Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn – hà Nội(SHB)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.29 KB, 25 trang )

Mục lục
Lời nói đầu
Phần 1: Giới thiệu chung về Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà
Nội(SHB)
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.2. Các ngành nghề kinh doanh cơ bản
Phần 2: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Hà Nội - Ngân hàng TMCP SHB
2.1. Sơ đồ tổ chức, các phòng ban và mạng lưới hoạt động
2.2. Chức năng cơ bản của các phòng ban
Phần 3: Thực trạng hoạt động trong 3 năm gần đây
3.1. Hoạt động huy động vốn
3.2. Hoạt động cho vay
3.3. Các hoạt động dịch vụ khác
Phần 4: Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hoạt động
4.1. Thuận lợi
4.2. Khó khăn
Phần 5: Phương hướng phát triển trong tương lai.
Kết luận
Danh mục bảng biểu và viết tắt
NHVN : Ngân hàng Việt Nam
NHTM : Ngân hàng thương mại
SHB : Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
TMCP : Thương mại cổ phần
Lời nói đầu
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã trải qua gần 20 năm đổi mới và phát triển
từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, đến nay đã
khẳng định được sự phát triển vượt bậc. Từ năm 2007, Việt Nam chính thức gia
nhập và trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO),
điều này đã tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống NHVN đẩy nhanh tiến trình cải
cách, đổi mới và phát triển. Đặc biệt là sự phát triển của các Ngân hàng thương
mại. Các NHTM đã có những sự chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt những cơ


hội trong quá trình hội nhập, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh” trên sân nhà”, đó
là có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống và hiểu biết về khách hàng.
Tuy nhiên, hội nhập cũng là một thách thức không nhỏ đối với các NHVN trong
việc cạnh tranh với các đối thủ mới là các ngân hàng nước ngoài. Điều này đòi hỏi
các NH trong nước phải có những chính sách đúng đắn và hướng đi phù hợp.
Cùng với sự phát triển của hệ thống NH, NHTM cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
cũng đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của hệ thống NHVN nói
riêng và cho toàn nền kinh tế nói chung. Với những hoạt động kinh doanh về huy
động vốn, cho vay và đầu tư… SHB đã khẳng định được vị thế của mình và cho
thấy sức cạnh tranh với các NHTM khác trên toàn hệ thống. Có thể nói trong
những năm qua, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội đã hoạt động
rất hiệu quả. Được như vậy là do Ngân hàng đã nắm bắt kịp thời cơ hội phát triển
trong quá trình hội nhập, và bên cạnh đó là sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ
và nhân viên Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội đã đóng góp một
phần không nhỏ vào thành quả của Ngân hàng.
Phần 1 : Giới thiệu về Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà
Nội
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (viết tắt là SHB) tiền thân
là Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Nhơn Ái, hoạt động theo giấy đăng
ký kinh doanh số 5703000085 do Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Cần Thơ cấp
ngày 10/12/1993 và giấy phép số 0041/NN/GP do NHNN Việt Nam cấp ngày
13/11/1993. SHB chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/12/1993.
Những ngày đầu đi vào hoạt động, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội với vốn điều lệ ban đầu là
400 triệu đồng, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng chỉ có trụ sở chính đặt tại số
341 - ấp Nhơn Lộc 2 – Thị tứ Phong Điền – Huyện Châu Thành – Tỉnh Cần Thơ
nay là Huyện Phong Điền Thành phố Cần Thơ, với tổng số cán bộ nhân viên lúc
bấy giờ là 8 người, trong đó chỉ có một người có trình độ đại học, với địa bàn bao

