SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO KIÊN GIANG
TRƯỜNG THPT NGÔ SĨ LIÊN
ĐỊNH HƯỚNG KHI DẠY BÀI
“CHẤT BÉO” CỦA HÓA HỌC 9
Người viết : Quách Ngọc Uyển
Chức vụ : Giáo viên
1
Năm học: 2011 - 2012
Năm học: 2011 - 2012
SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM
- Họ và tên: Quách Ngọc Uyển
- Đơn vị: Trường THPT Ngô Sĩ Liên
- Tên đề tài: ĐỊNH HƯỚNG KHI DẠY BÀI “ CHẤT BÉO”
CỦA HÓA HỌC 9
I. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Bối cảnh của đề tài.
Ở bất kì đất nước nào, những đổi mới ở giáo dục phổ thông mang tính
cải cách giáo dục đều bắt đầu từ việc xem xét điều chỉnh mục tiêu giáo dục với
những kì vọng mới về mẫu người học sinh có được trong quá trình giáo dục.
Việc dạy và học hóa học ở trường THCS cần được đổi mới nhằm góp
phần thực hiện tốt mục tiêu của nhà trường phổ thông trung học cơ sở. Một
trong những nhiệm vụ ưu tiên là cần coi trọng việc hình thành và phát triển tiềm
lực trí tuệ cho học sinh. Cần bồi dưỡng và tạo điều kiện cho học sinh được rèn
luyện năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, có ý thức và biết vận dụng tổng hợp
kiến thức đã học vào cuộc sống thực tiễn. Một trong những biện pháp quan
trọng là người giáo viên coi trọng hơn việc chỉ dẫn cho học sinh (HS) con đường
tìm ra kiến thức mới mà không chỉ dừng lại ở việc cung cấp những kiến thức có
sẵn, chú ý rèn luyện kĩ năng cho học sinh, chú ý đánh giá kiểm tra năng lực vận
dụng tổng hợp kiến thức, đó cũng là một biện pháp dạy học cho học sinh cách
học và cách tự học.
2. Lý do chọn đề tài.
Hóa học là bộ môn khoa học tự nhiên được đưa vào chương trình giảng
dạy ở phổ thông cơ sở, được bắt đầu từ lớp 8 và là một bộ môn rất khó học đối
với nhiều học sinh. Thông qua bộ môn, học sinh được cung cấp những kiến thức
lý thuyết cơ bản về hóa học và đồng thời các em được làm quen với một số dạng
bài tập đặc trưng của môn hóa học. Trong môn Hóa học cần có sự kết hợp logic
giữa lý thuyết và bài tập, học thuộc và hiểu được lý thuyết mới làm được bài tập
và ngược lại có làm bài tập được mới khắc sâu được kiến thức.
2
Trong thực tế giảng dạy Hóa học lớp 9 tôi thấy vẫn còn nhiều học sinh cho
rằng đây là một môn học khó (nhất là hóa học hữu cơ), các em luôn cảm thấy
khó nhớ về nội dung lí thuyết như: công thức cấu tạo, tính chất hóa học (phương
trình hóa học) dẫn đến các em không làm được các bài tập (chuỗi phản ứng, kĩ
năng nhận biết các chất). Do đặc trưng môn học, những học sinh nào đã nắm
vững được kiến thức lý thuyết thì chất lượng đạt khá cao, còn những học sinh
hiểu một cách không chắc chắn thì có cảm giác sợ và rất vất vả khi tiếp thu bộ
môn này.
Qua đánh giá quá trình nắm kiến thức, kĩ năng về Hóa học nói chung và
Hóa học hữu cơ nói riêng, thực trạng cho thấy chất lượng bộ môn với tỉ lệ học
sinh giỏi còn thấp, học sinh yếu kém thì lại cao, kết quả này được đánh giá qua
các lần kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì và kiểm tra học kì trong mỗi
năm học.
Số lượng học sinh có điểm yếu kém còn nhiều là do hầu như học sinh
chưa biết cách viết công thức cấu tạo phân tử, tính chất hóa học, nhận biết các
chất, phương trình hóa học của các chất hữu cơ.
