gửi
giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành tiền cho
tiêu dùng, đầu tư trong tương lai đồng thời hưởng lãi.
Trên cơ sở những thông tin của khách hàng, Ngân hàng có thể đưa ra
hệ thống các chính sách và biện pháp phù hợp để có được quy mô và chất
lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách đáp ứng và gợi mở
nhu cầu liên quan đến huy động vốn bao gồm: Các chính sách liên quan đến
sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của Ngân hàng. Nhóm chính sách này nhằm
vào việc đánh giá các loại sản phẩm, dịch vụ cung cấp và chất lượng của
chúng như: chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịch vụ liên quan đến tiền
gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời hạn thanh toán…
Những năm gần đây các Ngân hàng đã đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, hoàn
thiện và đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu
cầu thị trường đồng thời mở rộng phát triển dịch vụ mới.
Các chính sách về giá cả, lãi suát tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và chi phí
dịch vụ được coi là giá cả của các sản phẩm và dịch vụ Tài chính. Ngân hàng
sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy

động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hót thêm
nguồn vốn, Ngân hàng cần Ên định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện những
ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa, hệ
thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn. Quy
mô và cơ cấu cơ sở vật chất kỹ thuật là một tổng các nguồn lực để Ngân
hàng hoạt động có hiệu quả. Đó là mạng lưới chính sách, các điểm giao dịch
với đặc thù vị trí, hệ thống thông tin và thiết bị khác.
Tài sản vô hình: quan trọng nhất của Ngân hàng là uy tín của nó trong
hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám đốc. Sự nổi
tiếng của Ngân hàng là tài sản quý giá trong huy động vốn. Thuộc nhóm này
phải kể đến các quan hệ mà Ngân hàng đã tạo lập được với các khách hàng
hiện có, khách hàng tiềm năng, các trung gian tài chính và các cơ quan nhà nước.
1.4.2.1 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Ngân hàng cần xác định vị trí của mình trong hệ thống thấy được điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Song Ngân hàng cũng phải dự đoán
trước thay đổi của môi trường để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp
mà trong đó chiến lược phát triển quy mô và điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn là
một bộ phận. Quy mô vốn tự có: vốn tự có là nguồn vốn có thể đóng vai trò
cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM, nó đảm bảo thông
tin của khách hàng đối với NH cũng là yếu tố quyết định giới hạn tối đa của
quy mô nguồn vốn.
1.4.2.2 Tính chất sở hữu của Ngân hàng
Yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức
và cơ chế tài chính, chiến lược kinh doanh từ đó ảnh hưởng đến hoạt động
huy động vốn và quản lý, sử dụng vốn.
Trên đây là hệ thống lý luận liên quan đến hoạt động của Ngân hàng
và nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô cơ cấu nguồn vốn.
Nguồn vốn còn bị chi phối bởi giá cả của các dịch vụ khác như phí chuyển
tiền, phí dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, các chính sách về tổ chức kỹ thuật: Đây là

các chính sách và biện pháp nhằm làm thuận lợi, nhanh chóng, đơn giản trong quan
hệ với khách hàng. Bao gồm việc bố trí mạng lưới thu hót vốn, hoàn thiện công
nghệ Ngân hàng, cơ chế tài chính đồng thời tổ chức thống suốt hệ thống thanh toán
sao cho nhanh chóng, an toàn, chính xác.
Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp: các chính sách này được các
NHTM rất quan tâm nhằm tạo, củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó với
khách hàng truyền thống và hấp dẫn khách hàng mới. Trong điều kiện khó có thể
duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả như hiện nay, chất lượng dịch vụ khách
hàng trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hót nguồn vốn. Thái
độ phục vụ thân thiện, chu đáo, bố trí hệ thống thanh toán khoa học là những điều
hết sức cần thiết để giữ vững khách hàng hiện có và thu hót thêm khách hàng.
1.4.3 Các nhân tố khác
1.4.3.1 Mạng lưới và các hình thức huy động
Mạng lưới hoạt động càng rộng và các hình thức huy độngv ốn càng
đa dạng phong phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do việc
thực hiện được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ Ngân hàng…
1.4.3.2 Cơ sở vật chất của Ngân hàng dẫn đến uy tín của Ngân hàng
Cơ sở vật chất của Ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ
tiên tiến mang lợi Ých thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi
và phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho người gửi tiền từ đó mở rộng
quy mô huy động vốn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
2.1 Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái
Nguyên
2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội địa phương
2.1.1.1 Mét số đặc điểm chung
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bộ,