gồm vài xã thuộc huyện Châu Thành, đối tượng khách hàng chủ yếu là các hộ nông
dân với mục đích vay vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Trải qua hơn 15 năm hoạt động, đến nay vốn điều lệ của Ngân hàng đã đạt
2000 tỷ đồng…,mạng lưới hoạt động kinh doanh đã có mặt tại các địa bàn Tp Cân
Thơ, Tp Hồ Chí Minh, Tp Hà Nội, Tp Đà Nẵng, Quảng Ninh và tỉnh Hậu Giang,
với nhiều sản phẩm dịch vụ mới tiện ích. Đối tượng khách hàng của Ngân hàng đa
dạng gồm nhiều thành phần kinh tế và hoạt động trong nhiều ngành nghề kinh
doanh khác nhau. Hoạt động kinh doanh trong những năm qua, Ngân hàng luôn
giữ được tỷ lệ an toàn vốn cao cùng với chính sách tín dụng thận trọng và quy trình
hợp lý đảm bảo chất lượng và khả năng phát triển danh mục tín dụng khả quan. Vì
vậy, các chỉ tiêu tài chính đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, tạo tiền đề thuận lợi để
Ngân hàng phát triển bền vững.
Ngày 20/1/2006 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ký quyết định số 93/QĐ-
NHNN chấp thuận cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gon – Hà Nội chuyển
đổi mô hình hoạt động từ Ngân hàng TMCP nông thôn sang Ngân hàng TMCP đô
thị, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của SHB. Việc chuyển đổi mô hình hoạt
động từ Ngân hàng TMCP nông thôn sang Ngân hàng TMCP đô thị là một giai
đoạn phát triển mới của SHB với mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng
TMCP bán lẻ đa năng, phấn đấu chuyển đổi từ một ngân hàng TMCP nông thôn
với phạm vi và quy mô hoạt động hẹp sang Ngân hàng TMCP đô thị, cung cấp sản
phẩm dịch vụ đa dạng cho các thị trường có chọn lựa, ngân hàng hoạt động vững
mạnh và an toàn, phát triển bền vững đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2006, là năm đánh dấu sự thay đổi và bước phát triển mạnh mẽ của
ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội, mạng lưới hoạt động kinh doanh của SHB đã trải
rộng khắp trong điạ bàn TP. Cần Thơ và một phần tỉnh Hậu Giang, đối tượng cho
vay không chỉ là các hộ nông dân mà còn mở rộng cho vay: hộ kinh doanh cá thể,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, nguồn vốn huy động tăng, hoạt động
kinh doanh đạt hiệu quả cao với mức lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước.
Trong hoạt động kinh doanh xét trên phương diện an toàn vốn SHB là một
ngânhàng bền vững với cơ sở vốn hiện tại đủ để đảm bảo SHB tiếp tục phát triển

nhanh trong thời gian tới, với cơ sở vốn vững mạnh và tỷ lệ an toàn vốn cao cùng
với văn hóa tín dụng thận trọng, chính sách và quy trình hợp lý đảm bảo chất lượng
tài sản tốt với khả năng phát triển danh mục tín dụng khả quan vì vậy kết quả hoạt
động kinh doanh của SHB trong những năm qua năm sau luôn cao hơn năm trước,
các chỉ tiêu tài chính đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Với kế hoạch phát triển kinh doanh cụ thể phù hợp với chương trình hành
động, lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam cùng với tiềm lực tài chính
manh của các cổ đông tiềm năng, với bộ máy Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,
Ban điều hành là những người có trình độ nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong lĩnh
vực ngân hàng và có tâm huyết với Ngân hàng sẽ là những nhân tố tích cực trong
giai đoạn phát triển mới và sẽ đưa SHB phát triển bền vững trên con đường hội
nhập.
Hiện nay, mạng lưới kinh doanh của ngân hàng đã phát triển ở các thành phố
lớn trên cả nước bao gồm Hội sở chính, 20 chi nhánh và 40 phòng giao dịch.
Dự kiến đến năm 2010, SHB sẽ có Hội sở chính, 51 chi nhánh, 137 phòng
giao dịch đặt tại 43 tỉnh, Thành phố trên cả nước.
Chi nhánh Hà Nội là chi nhánh phụ thuộc của Ngân hàng TMCP Sài Gòn –
Hà Nội. Chi nhánh có trụ sở đặt tại số 86 Bà Triệu – Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Có mạng lưới các phòng giao dịch được bố trí rải rác trên các địa bàn dân cư như
Thái Hà, Tây Sơn…
Trong thực trạng nền kinh tế hiện nay, đối với Chi nhánh việc chiếm lĩnh thị
trường, thị phần gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Chi nhánh Hà Nội đã khai thác thế
mạnh về cơ sở vật chất , các mối quan hệ, phong cách phục vụ, tuyên truyền tiếp
thị, đổi mới công nghệ, linh hoạt về lãi suất, đồng thời luôn điều chỉnh các hoạt
động cho phù hợp, kịp thời các chính sách kinh doanh, tích cực tìm hiểu nhu cầu
thị trường nên đã thu được những kết quả kinh doanh khả quan, và được đánh giá
là một Chi nhánh hoạt động có hiệu quả, có quy mô lớn.
Trong những năm tới Chi nhánh tiếp tục quá trình đổi mới hoạt động tín
dụng và các hoạt động kinh doanh khác nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho mục
tiêu phát triển và hội nhập quốc tế.