Vì vậy với những khó khăn trên, là một giáo viên trực tiếp dạy môn hóa
học tôi nhận thấy việc nâng cao chất lượng dạy hóa học và đặc biệt có phương
pháp dạy tốt dạng bài nghiên cứu về cấu tạo, tính chất của một hợp chất hữu cơ
cụ thể như bài “Chất béo”, tôi luôn tìm tòi, trao đổi, học hỏi các đồng nghiệp,
sách vở để tìm ra phương pháp dạy tốt nhất giúp học sinh nắm vững kiến thức lý
thuyết bộ môn, khi nắm vững lý thuyết thí các em mới tự tin giải quyết bài tập.
Với mong muốn đó tôi mạnh dạn viết ra đây một số kinh nghiệm nhỏ đó là:
Định hướng khi dạy bài “chất béo” ở hóa học lớp 9 .
3. Phạm vi và đối tượng của đề tài.
3.1. Phạm vi đề tài.
Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến việc định hướng khi dạy dạng bài
nghiên cứu về cấu tạo, tính chất của một hợp chất hữu cơ cụ thể thông qua bài “
Chất béo” ở hóa học lớp 9.
3
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực trong các dạng bài về cấu tạo,
tính chất của một hợp chất hữu cơ cụ thể.
Học sinh lớp 9 Trường THPT Ngô Sĩ Liên.
4. Mục đích đề tài.
Nhằm trao dồi nâng cao trình độ, chất lượng chuyên môn cho bản thân.
Giúp học sinh phát huy cao độ tính tích cực, tự giác trong học tập bộ môn
Hoá học
5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.
Một số kinh nghiệm khi giảng dạy bài chất béo nói riêng và các dạng bài
nghiên cứu cấu tạo, tính chất của hợp chất hữu cơ cụ thể nói chung đã giúp học
sinh nắm bắt kiến thức sâu hơn, từ đó hình thành và rèn luyện được kĩ năng viết
phương trình hóa học, làm tăng hứng thú học tập, giờ học sinh động không
nhàm chán, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận.
Hóa học là một môn học có tầm quan trọng vô cùng to lớn bởi vì đây là
nhiệm vụ do Đảng - Nhà nước đề ra trong lĩnh vực phát triển ngành hóa học và
vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, nhiệm vụ của việc dạy
học Hóa học ở trường trung học cơ sở là không chỉ chú ý cung cấp kiến thức
Hóa học mà còn phải chú ý tới nhiệm vụ giáo dục thế giới quan, đạo đức cách
mạng và nhiệm vụ phát triển tiềm lực trí tuệ cho học sinh thông qua dạy học bộ
môn Hóa học.
Ngoài ra, giáo viên phải biết được các kiến thức tâm lí học, giáo dục học,
lí luận Mác- Lênin, các môn học khác thuộc chương trình trung học cơ sở, cập
nhật thông tin nhằm tăng cường tính thực tiễn trong nội dung chương trình, tăng
cường mối liên hệ bộ môn hoặc tích hợp các môn học, đặc biệt với môn Vật lí
và Sinh học. Mặt khác trong quá trình giảng dạy giáo viên biết nội dung chương
trình sách giáo khoa Hóa học 8 - 9 để phân tích sự phát triển của một số kiến
thức cơ bản nhất có liên hệ đến chương trình Trung học phổ thông, biết sử dụng
các phương pháp dạy học phù hợp với mỗi kiểu bài lên lớp, biết kĩ năng sử dụng
thí nghiệm, phương tiện dạy học và hình thức tổ chức dạy học tối ưu nhằm bảo
4
đảm ở mức độ cao nhất tính tự giác, tích cực và tự lực của học sinh, phát triển
cho học sinh năng lực sáng tạo, niềm đam mê học tập. Giáo viên phải coi trọng,
tận dụng sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại, đồng thời chú ý tới hoàn cảnh
thực tế Việt Nam trong quá trình giảng dạy.
Hiện nay, nước Việt Nam đang trên đà phát triển hội nhập quốc tế, vì
vậy để đáp ứng yêu cầu của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục, yêu cầu phát triển nhân lực
trong cơ chế thị trường, cho nên người giáo viên cần phát huy hết tầm quan
trọng của Hóa học trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước,
trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường chính là đào tạo học sinh
thành những con người năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri
thức khoa học, kỹ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lý cho
những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và của xã hội.
Muốn thực hiện được mục tiêu này, đòi hỏi người giáo viên cần phải dựa
trên cơ sở quan niệm tích cực hóa hoạt động của học sinh, lấy học sinh làm
trung tâm của quá trình dạy học.