mới được tái lập lại năm 1997, có tổng diện tích tự nhiên là 3.541 ha, có
166.534 hộ nông dân gồm 796.257 khẩu tiềm năng về đất đai và lao động là
rất lớn. Thái Nguyên thực hiện cơ cấu Công - Nông - Lâm nghiệp và Dịch
vụ, nhưng kinh tế của tỉnh hiện nay vẫn chủ yếu là sản xuất đất Nông nghiệp
- Lâm nghiệp. Mặc dù vậy kinh tế Nông - Lâm nghiệp phát triển vẫn chưa
đồng đều, một số nơi trình độ canh tác còn lạc hậu, sản xuất Nông nghiệp
còn mang tính chất độc canh, tù cung tự cấp. Bên cạnh đó các ngành nghề
khác chưa phát triển, lao động dư thừa nhât là vùng sâu, vùng xa đời sống
của hộ nông dân còn nghèo vì vậy phải tập trung phát triển Nông - Lâm -
Ngư nghiệp. Phát động sản xuất Nông nghiệp giỏi trong nông dân, động viên
tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, kết hợp với phát triển gia đình bằng các
mô hình VAC, VACR… nhằm sản xuất nhiều sản phẩm, hàng hóa, xóa đói
giảm nghèo và làm giàu chính đáng. Đây là một chiến lược quan trọng làm
ổn định tình hình kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Là một tỉnh miền núi còn gặp không Ýt những khó khăn về mọi mặt,
song bằng nhiều cơ chế chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong
lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội ở địa phương cũng như được sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy, sự quản lý điều hành có hiệu quả của chính quyền các cấp cùng
với sự cố gắng lao động cần cù, sáng tạo của người dân, vì vậy trong những
năm qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ, kinh tế tiếp tục phát triển
theo chiều hướng tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
cải thiện. Cụ thể là: Tốc độ tăng trưởng GDP của cả năm đạt 92%, vượt mức
kế hoạch đặt ra là 15%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên chuyển dịch
khá rõ nét, theo hướng tích cực, sản lượng lương thực có hạt đạt 360 ngàn
tấn, vượt kế hoạch 11,81%, tăng 2,52% so với năm trứơc. Diện tích rừng
trồng mới 2000 ha đạt 100% kế hoạch, diện tích trồng mới 700 ha, đạt 100%
kế hoạch, diện tích cây ăn quả trồng mới 700 ha. đạt 19,7% kế hoạch. Giá trị
sản xuất Công nghiệp là 4000 tỷ, đạt 91,04% so với kế hoạch, tăng 9,53% so
với năm trước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu 25,1 triệu USD, đạt 100,4% so
với kế hoạch, tăng 40% so với năm trứơc. Thu ngân sách địa phương tăng

15% so với năm trước. Giá cả trên địa bàn tương đối ổn định theo xu hướng
tăng nhẹ.
Nhìn chung trong năm 2004 tỉnh Thái Nguyên đã hoàn thành toàn diện
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững, chính trị,
trật tự an toàn xã hội luôn ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất
kinh doanh trong đó có hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
2.1.1.2 Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
Ngân hàng
a. Thuận lợi
Thành phố Thái Nguyên mới được công nhận là đô thị loại II, là trung
tâm chính trị văn hóa của Tỉnh, cơ sở hạ tầng đã được quan tâm đầu tư ngày
càng hoàn thiện. Nhiều dự án đầu tư, nhiều doanh nghiệp đăng ký hoạt động
đã tăng thêm, năng lực sản xuất kinh doanh giữ được nhịp độ tăng trưởng
kinh tế ổn định và ngày càng phát triển.
Năm 2004 mức tăng trưởng kinh tế đạt 11,57%, giá trị sản xuất công
nghiệp đạt 3.193 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm 2003. Tổng sản lượng
lương thực có hạt đạt 27.757 tấn, đạt 106,7% kế hoạch. Hoạt động Thương
mại Dịch vụ diễn ra sôi động, hàng hóa trên thị trường rất phong phú, đa
dạng thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu cho tiêu dùng.
Tổng thu ngân sách của Thành phố đạt: 142,4% tỷ, đạt 136,2% kế
hoạch tỉnh giao, giải quýêt việc làm cho 6.000 lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo
xuống còn 1,35% đạt 100% kế hoạch.
An ninh chính trị và trận tự an toàn xã hội được đảm bảo ổn định.
Trên đây là những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tốt đến hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng.
b. Khó khăn
Năm 2004 do biến động về giá cả của một số mặt hàng chiến lược trên
thị trường Quốc tế như xăng dầu, sắt thép, dược phẩm, phân bón… đã làm
cho giá vàng, đô la trên thị trường bất động sản không ổn định, ảnh hưởng
đến giá hàng tiêu dùng, với tỷ lệ trượt giá cả năm lên đến 9,5%. Thời tiết ảnh