1.2. Các ngành nghề kinh doanh cơ bản
Theo chấp thuận của NHNN Việt Nam, ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
được phép tiến hành các hoạt động ngân hàng bao gồm nhận tiền gửi, cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế và cá nhân
tùy theo tính chất và khả năng nguồn vốn của ngân hàng, chiết khấu thương phiếu,
trái phiếu và các giấy tờ có giá, kinh doanh tiền tệ, kinh doanh ngoại tệ, ngoại hối;
kinh doanh vàng; và thanh toán quốc tế.
Một số sản phẩm dịch vụ cơ bản:
- Đối với khách hàng cá nhân : Có rất nhiều sản phẩm dịch vụ đa dạng và phong
phú phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng khác nhau. Bao gồm các
tài khoản tiền gửi; Tiền gửi tiết kiệm; Các sản phẩm cho vay như cho vay mua ô tô
trả góp, cho vay tín chấp tiêu dùng, cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh…; các dịch
vụ chuyển tiền; Dịch vụ thẻ; Ngân hàng điện tử; và dịch vụ ngân quỹ.
- Đối với khách hàng doanh nghiệp : Có các tài khoản tiền gửi; các sản phẩm
cho vay như cho vay bổ sung vốn lưu động, cho vay đầu tư theo dự án, cho vay tài
trợ xuất nhập khẩu…;dịch vụ bảo lãnh; dịch vụ ngân quỹ; và các dịch vụ khác như
dịch vụ trả lương qua tài khoản cho các doanh nghiệp, dịch vụ ngoại hối cho doanh
nghiệp.
Đối với chi nhánh được phép thực hiện các nghiệp vụ như tại Hội sở nhưng theo
những hạn chế nhất định do Hội sở đặt ra.
Phần 2 : Cơ cấu tổ chức và bộ máy điều hành của chi nhánh Ngân
hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
Qua 16 năm phát triển và trưởng thành, Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
đã có hai lần thay đổi cơ cấu tổ chức. Về cơ cấu tổ chức của chi nhánh ta có thể
khái quát bằng sơ đồ sau :

Giám Đốc
Phòng
n
dụng

Phòng
thanh
toán
quốc
tế
Phòng
hành
chính
nhân
sự
Phòng
kế
toán
ngân
quỹ
Phó

phụ
trách
kế
toán
Phó

phụ
trách
n
dụng
Phó

phụ

trách
TTQ
Tế
Các phòng giao dịch
Phòng
kiểm
tra,
kiểm
soát
nội bộ

Chi nhánh là đơn vị trực thuộc ngân hàng, có con dấu và được thực hiện một
số chức năng, nhiệm vụ ngân hàng theo ủy quyền của tổng giám đốc,có bảng cân
đối riêng, tự cân đối thu nhập, chi phí, và có lãi nội bộ. Tại chi nhánh Hà Nội, các
phòng ban được phân chia và thực hiện chức năng riêng của mình.
Giám đốc chi nhánh chịu trách nhiệm chỉ đạo điều hành và kiểm soát công
việc kinh doanh nói chung của chi nhánh và hoạt động cấp tín dụng nói riêng trong
phạm vi được ủy quyền. Đồng thời kiểm soát hoạt động của các phòng giao dịch
trực thuộc chi nhánh.
Các Phó giám đốc được sự ủy quyền của giám đốc chịu trách nhiệm điều
hành kiểm soát từng mảng kinh doanh nhất định.
Phòng Tín dụng : gồm các cán bộ tín dụng thực hiện các chức năng như :
thẩm định các hồ sơ, dự án vay vốn, đầu tư theo yêu cầu của Ban lãnh đạo hay các
cấp có thẩm quyền; Quản lý và phát triển các sản phẩm tín dụng; thẩm định và tái
thẩm định các hồ sơ tín dụng nằm trong hạn mức phán quyết của chi nhánh; tiếp thi
và mở rộng thị phần của ngân hàng thông qua các sản phẩm và dịch vụ cung cấp.
Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm ra nguyên nhân và đề
xuất hướng khắc phục
Phòng Hành chính nhân sự: thực hiện các chức năng quản lý nhân sự, đào
tạo nhân sự; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, quản lý nhân viên tại chi nhánh