2. Thực trạng vấn đề.
2.1. Thuận lợi
Được sự quan tâm của Đảng ủy xã Phi Thông, các cấp lãnh đạo Phòng
giáo dục Thành phố Rạch Giá, Sở giáo dục và Đào tạo Tỉnh Kiên Giang, trường
THPT Ngô Sĩ Liên đã được trang bị khá tốt về cơ sở vật chất (sách giáo khoa,
tài liệu tham khảo, mô hình, dụng cụ, hóa chất), điều kiện đi lại của giáo viên đã
được cải thiện.
Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên trẻ và rất nhiệt tình trong công tác giảng
dạy. Trong hoạt động chuyên môn tôi luôn nhận được sự hướng dẫn chỉ đạo tận
tình từ phía Ban giám hiệu, tổ chuyên môn cùng các bạn bè đồng nghiệp.
Giáo viên được tập huấn đầy đủ về chương trình chuẩn kiến thức kĩ năng
môn Hóa học 8 - 9 nên phần nào cũng hiểu được nội dung kiến thức cần truyền
đạt cho học sinh .
Đối với học sinh thì một số em học rất tích cực, biết phát huy khả năng
hiểu biết của mình, biết tham gia đóng góp ý kiến để cùng giáo viên giải quyết
5
những khó khăn để tìm ra những kết quả tốt nhất trong các bài luyện tập cũng
như bài học lý thuyết.
Một số phụ huynh cũng quan tâm đến việc học của con em mình qua việc
góp ý kiến với giáo viên và rèn luyện cách học thêm ở nhà. Từ đó giáo viên có
phương pháp và định hướng dạy một cách tốt hơn. Ðó cũng là một phần thuận
lợi mang lại hiệu quả rất cao .
Bản thân tôi là giáo viên (GV) nhiều năm liền giảng dạy Hóa học 9 nên
tôi hiểu và có kế hoạch chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo, chủ động đề ra cách
sử dụng các phương tiện dạy học như thế nào để phát huy tính tích cực, sáng tạo
của học sinh nhằm giúp tiết học đạt kết quả tốt hơn.
Các mẫu vật chứa chất béo gắn liền với thực tiễn đời sống con người nên
các em sưu tầm mẫu vật dễ hơn, có thể dự đoán được một số tính chất vật lí của
chất béo thông qua thực tế.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc vẽ biểu đồ so sánh năng lượng
tỏa ra khi oxi hóa chất béo, chất đạm và chất bột nên học sinh dễ rút ra một số
kiến thức ứng dụng của chất béo.
2.2. Khó khăn
- Do cơ sở vật chất còn thiếu thốn nên trường chưa có phòng thực hành
thí nghiệm cho bộ môn dẫn đến khâu quản lí, tổ chức HS di chuyển dụng cụ-
hóa chất từ phòng học này sang phòng học khác gặp rất nhiều khó khăn như: tốn
nhiều thời gian, không đảm bảo an toàn khi di chuyển.
- Do tranh ảnh cấp về còn ít.
- Do trình độ nhận thức của HS chưa đồng đều, nhiều HS đi học theo
nguyện vọng của gia đình hơn là ham hiểu biết dẫn đến tình trạng học tập một
cách thụ động.
3. Những hạn chế và khó khăn khi dạy bài: “Chất béo”
Ngoài những lí do khách quan trên, khi dạy bài: “Chất béo” vẫn còn gặp
một số hạn chế, bởi vì chất béo là một trong những hợp chất hữu cơ, mà Hóa
học hữu cơ lại là một phần khó trong chương trình hóa học trung học cơ sở
(THCS), nguyên nhân chính là do ở chương trình THCS học sinh mới bước đầu
6
nghiên cứu về nguyên tử, phân tử chưa được học về cấu trúc nguyên tử, liên kết
hóa học do vậy việc nghiên cứu về Hóa học hữu cơ sẽ gặp nhiều khó khăn như:
Thứ nhất: Đối với hợp chất vô cơ, việc nghiên cứu các chất cụ thể, tiêu
biểu được bắt đầu bằng sự tìm hiểu tính chất chung của mỗi loại trước.Ví dụ
như: Học xong bài 3: “Tính chất hóa học của axit” HS sẽ được nghiên cứu tiếp
bài 4: “Một số axit quan trọng: H
2
SO
4
”, lúc này dựa trên kiến thức tính chất hóa
học chung của axit đã học, HS dễ dàng dự đoán một số tính chất hóa học của
axit sunfuric. Còn đối với hợp chất hữu cơ, thì việc nghiên cứu các chất tiêu biểu
cũng chính là sự tìm hiểu trực tiếp những chất đó như: Metan, etilen, axetilen,
rượu etylic, chất béo, glucozơ, saccarozơ, tinh bột, xenlulozơ, protein, … dẫn
đến tất cả kiến thức ở mỗi bài đều mới lạ nên quá trình xây dựng và tiếp thu bài
ở HS sẽ gặp nhiều khó khăn hơn so với khi học hợp chất vô cơ.