hưởng xấu đến sản xuất Nông nghiệp như rét đậm, rét hại kéo dài, lượng
mưa thấp gây ra hạn hán. Đặc biệt là dịch cóm gia cầm thiệt hại lớn đến
ngành sản xuất, chăn nuôi. Từ những nhân tố ảnh hưởng nêu trên đã gây rất
nhiều khó khăn cho hoạt động kinh tế của Ngân hàng, đặc biệt là việc khai
thác huy động vốn.
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền
kinh tế nước ta làm cho nền kinh tế có chiều hướng chững lại trong năm qua
các Doanh nghiệp ngoài những khó khăn nội tại còn gặp nhiều cản trở trong
tiêu thụ sản phẩm do thị trường truyền thống bị thu hẹp, việc tìm kiếm các
đối tác kinh tế mới khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
kinh doanh của các Doanh nghiệp trong tỉnh. Từ đó ảnh hưởng đến quy mô,
chất lượng tín dụng và khả năng hoạt động nguồn vốn của các NHTM. Cạnh
tranh giữa NHTM còn có thêm các tổ chức tài chính phi Ngân hàng ngày
càng gay gắt cả trên lĩnh vực nguồn và cho vay. Đầu tư là những khó khăn
buộc các Ngân hàng phải xác định lại chiến lược kinh doanh để trụ vững,
khẳng định vị thế của mình.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thành phố Thái Nguyên
2.1.2.1 Mô hình tổ chức - mạng lưới
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái
Nguyên gồm Hội Sở và 5 Chi nhành Ngân hàng liên xã (ngân hàng cấp 3)
trực thuộc các Ngân hàng huyện là đơn vị trực tiếp kinh doanh và nhận
khoán tài chính với Ngân hàng Thành phố theo quy định 946A của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Biên chế cán bộ đến ngày 31/12/2004 toàn chi nhánh có 45 người, cơ
cấu phân theo trình độ: trên đại học 2%, đại học và tương đương 77%, trung
cấp 17,7%, sơ cấp chưa qua đào tạo 3,3%. Tuổi đời trung bình: 36
Biểu 1
Cán bộ chủ yếu được tiếp nhận từ Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh. Thường xuyên được bồi dưỡng,

tiếp thu kiến thức, kinh tế thị trường qua các líp đào tạo và đào tạo lại như
đại học tại chức và chương trình tập huấn ngắn ngày.
Mụ hỡnh t chc mng li
Vi h thng cỏc ngõn hng liờn xó ti cỏc cm dõn c ó rỳt ngn
khong cỏch khụng gian gia ngõn hng vi ngi gi cng nh ngi vay tin.
Hi S ca Ngõn hng Nụng nghip v Phỏt trin nụng thụn thnh ph
Thỏi Nguyờn t ti trung tõm thnh ph cng l trung tõm ca tnh Thỏi
Nguyờn, ta ú cỏc ngõn hng cụng thng, ngõn hng u t v phỏt trin
cỏc t chc tớn dng khỏc nh: Qu h tr phỏt trin, qu tớn dng õy l
th trng ln nhng s cnh tranh din rt quyt lit trờn mi lnh vc nh
huy ng vn, tớn dng v u t.
Giám đốc
Các Phó giám đốc phụ trách chuyên đề
Các phòng chuyên
môn nghiệp vụ
Bộ phận văn phòng
Ngân hàng cấp 3 trực thuộc Hội Sở
Ngân hàng liên xã
2.1.2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thành phố Thái Nguyên.
a. Hoạt động cho vay qua các năm
Biểu 2
Đơn vị: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Thời điểm
31/12/2002
%
Thời điểm
31/12/2003
%