và các phòng giao dịch trực thuộc. Làm công tác tham mưu cho Giám đốc trong
việc tuyển dụng, đề bạt lương cho cán bộ công nhân viên.
Phòng Kế toán ngân quỹ: Thực hiện tất cả các nghiệp vụ kế toán cho toàn
chi nhánh. Trực tiếp hạch toán kế toán thống kê và thanh toán theo quy định của
chi nhánh xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính.
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: Chức năng chủ yếu là kiểm tra giám sát
việc chấp hành quy định nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của pháp luật và
NHNN, giám sát việc chấp hành các quy định của SHB về đảm bảo an toàn trong
hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Phòng thanh toán quốc tế: do mới được thành lập nên chức năng của phòng
TTQT chưa cao, chỉ bao gồm một số hoạt động cơ bản như mua, bán ngoại tệ qua
Thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng theo loại hình giao dịch giao ngay (SPOT), có
kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swap)
Phần 3 : Thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng
TMCP Sài Gòn – Hà Nội
3.1. Hoạt động huy động vốn
Trong những năm gần đây, đặc biệt trong năm 2006 và 2007, thị trường
chứng kiến cuộc chạy đua huy động của các NHTM. Sự cạnh tranh của các NHTM
nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân diễn ra khá quyết liệt, thông qua
các dịch vụ chăm sóc khách hàng, lãi suất cạnh tranh và các chương trình khuyến
mại có giá trị lớn để thu hút khách hàng. Không chỉ thế, thị trường chứng khoán
cũng là một kênh huy động vốn rất thuận lợi của các ngân hàng.
Tại thời điểm năm 2007 tổng vốn huy động đạt 9.948.553 triệu đồng, tại chi
nhánh Hà Nội đạt 1.196,076 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động duy trì ở
mức cao, năm 2007 tăng 1192% so với tổng nguồn vốn huy động cả năm 2006.
Riêng tại chi nhánh Hà Nội tổng nguồn vốn huy động năm 2007 tăng ,sang năm
2008 thì đạt 1.949,713 tỷ đồng, tăng 163% so với năm 2007.
Bảng 3.1: Nguồn vốn huy động năm 2006 – 2008 theo thời hạn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ êu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008

Nguồn ngắn hạn 69,799 712,68 1.865,95
Nguồn dài hạn 38,366 271,686 37,887
Tổng nguồn vốn 108.165 984,366 1.903,837
(Nguồn từ BCTC của chi nhánh Hà Nội 3 năm 2006, 2007,2008)
Xét về kỳ hạn, nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn: Năm 2006 chiếm
64,5%, năm 2007 chiếm 72,4%, năm 2008 chiếm 98,01% trong tổng nguồn vốn
huy động. Nguồn vốn trung và dài hạn có xu hướng tăng lên trong năm 2007
nhưng tăng không đáng kể so với nguồn ngắn hạn và có tỷ trọng giảm dần, và đến
năm 2008 thì giảm đáng kể. Điều này là do trong năm 2008, chính sách lãi suất của
NHNN thường xuyên biến động nên lãi suất của các NHTM cũng có sự thay đổi để
tăng tính cạnh tranh. Do lãi suất không ổn định nên khách hàng chủ yếu là gửi
ngắn hạn. Điều này dẫn đến việc ngay trong 6 tháng đầu năm 2008, vốn huy động
ngắn hạn của SHB tăng lên rất cao. Sự chênh lệch quá lớn giữa nguồn vốn huy
động ngắn hạn và dài hạn có thể gây rủi ro cho Ngân hàng, có thể do nguyên nhân
là sự sụt giảm lãi suất tiền gửi sẽ dẫn đến việc các khách hàng cùng một lúc đến rút
tiền, và sẽ làm mất tính thanh khoản cho SHB. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, Ngân
hàng SHB đang có kế hoạch điều chỉnh nguốn vốn huy động theo hướng giảm dần
nguồn vốn huy động ngắn hạn và tăng dần nguồn huy động dài hạn. Việc điều
chỉnh cơ cấu nguồn vốn này đảm bảo cho SHB có được nguồn vốn ổn định cho
phát triển kinh doanh.
Xét về cơ cấu, nguồn vốn huy động phân theo cơ cấu năm 2006 thì nguồn
vốn huy động từ khách hàng tăng lên về số lượng so với năm 2005 nhưng chiếm
tỷ trọng ngày càng ít trong tổng vốn huy động. Nguồn tiền gửi từ các TCTD chiếm
tỷ trọng ít trong tổng nguồn huy động, trong đó chủ yếu là tiền gửi của các tổ chức
kinh tế và khách hàng cá nhân. Đặc biệt sang năm 2008, nguồn vốn huy động từ
các TCTD là hơn 274 triệu đồng, và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ là 0,014% trong tổng
nguồn vốn huy động. Việc tiền gửi của các tổ chức tín dụng giảm như vậy phân lớn
là do tình hình biến động kinh tế trong năm vừa qua. Sự sụt giảm kinh tế trong năm
đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác,
không chỉ tại chi nhánh mà ảnh hưởng đến toàn hệ thống Ngân hàng.