Thứ hai: Do các năm học trước, khi dạy phần: “Tính chất vật lí của chất
béo” tôi chưa nghĩ đến việc đưa các yêu cầu nội dung thí nghiệm vào phiếu học
tập nên việc thảo luận nhóm và báo cáo kết quả thí nghiệm của HS còn mất
nhiều thời gian. Mặt khác, khi cho HS thí nghiệm tôi chưa nhấn mạnh nội dung
và các thao tác thí nghiệm dẫn đến 4 nhóm có kết quả báo cáo hiện tượng quan
sát được như sau:
+ Có 2 nhóm nêu kết luận đúng là: chất béo tan được trong benzen, xăng.
+ Có 2 nhóm nêu kết luận ngược lại là: chất béo không tan trong benzen, xăng.
Tôi tìm hiểu nhanh nguyên nhân thí nghiệm không thành công, thì được biết
thao tác thí nghiệm chưa chính xác và các em cho quá nhiều dầu ăn vào ống
nghiệm trên dẫn đến dầu ăn tan không hoàn toàn trong benzen, trong xăng cho
nên có 2 nhóm HS đã ngộ nhận và rút ra kết luận sai.
Thứ ba: Do các năm học trước khi dạy phần: “Cấu tạo và thành phần phân
tử của chất béo” tôi chỉ đơn thuần thông báo cho HS biết được công thức của
glixerol, các axít béo, chất béo như SGK Hóa học 9 trang 145 đã nêu.
● Với phương pháp giảng dạy trên, tôi đã khảo sát thực tế ngẫu nhiên của
02 lớp (9
1
, 9
2
) bằng cách kiểm tra 15 phút vào đầu giờ học của tiết sau với nội
7
dung: Trình bày tính chất hóa học của chất béo, viết phương trình hóa học minh
họa?
Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ điểm kiểm tra 15 phút của tổng HS lớp 9
1
,
9
2
(năm học 2010 -2011) như sau:
Qua kết quả trên, tôi thật sự lo lắng đến chất lượng của HS và chợt hiểu ra
rằng: do phương pháp mà tôi vừa truyền đạt cho HS còn mang tính áp đặt nên
HS tiếp nhận những tri thức trên một cách thụ động, máy móc. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân mà HS bị điểm thấp vì đa số HS còn nhầm lẫn giữa
công thức của chất béo với các axit béo, ghi công thức của glixerol, công thức
của sản phẩm chưa chính xác, dẫn đến lập phương trình hóa học còn sai nhiều.
Thứ tư: Vì các thí nghiệm thủy phân chất béo trong môi trường kiềm hoặc
axit đều đòi hỏi nhiều thời gian nên không tiến hành các thí nghiệm này trên lớp
được, đồng thời ở phản ứng thủy phân chất béo, nhìn trên phương trình phản
ứng ta chỉ thấy có một muối (hoặc một axit) được tạo thành nhưng thực tế đó là
một hỗn hợp muối (hoặc một hỗn hợp axit).
III. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ.
1. Giải pháp thực hiện.
Từ những thuận lợi và khó khăn của bài dạy trên tôi đã hiểu ra rằng:
Việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học kết hợp với công nghệ thông tin là
một vấn đề cần thiết và nên làm để nâng cao chất lượng dạy học nói chung và
chất lượng dạy học Hóa học nói riêng, góp phần đào tạo những con người lao
động năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề trong thực tiễn.
Dạy Hóa học không phải chỉ là quá trình dạy, truyền thụ kiến thức, thông
báo thông tin, “rót” kiến thức vào học sinh mà chủ yếu là quá trình giáo viên
8
TSHS
ĐIỂM KIỂM TRA 15 PHÚT
Giỏi Khá Tb Yếu Kém
TS % TS % TS % TS % TS %
70 7 10 10 14,3 27 38,6 20 28,6 6 8,5
thiết kế, tổ chức, điều khiển các hoạt động nhận thức tích cực của học sinh để
đạt được các mục tiêu cụ thể có trong bài học.