Thời điểm
31/12/2004
%
Doanh sè cho vay 128.324 147.179 173.150
Dư nợ ngắn hạn 52.802 47,3 65.903 49,8 82.199 50,1
Dư nợ trung và dài hạn 58.982 52,7 66.301 50,2 81.709 49,9
Tổng dư nợ 111.784 100 132.204 100 163.908 100
So với dư nợ năm
trước
99,1% 118,3% 123,9%
Nguồn: Báo cáo tín dụng các năm 2002, 2003, 2004 -NHNo&PTNT Thành Phố Thái Nguyên
Dùa vào biểu 2 ta thấy:
- Tình hình doanh sè: Doanh sè cho vay năm 2003 tăng 18.855 triệu =
14,3% so với năm 2002. Đến năm 2004 doanh sè cho vay tiếp tục tăng
25.971 triệu = 17,3% so với năm 2003.
- Tình hình dư nợ: Dư nợ năm 2004 của chi nhánh đạt 163.908 triệu
đồng tăng 24% so với 31/12/03 vượt 1,2% so với kế hoạch.
Trong đó:
+ Dư nợ ngắn hạn là: 82.199 triệu đồng, tăng 16.296 triệu đồng =
24,7% so với 31/12/2003.
+ Dư nợ trung và dài hạn: là 81.709 triệu đồng tăng 15.408 triệu đồng
= 23,2% so với 31/12/2003.
+ Dư nợ quá hạn: là 1.122 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ 0,68%, tăng
0,32% so với năm 2003.
Trước sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tăng cao về tín dụng của
cả nước cũng như của địa phương trên cơ sở phân tích kỹ thị trường và dự
báo thị trường chính xác hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã tăng trưởng
rõ rệt qua các năm. Để nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng được sự
giúp đỡ của các cơ quan pháp luật tiến hành xử lý nợ khó đòi, nợ xâm tiêu
nên cuối năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn cũng như những vụ việc đã được hình sự

hóa quan hệ tín dụng đã tác động đến tâm lý cán bộ tín dụng dẫn đến tình
trạng cán bộ tín dụng dè dặt trong khi cho vay để né tránh trách nhiệm.
Một nguyên nhân khác là lãnh đạo một số ngân hàng chi nhánh chưa
bám sát diễn biến thị trường, nắm chặt nhu cầu vay vốn của khách hàng, đặc
biệt là trong khâu tư vấn giúp khách hàng tìm được cách thức sản xuất kinh
doanh còn hạn chế, nên cho đến nay số hộ sản xuất các tiểu chủ vay vốn chỉ
đạt 40 - 45% số hộ trong thành phố.
Cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các ngân hàng thương mại và các
quỹ tín dụng trên địa bàn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
thành phố Thái Nguyên thường xuyên đưa ra mức lãi suất thấp hơn cho vùng
nông thôn 0,5%/tháng nhưng vẫn chưa thu hót nhiều khách hàng so với n1
ngân hàng thương mại nhưng hiệu quả đạt được vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng của nó.
Tình hình cơ cấu dư nợ theo thời hạn.
Ngân hàng thực hiện chủ trương của Đảng được nêi trong Nghị quyết
06-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp nông
thôn" "Mở rộng tín dụng, tăng dần vốn trung và dài hạn. Đáp ứng yêu cầu
vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Thời hạn cho vay phải phù
hợp với chu kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng, có thời gian khấu hao
máy móc nông nghiệp", đặc biệt là quyết định 67/1999/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, tỷ trọng dư nợ như hiện nay cho phép ngân hàng có sự ổn
định của thu nhập từ tiền lãi, lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn so với
vay ngắn hạn.
Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế những năm qua phản ánh thị
trường cho vay chủ yếu, khách hàng truyền thống của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái Nguyên là kinh tế nông
nghiệp nông thôn.
Biểu 3: Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu VND
Đối tượng vay

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Dư nợ
Tỷ trọng
%
Dư nợ
Tỷ trọng
%
Dư nợ
Tỷ trọng
%
1. Doanh nghiệp
nhà nước
4.827 4,3% 3117 2,3% 2000 1,2%
2. Doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
12.781 11,4% 8907 3% 29291 17,8%
3. Hợp tác xã 146 0,13% 100 0,07% 180 0,1%
4. Hộ sản xuất
kinh doanh
94.030 84,1% 120080 90,8% 132437 80,7%
Tổng 111.78
4
100% 132204 100% 163908 100%
Nguồn: Báo cáo tín dụng các năm 2002, 2003 và 2004 - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thành phố Thái Nguyên
Qua biểu số 3 ta thấy hoạt động cho vay chính của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái Nguyên là hộ sản xuất kinh
doanh bao gồm hộ sản xuất nông nghiệp và hộ kinh doanh - hộ đăng ký kinh
doanh theo Nghị định 66/HĐBT. Tuy xuất đầu tư nhỏ song số lượng khách
hàng vay vốn lớn và ngày càng tăng lên với tỷ trọng cao đặc biệt là năm