Bảng 3.2: Nguồn vốn huy động năm 2006 – 2008 theo cơ cấu
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ êu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tiền gửi của TCTD
trong nước
62,000 330,000 0,274
Tiền gửi của các
khách hàng khác
46,165 654,366 1,903,563
Tổng 108.165 984,366 1.903,837
( Nguồn từ BCTC của chi nhánh Hà Nội 3 năm 2006, 2007,2008)
Có thể nói trong 3 năm vừa qua, nguồn vốn huy động của Chi nhánh nói riêng và
toàn hệ thống SHB nói chung đều có sự tăng trưởng đáng kể. Đạt được điều đó là
do Ngân hàng đã thực hiện nhiều chính sách để huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ
dân cư. Thêm vào đó, việc mở thêm các phòng giao dịch giúp việc huy động vốn
trong dân cư triệt để hơn, và thu được những kết quả cao hơn.
3.2. Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay
Trong thời gian gần đây, dư nợ tín dụng của Chi nhánh không ngừng tăng
trưởng. Ta có thể thấy được tốc độ tăng trưởng qua bảng sau:
Bảng 3.3: Dư nợ tín dụng của chi nhánh Hà Nội năm 2006 – 2008
4ơn vị: Tỷ Đồng
Chỉ êu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Dư nợ cho vay 64,217 960.308 990,481
Cho vay ngắn
hạn
47,135 580,986 693,336
Cho vay trung
và dài hạn
17,082 397,322 297,145

(Nguồn từ BCTC của chi nhánh Hà Nội 3 năm 2006, 2007,2008)
Từ bảng trên ta có thể thấy rằng tổng dư của Chi nhánh tăng mạnh qua các
năm. Năm 2006 dư nợ của chi nhánh chỉ đạt 64,217 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho
vay ngắn hạn là 47,135 tỷ, chiếm 73,44% trong tổng dư nợ. Đến năm 2007, tổng
dư nợ tín dụng của chi nhánh tăng lên 960,308 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay
ngắn hạn chiếm 60,5% trong tổng dư nợ, tăng 1495% so với năm 2006. Kết thúc
năm 2008, dư nợ của chi nhánh Hà Nội đạt 990,481 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho
vay ngắn hạn đạt 693,336 tỷ, chiếm 70% trong tổng dư nợ tín dụng của toàn chi
nhánh.
Như vậy, ta có thể thấy rằng dư nợ cho vay của Chi nhánh Hà Nội từ năm
2006 – 2008 có mức tăng trưởng cao. Đạt được điều đó là do sự tiếp cận được với
số đông khách hàng, cả khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên
cạnh đó, Chi nhánh còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn với
các hình thức phù hợp. Ngoài ra, nguồn vốn huy động tăng trưởng cũng tạo tiền đề
cho sự tăng trưởng dư nợ tín dụng của Ngân hàng.
3.3. Các hoạt động dịch vụ khác
Sau khi chuyển đổi mô hình, Ngân hàng đã có những chính sách phát triển
nhiều loại hình dịch vụ mới. Các hoạt động thanh toán và kinh doanh ngoại tệ được
khai thác triệt để. Đặc biệt trong năm 2008, Chi nhánh đã mở rộng quan hệ thanh
toán, bảo lãnh với các TCTD trong và ngoài nước.
Nhìn chung, các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng tuy mới triển khai nhưng
bước đầu đem lại hiệu quả cho Ngân hàng, đóng góp một phần vào thu nhập của
Ngân hàng.
3.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Hà Nội năm 2006 – 2008
Bảng 3.4: Doanh thu của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
Đơn vị: Tỷ đồng
5,574
12,937
(0,101)
12,937

Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
(0,101)990,481960.3
0864,2171.903,8379
84,366108.165
1,955,2871.209,014C
hỉ êu
Lợi nhuận sau
thuế
5,574
Lợi nhuận trước
thuế
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy
động
174,646
Tổng giá trị tài sản
( Nguồn từ BCTC của chi nhánh Hà Nội năm 2006, 2007, 2008)
Trong 3 năm qua, tổng tài sản và nguồn vốn của chi nhánh không ngừng
tăng, đồng thời tổng dư nợ cũng tăng. Năm 2006 lợi nhuận của Chi nhánh thấp,
thậm chí ghi âm. Nhưng sang năm 2007 lợi nhuận tăng vượt trội, đạt 12,937 tỷ
đồng. Tuy nhiên do tình hình kinh tế không ổn định, sang năm 2008 lợi nhuận của
chi nhánh giảm đáng kể, chỉ đạt 5,574 tỷ đồng, giảm hơn 50% so với năm 2007.
Có thể nói, Chi nhánh Hà Nội là một chi nhánh hoạt động hiệu quả trong hệ
thống các chi nhánh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội. Được như vậy có
thể nói là do Ngân hàng đã nắm bắt kịp thời những cơ hội để phát triển trong quá
trình hội nhập. Bên cạnh đó là sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong
toàn chi nhánh đã đóng góp không nhỏ vào thành công của Chi nhánh Hà Nội thời
gian vừa qua.
Phần 4: Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh
của chi nhánh Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội

4.1. Thuận lợi
Sau sự kiện gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam được dự đoán là sẽ duy trì
tốc độ tăng trưởng ổn định trong những năm tới nhờ sự gia tăng nguồn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam, sự phát triển mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân, những cải
cách mạnh mẽ của khối kinh tế nhà nước, những cơ hội từ quá trình hội nhập kinh
tế toàn cầu. Sự phát triển kinh tế tạo điều kiện cho sự phát triển của SHB nói chung
và chi nhánh Hà Nội nói riêng.
Thêm vào đó, môi trường chính trị pháp luật ổn định đã giúp cho môi trường
kinh doanh ngày càng thông thoáng hơn, khuyến khích tính tự chủ cao hơn của
doanh nghiệp. Cải cách ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh hơn nhằm tạo điều kiện cho
các NHTM đáp ứng được những thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế bằng
việc tăng cường nội lực phát huy tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh, đảm
bảo hoạt động thương mại, dịch vụ theo các nguyên tắc thị trường.
Lạm phát được kiểm soát tốt và chính sách bình ổn tỷ giá USD/VND của
NHNN tạo môi trường kinh tế ổn định và niềm tin đối với các nhà đầu tư và người
tiêu dùng. Kết quả là sản xuất và tiêu dùng trong nước tăng, đi kèm theo đó là nhu
cầu về tín dụng và các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của người dân cũng tăng
nhanh. Đây là một thuận lợi rất lớn cho hoạt động của ngân hàng, tạo điều kiện cho
sự phát triển của SHB.
Với việc chuyển đổi từ mô hình NHTM cổ phần nông thôn sang mô hình
NHTM cổ phần đô thị đã tạo động lực để cho SHB mở rộng mạng lưới kinh doanh,
tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Điều này đã và đang tạo điều kiện để ngân
hàng tăng dư nợ tín dụng phục vụ hoạt động đầu tư và tiêu dùng.
Với những sản phẩm dịch vụ đa dạng, với phương châm trở thành một ngân
hàng bán lẻ đa năng hiện đại, SHB đã tập trung phát triển nhiều sản phẩm phục vụ
khách hàng cá nhân bằng các sản phẩm đa dạng, đơn giản, dễ hiểu, có tính đại
chúng, tính phổ cập và tiêu chuẩn hóa cao thông qua mạng lưới rộng. Huy động
tiết kiệm với nhiều hình thức đa dạng đã thu hút rất nhiều khách hàng đến tham gia
sử dụng dịch vụ của Ngân hàng.
Ngoài ra, việc hiện đại hóa công nghệ thông tin trên toàn hệ thống ngân

hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động của chi nhánh. Việc
kết nối online toàn hệ thống SHB giúp nâng cao năng lực quản lý rủi ro hoạt động
và mang lại cho khách hàng những dịch vụ tốt hơn. Hiện đại hóa CNTT giúp cho
các giao dich diễn ra nhanh chóng và tiện lợi hơn, khách hàng sẽ được phục vụ tận
tình chu đáo hơn.
Không chỉ thế, với đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, nhiệt huyêt, có trình độ
nghiệp vụ chuyên môn, được đào tạo bài bản, có đạo đức nghề nghiệp, ban điều
hành là những người có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng,
là một lợi thế để đưa ngân hàng ngày càng phát triển
Ngoài những thuận lợi chung với toàn hệ thống SHB, chi nhánh Hà Nội có
những lợi thế nhất định. Đó là, có một hệ thống phòng giao dịch trên khắp địa bàn
thành phố, có mật độ dân cư đông đúc, nên địa bàn hoạt động lớn và có sức cạnh
tranh cao…
4.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, SHB cũng phải chiu không ít khó khăn.
Do trong năm 2007 SHB chưa được phép thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc
tế, mua bán ngoại tệ, điều này gây rất nhiều khó khăn hạn chế và ảnh hưởng đến uy
tín của SHB đối với khách hàng. Mới đây, chủ tịch Thị trường Ngoại tệ Liên ngân
hàng đã ký quyết định chứng nhận Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) là
thành viên của Thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng. Theo đó SHB được quyền
mua, bán ngoại tệ qua Thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng theo loại hình giao dịch
giao ngay (SPOT), có kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swap) và các loại hình giao
dịch khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Điều này sẽ tạo điều kiện hơn
cho SHB trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Diễn biến tình hình kinh tế phức tạp, giá dầu liên tục tăng, kéo theo chỉ số
giá tiêu dùng tăng lên hai con số, TTCK trong năm 2007 biến động bất thường, và
sụt giảm mạnh trong năm 2008, giá vàng, thị trường bất động sản gia tăng nhanh
chóng…chính những yếu tố này làm cho hoạt động huy động vốn của chi nhánh
gặp không ít khó khăn. Người dân tiết kiệm bằng cách mua vàng và giữ tiền mặt
nhiều hơn. Tuy nhiên, với những đợt điều chỉnh tăng lãi suất cũng giúp cải thiện