Đây là dạng bài nghiên cứu cấu tạo, tính chất hóa học của một chất hữu cơ
cụ thể, GV cần chú ý thể hiện được phương pháp sau:
+ GV nêu vấn đề cần nghiên cứu, nhằm kích thích tính tò mò của HS.
+ GV sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng kiểm tra, dự đoán và kết
luận đồng thời GV sử dụng thí nghiệm nghiên cứu, nhằm giúp HS rút ra tính
chất mới. Lưu ý đối với thí nghiệm, GV phải nắm vững kĩ thuật thí nghiệm, đảm
bảo thí nghiệm phải thành công do đó GV phải chuẩn bị từng dụng cụ, hóa chất
phục vụ thí nghiệm của GV (hoặc HS) thật tỉ mỉ, chu đáo, phải thực hiện thí
nghiệm trước khi dạy và nhất là không được chủ quan.
+ GV sử dụng mẫu vật, tranh ảnh, như là nguồn để HS khai thác kiến
thức mới.
+ GV phải hướng dẫn HS quan sát, mô tả hiện tượng, giải thích, nhận xét
và rút ra kết luận.
+ GV cho HS đọc và tóm tắt được thông tin trong bài học.
+ GV sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề cần tránh những câu hỏi quá
vụn vặt, không logic.
+ Đối với phương pháp thảo luận nhóm GV cần quy định nội dung
nhiệm vụ, thời gian cụ thể cho mỗi nhóm để tất cả HS đều có vai trò nhất định
và tích cực tự giác hoạt động theo tinh thần hợp tác nhằm hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Cần tránh tình trạng chỉ một HS làm còn các HS khác làm việc riêng
hoặc gây mất trật tự trong lớp.
+ Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy GV phải biết phối hợp các
phương pháp trên một cách linh hoạt thì tiết dạy mới đạt hiệu quả cao.
Tùy điều kiện từng trường, từng địa phương mà GV thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học Hóa học một cách linh hoạt. Chẳng hạn như để tiến hành bài giảng
này thành công, bản thân tôi và HS có sự chuẩn bị như sau:
Thứ nhất: GV phải xác định đúng mục tiêu cụ thể của bài:
* Kiến thức:
9
- Khái niệm chất béo, trạng thái thiên nhiên, công thức tổng quát của chất béo
đơn giản là (RCOO)
3
C
3
H
5,
đặc điểm cấu tạo.
- Tính chất vật lí: trạng thái, tính tan.
- Tính chất hóa học: phản ứng thủy phân trong môi trường axit và trong môi
trường kiềm ( phản ứng xà phòng hóa)
- Ứng dụng : Là thức ăn của người và động vật, là nguyên liệu trong công
nghiệp
* Kĩ năng:
Quan sát thí nghiệm, hình ảnh … rút ra được nhận xét về công thức đơn
giản, thành phần cấu tạo và tính chất của chất béo.
Viết được PTHH phản ứng thủy phân của chất béo trong môi trường axit,
môi trường kiềm.
Phân biệt chất béo (dầu ăn, mỡ ăn) với hidrocacbon ( dầu, mỡ công nghiệp)
Tính khối lượng xà phòng theo hiệu suất.
* Thái độ:
Học sinh có ý thức tích cực làm việc cá nhân, hoạt động nhóm, giáo dục
HS tính cẩn thận, biết cách bảo quản chất béo và có chế độ ăn uống hợp lí để
bảo vệ sức khỏe.
Thứ hai: GV và HS phải có sự chuẩn bị thiết bị dạy học cần thiết cho tiết dạy:
* Đồ dùng dạy học:
● Giáo viên:
- Dụng cụ và hóa chất dùng cho thí nghiệm tính chất vật lí của chất béo:
+ Dụng cụ: 1 giá ống nghiệm, 1 kẹp gỗ, 1 ống hút nhỏ giọt, 1 khay, 1
chậu / nhóm.
+ Hóa chất: 3 ống nghiệm đựng nước, benzen, xăng (có nút đậy), cốc
đựng dầu ăn.
- Bảng phụ (kiểm tra bài cũ), bảng phụ (củng cố).
- Tranh vẽ biểu đồ: so sánh năng lượng khi oxi hóa chất đạm, chất bột,
chất béo.