2003 số vốn dư nợ dành cho hộ sản xuất kinh doanh là 120080 chiếm 90,8%.
Như vậy về cơ cấu có sự dịch chuyển hướng tỷ trọng cho vay các doanh
nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh tăng nhanh.
Để tài trợ cho danh mục tài sản, nguồn vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái Nguyên chủ yếu là nguồn vốn
tự huy động. Trên địa bàn và nguồn vốn ủy thác đầu tư theo các dự án trong
đó vốn tự huy động bao gồm:
- Tiền gửi của kho bạc nhà nước.
- Tiền gửi của các tổ chức tín dụng trong nước.
- Tiền gửi của khách hàng là những tổ chức kinh tế và cá nhân.
- Phát hành giấy tờ có giá.
Nguồn vốn ủy thác đầu tư gồm có các dự án:
- Tín dụng nông thôn của ngân hàng phát triển Châu Á ADB.
- Dù án hợp phần phục hồi nong nghiệp IDA.
- Dù án tài chính nông thôn RDF của ngân hàng Thế giới IWB.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của quỹ EU.
Đánh giá quy mô, cơ cấu và diễn biến NV sẽ được phân tích kỹ trong
phần "Thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thành phố Thái Nguyên". Trong đó tập trung đi sâu
phân tích, đánh giá các nguồn vốn tiền gửi, tiền vay trong mối quan hệ với
danh mục tài sản và các nguồn vốn ủy thác đầu tư, vay ngân hàng cấp trên.
b. Kết quả kinh doanh.
Thu nhập và chi phí là các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá kết quả của ngân
hàng trong năm. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố
Thái Nguyên là chi nhánh thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam cho nên kết quả kinh doanh được thực hiện mét cách gián
tiếp ở quỹ thu nhập mà đơn vị tạo lập được (vì quỹ thu nhập được hình
thành từ chênh lệch thu nhập lớn hơn chi phí theo đơn giá tiền lương nhất
định). Quỹ thu nhập được hưởng xác định theo công thức sau:
Quỹ thu nhập = (Tổng thu nhập - Tổng chi phí chưa có thu nhập) x

đơn giá tiền lương.
Thu nhập của ngân hàng bao gồm thu nhập từ lãi và thu nhập không
phải từ lãi, Tuy nhiên, đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn thành phố Thái Nguyên nguồn thu chủ yếu là thu từ lãi trong đó lãi cho
vay chiếm trên 90%, thu dịch vụ và thu khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ do cơ
cấu thu nhập phụ thuộc tất yếu vào cơ cấu tài sản của ngân hàng.
Biểu 4: Cơ cấu thu nhập
Đơn vị: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Số
tiền
Tỷ
trọn
g
Số
tiền
Tỷ
trọn
g
So
sánh
2003/
2002
Số
tiền
Tỷ
trọng
So
sánh

2004/
2003
1 Thu lãi cho vay 9.433 97,8
%
11.45
6
96% 121,4
%
16.65
3
94% 143%
2 Thu lãi thế giới
(ngoại tệ)
0 0 0 0 0 21 0,11
%
3 Thu cấp bù lãi 86 0,89
%
136 1,14
%
158% 214 1,2% 157%
4 Thu ngoài lãi 120 0 317 0 818 0 1
- Thu dịch vụ 94 0,97
%
134 1,12
%
142% 259 1,4% 193%
- Thu kinh doanh
ngoại tệ
0 0 0 0 2 0,01
%

- Thu bất thường 26 0,27
%
183 1,5% 703% 508 2,8% 277%
- Thu khác 0 0 0 49 0,27
%
Tổng cộng 9.639 100
%
11.90
9
100
%
123,5
%
17.70
6
100
%
148%
Nguồn: Báo cáo thu nhập 2003 - 2004 - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
thành phố Thái Nguyên.
Căn cứ thu nhập của các năm 02, 03 và 04 (Biểu 4) ta thấy nguồn thu
nhập chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố
Thái Nguyên là thu lãi cho vay, ngoài ra thu dịch vụ, thu khác, thu tiền gửi
tại ngân hàng nhà nước nhưng số tiền này chiếm tỷ trọng nhỏ. Đặc biệt, năm
2004 ngân hàng có một số khoản thu mới nhu thu lãi tiền gửi, thu kinh doanh
ngoại tệ, thu khác… đã làm cho tỷ trọng thu nhập thay đổi nhưng không

×