phần nào vấn đề huy động vốn trong Ngân hàng.
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh của SHB còn nhiều hạn chế. Sản phẩm huy
động vốn chưa đa dạng do SHB phát triển sản phẩm còn chậm. Dịch vụ ngân hàng
còn đơn điệu, chưa đa dạng, chưa thiết kế cho từng nhóm khách hàng khác nhau
nên thu hút khách hàng chưa mạnh. Hạn chế lớn nhất trong năm qua của Ngân
hàng là chưa triển khai được dịch vụ thanh toán quốc tế, vì đây là mảng dịch vụ
được xem là rất quan trọng để cấu thành lợi nhuận chủ yếu trong tổng thu nhập
toàn ngân hàng.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt và có sự tham gia ngày càng nhiều các
định chế tài chính trong và ngoài nước, SHB mới chuyển từ Ngân hàng TMCP
nông thôn lên TMCP thành thị, với thị phần huy động và thị phần tín dụng còn
thấp cũng là một khó khăn không nhỏ đối với hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên
SHB đang hướng dần các hoạt động và nguồn lực của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho vay khu vực nông thôn và tài trợ cho các dự
án phát triển cộng đồng. Trong lĩnh vực huy động vốn, SHB còn đang phải cạnh
tranh với các công ty khác như công ty bảo hiểm, các công ty cổ phần niêm yết
trên thị trường chứng khoán về nguồn vốn trung và dài hạn, hay cung cấp các sản
phẩm riêng lẻ hoặc hỗn hợp.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, SHB nói chung và chi nhánh Hà Nội
nói riêng cần có những chính sách và phương hướng phù hợp để hội nhập và phát
triển.
Phần 5: Phương hướng phát triển trong thời gian tới của chi nhánh
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
Mặc dù 2008 là một năm đầy khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam nói
chung và ngành tài chính ngân hàng nói riêng, xong SHB vẫn đạt được mức tăng
trưởng khả quan. Lợi nhuận trước thuế đạt xấp xỉ 269 tỷ đồng, tổng dư nợ tín dụng
6.227 tỷ đồng, tổng huy động trên toàn hệ thống đạt 11.768,7 tỷ đồng. Với tôn chỉ
hoạt động là trở thành một ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại hàng đầu tại Việt
Nam, phấn đấu đến năm 2010 trở thành một Tập đoàn tài chính cung cấp sản phẩm
dịch vụ đa dạng cho các thị trường chọn lựa, hoạt động vững mạnh và an toàn, phát

triển bền vững đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu hoạt động
một cách vững chắc, an toàn, bền vững về tài chính, áp dụng công nghệ thông tin
hiện đại, cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi đa dạng và thông thoáng đến
các doanh nghiệp và tầng lớp dân cư ở đô thị, nâng cao khả năng cạnh tranh và duy
trì khả năng sinh lợi.
Phát triển thương hiệu và thực hiện xây dựng văn hóa doanh nghiệp của
SHB từng bước đưa SHB trở thành “ Ngân hàng thân thuộc” đối với khách hàng
trên mọi địa bàn hoạt động. Chủ động hoạch định chiến lược quảng cáo tiếp thị và
quan hệ cộng đồng đạt hiệu quả cao với chi phí thấp nhất.
Với nền tảng và thế mạnh sẵn có, SHB Xác định chiến lược phấn đấu trở
thành ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại hàng đầu tại Việt Nam, năm 2010 trở
thành một Tập đoàn tài chính – công nghiệp – bất động sản lớn mạnh với khách
hàng mục tiêu: Doanh nghiệp vừa và nhỏ: đến năm 2010 là 10.000 khách hàng.
Khách hàng tiêu dùng và hộ gia đình: đến năm 2010 là 1.500.000 KH. Các khách
hàng lớn trong và ngoài nước: đến năm 2010 là 100 KH. Cùng với mục tiêu của
toàn Ngân hàng đề ra thì Chi nhánh Hà Nội cũng xác định những mục tiêu và
phương hướng nhất định.
Phấn đấu tăng trưởng về hoạt động của ngân hàng về tổng tài sản, vốn huy
động, tổng dư nợ, lợi nhuận…; nâng cao các chỉ số tài chính; nâng cao chất lượng
tài sản có; quản lý rủi ro theo hệ thống; nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Đồng thời tăng thị phần mục tiêu khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp; khách
hàng cá nhân, dân cư…
Kết luận
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội sau 16 năm hoạt động đã có những
thành tựu đáng kể. Mặc dù chưa đủ sức cạnh tranh được với các Ngân hàng lớn
trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng SHB đã phần nào khẳng định vị thế
của mình. Là một chi nhánh của hệ thống SHB, chi nhánh Hà Nội cần hoàn thiện
về nhiều mặt để cùng phát triển với các chi nhánh trong Ngân hàng nói riêng và
các ngân hàng khác nói chung.
Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh, qua quá trình tìm hiểu và nghiên

cứu em đã tổng hợp được những vấn đề cơ bản về Ngân hàng, cũng như phương
hướng phát triển trong tương lai. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình
của thầy giáo – PGS.TS Đàm Văn Huệ, cùng các anh chị trong ngân hàng đã giúp
em hoàn thành bản báo cáo tổng hợp này. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô
và các cô chú anh chị trong ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn!

×