- Phiếu học tập/ nhóm có nội dung như sau:
10
STT Thí nghiệm Hiện tượng Kết luận
1
Nhỏ 2-3 giọt dầu ăn vào
ống nghiệm đựng 4 ml
nước, lắc nhẹ, quan sát.
2
Nhỏ 2-3 giọt dầu ăn vào
ống nghiệm đựng 4 ml
benzen, lắc nhẹ, quan sát.
3 Nhỏ 2-3 giọt dầu ăn vào
ống nghiệm đựng 4 ml
xăng, lắc nhẹ, quan sát.
● Học sinh: Chuẩn bị dầu máy may, các mẫu vật có chứa chất béo, chất
đường - bột như: lạc, vừng, dầu thực vật, dầu gấc, hạt đào, gạo, tinh bột, muối
ăn, đường, mẫu dừa khô, dầu cá, mỡ lợn,…
Thứ ba: giáo viên phải xác định phương pháp, kĩ thuật dạy học chủ yếu.
Đây là dạng bài: nghiên cứu hợp chất hữu cơ cụ thể cho nên trong quá
trình giảng dạy, tôi có thể phối hợp một số phương pháp: nêu vấn đề cần nghiên
cứu, trực quan, thí nghiệm nghiên cứu, thí nghiệm kiểm chứng, thảo luận nhóm,
đàm thoại, thông báo,…
Thứ tư: Giáo viên biết thiết kế các hoạt động dạy học theo hướng tích cực ở
trên lớp
* Trước khi vào bài tôi tiến hành kiểm tra bài cũ: (5 phút)
- Giáo viên treo bảng phụ:
1. Viết công thức cấu tạo thu gọn của rượu etylic ………
2. Viết công thức cấu tạo thu gọn của axitaxetic ………….
3. Hoàn thành sơ đồ phản ứng sau:
CH
3
COOH + C
2
H
5
OH > ……
?
……. + ….……
?
…….
+ Gọi tên sản phẩm chính
+ Etyl axetat thuộc loại hợp chất gì?
+ Phản ứng trên thuộc loại phản ứng gì?
11
Kết quả của đáp án tôi lưu lại bên góc phải của bảng (mục đích là dựa vào kiến
thức bài cũ để khai thác kiến thức khi dạy bài mới)
* Để tạo tình huống vào bài giáo viên nêu vấn đề:
Trong nguồn thức ăn chúng ta dùng hàng ngày có rất nhiều dầu - mỡ, chúng
là một trong những thành phần cơ bản tạo nên cơ thể động thực vật chính vì thế
mà chúng có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống sinh vật. Vậy chúng có
thành phần chính là gì? có tính chất và cấu tạo như thế nào? Để trả lời các câu
hỏi trên chúng ta cùng tìm hiểu:
Bài 46 - CHẤT BÉO.
* Cách thức tổ chức:
Ở mỗi hoạt động của bài học, tôi có thể sử dụng hệ thống câu hỏi và phương
pháp như sau:
Hoạt động 1: I. Chất béo có ở đâu? (4 phút)
Phương pháp: nêu vấn đề, trực quan, thảo luận nhóm, đàm thoại, tái hiện
kiến thức cũ,…
Vì chất béo rất gần gũi với đời sống thực tiễn của con người nên để cho tiết
học sinh động tôi tổ chức cho HS hoạt động nhóm dựa trên những mẫu vật đã
đem để tự tìm tòi phát hiện tri thức:
Bước 1: Tôi thông báo: Mỡ dùng để ăn được lấy từ động vật và dầu ăn
được lấy từ thực vật, dầu ăn và mỡ động vật đều được gọi là chất béo.
Bước 2: Dựa trên cơ sở đó tôi yêu cầu các nhóm lấy mẫu vật đã đem để
trên bàn và sắp xếp chúng thành 2 nhóm: nhóm có chứa chất béo và nhóm
không chứa chất béo với thời gian 2 phút.
Bước 3: Sau khi HS sắp xếp xong cho đại diện báo cáo kết quả.
Bước 4: Từ đó cho HS rút ra kết luận về nguồn chất béo có trong thiên
nhiên.
Bước 5: Giáo viên nêu vấn đề: Dầu, mỡ bôi trơn các ổ bi, xe máy có phải là
chất béo không? (HS: Dầu, mỡ bôi trơn các ổ bi, xe máy…không phải là chất
béo).
12
- Vì sao dầu mỡ bôi trơn các ổ bi, xe máy… không phải là chất béo?
(HS: Vì chúng là sản phẩm của dầu mỏ).
● Giáo viên áp dụng phương pháp trên kết hợp việc sử dụng mẫu vật thật
sẽ giúp HS dễ quan sát, thảo luận tốt, không khí lớp học sôi nổi. Kết quả: 100%
HS tự rút ra kết luận rất nhanh, dẫn đến HS hứng thú học tập hơn so với dùng
tranh vẽ.
Hoạt động 2: II. Chất béo có những tính chất vật lí quan trọng nào? (5 phút)
Phương pháp: nêu vấn đề cần nghiên cứu, trực quan, thí nghiệm kiểm tra dự
đoán, thí nghiệm nghiên cứu, quan sát, thảo luận nhóm,…
Bước 1: Từ những mẫu vật chứa chất béo, yêu cầu HS nêu trạng thái của
chất béo?
Bước 2: Học sinh khác nhận xét và rút ra kết luận.
Bước 3: Ngoài tính chất vật lí trên, hãy dự đoán 1 số tính chất vật lí khác
của chất béo mà các em đã biết?(HS: nhẹ hơn nước, không tan trong nước)
Bước 4 (GV nêu vấn đề): Để chứng minh những điều trên các em hãy thực
hiện thí nghiệm sau đây, đồng thời giáo viên phát phiếu học tập cho các nhóm (4
nhóm). Yêu cầu HS đọc nội dung thí nghiệm. Sau đó, GV lưu ý HS: Để thí
nghiệm thành công, dễ quan sát chỉ được nhỏ 2-3 giọt dầu ăn, không được nhỏ
quá nhiều, khi nhỏ phải nhỏ men theo thành ống nghiệm và lắc nhẹ.
Bước 5: Các nhóm thực hiện thí nghiệm và ghi kết quả hiện tượng quan sát
được theo yêu cầu vào phiếu học tập.
Bước 6: Các nhóm báo cáo kết quả thí nghiệm.
Qua quan sát thí nghiệm HS tự rút ra kết luận về tính chất vật lí quan trọng
của chất béo: nhẹ hơn nước, không tan trong nước nhưng tan được trong
benzen, xăng, dầu hỏa
● Rõ ràng GV sử dụng phương pháp trên kết hợp với phương tiện dạy học
chu đáo, nhấn mạnh thao tác thí nghiệm một cách tỉ mỉ đã giúp GV tiết kiệm
được thời gian cho tiết học và 100% các nhóm đều có kết quả thí nghiệm chính
xác.Chính vì thế, mà GV đã tạo cho các em niềm tin trong học tập, bởi thông
13
qua thí nghiệm các em tự tìm ra kiến thức bài học, từ đó giúp HS yêu thích bộ
môn.
Hoạt động 3: III. Chất béo có thành phần và cấu tạo như thế nào? (13 phút)
Phương pháp: nêu vấn đề, so sánh, đàm thoại, tái hiện kiến thức cũ, thông
báo.
Do chất béo có cấu tạo và thành phần phân tử khác nhiều so với các
hidrocacbon đã học, nếu GV chỉ thông báo đơn thuần công thức của glixerol,
các axit béo, chất béo như sách giáo khoa thì HS sẽ học thuộc lòng, nhớ một
cách máy móc, dễ nhầm và tiếp nhận những tri thức trên một cách thụ động. Do
đó để các em khắc sâu kiến thức hơn, tôi xây dựng hệ thống câu hỏi tạo tình
huống có vấn đề, gợi mở nhằm giúp HS tự khám phá và giải quyết vấn đề trên
cơ sở dựa vào các kiến thức cũ đã học như công thức cấu tạo của rượu etylic,
axitaxetic, phản ứng este hoá. Ví dụ như khi dạy:
* Công thức cấu tạo của glixerol
Bước 1: GV thông báo glixerol có công thức cấu tạo thu gọn là:
C
3
H
5
(OH)
3
(kiến thức này HS không thể tìm tòi được).
Bước 2: GV tái hiện kiến thức cũ ở HS đồng thời nêu nhiệm vụ cần giải
quyết:
+ Công thức C
3
H
5
(OH)
3
giống với công thức hóa học của chất nào đã học?
(HS: Công thức C
3
H
5
(OH)
3
giống với công thức cấu tạo thu gọn của rượu
etylic: C
2
H
5
OH)
+ Yêu cầu HS so sánh với công thức cấu tạo của rượu etylic: C
2
H
5
OH
( Dựa vào kết quả kiểm tra bài cũ đã lưu ở trên bảng HS so sánh:
Giống nhau: đều có nhóm –OH
Khác nhau: glixerol: có 3 nhóm -OH
Còn rượu etylic: có 1 nhóm –OH).
Từ đó GV mở rộng thêm cho HS:
+ Rượu etylic thuộc nhóm rượu đơn chức (do có 1 nhóm –OH)
+ Glixerol cũng là rượu nhưng thuộc nhóm rượu đa chức (do có 3 nhóm –OH)
14
Đồng thời giúp HS xác định gốc hidrocacbon C
3
H
5
- có hóa trị (III) (vì liên
kết với 3 nhóm –OH)
Bước 3: Sau đó tôi yêu cầu HS viết công thức cấu tạo của glixerol dưới
dạng triển khai dựa trên kiến thức cũ đã học (nguyên tắc viết công thức cấu tạo
phân tử hợp chất hữu cơ và công thức cấu tạo dạng triển khai của rượu etylic).
HS sẽ viết được công thức cấu tạo của glixerol dưới dạng triển khai (lưu ý HS
khi ghi công thức cấu tạo nên ghi mạch C trước) là:
CH
2
- CH - CH
2
OH - OH - OH
* Công thức chung của các axit béo
Bước 1: GV thông báo công thức của 1 số axit hữu cơ (axit béo) như:
Axit stearic: C
17
H
35
-COOH (có trong ca cao, mỡ động vật…)
Axit oleic: C
17
H
33
-COOH (có trong dầu oliu, …)
Axit panmitic: C
15
H
31
-COOH (có trong mỡ động vật, dầu cọ…)
Bước 2: Yêu cầu HS so sánh đặc điểm cấu tạo của các axit này với
axitaxetic (CH
3
-COOH) đã học?
(Dựa trên kiến thức kiểm tra bài cũ HS so sánh:
+ Giống nhau: đều có nhóm –COOH
+ Khác nhau: axit axetic có nhóm –COOH gắn với gốc hidrocacbon
CH
3
-
Còn các axit béo: có nhóm –COOH gắn với gốc
hidrocacbon C
17
H
35
-, C
17
H
33
-, C
15
H
31
-,…)
Bước 3: GV nêu vấn đề đồng thời HS giải quyết vấn đề dựa trên kết quả so
sánh được:
+ Nếu kí hiệu các gốc hidrocacbon C
17
H
35
-, C
17
H
33
-, C
15
H
31
-… là R- thì
công thức chung của các axit béo như thế nào? (HS: R-COOH)
15
+ Yêu cầu HS phát biểu gốc axit RCOO-
có hóa trị mấy? (HS: Hóa trị I,
vì liên kết với 1 nguyên tử H)
* Công thức chung của chất béo
Bước 1: Dựa trên phương trình phản ứng este hóa:
CH
3-
COOH + C
2
H
5
OH CH
3
COOC
2
H
5
+ H
2
O
GV đặt vấn đề: Nếu thay CH
3
-COOH bằng 1 axit béo khác như C
17
H
35
-COOH
và thay C
2
H
5
OH bằng 1 glixerol C
3
H
5
(OH)
3
thì phản ứng trên có xảy ra không?
Bước 2: Yêu cầu HS lên bảng hoàn thành phương trình phản ứng. HS sẽ
dựa trên kiến thức kiểm tra bài cũ và hóa trị của gốc axit, gốc hidrocacbon C
3
H
5
-
để hoàn thành công thức của sản phẩm:
3 C
17
H
35
COOH + C
3
H
5
(OH)
3
(C
17
H
35
COO)
3
C
3
H
5
+ 3H
2
O
Từ phương trình trên yêu cầu HS ghi dưới dạng phương trình tổng quát:
3 R-COOH + C
3
H
5
(OH)
3
(R-COO)
3
C
3
H
5
+ 3H
2
O
(GV cần lưu ý HS: Khi lập phương trình nên cân bằng số gốc axit, gốc
hidrocacbon trước, rồi mới đến H và O).
Bước 3: Dựa trên công thức (R-COO)
3
C
3
H
5
, GV hướng dẫn HS hình thành
định nghĩa chất béo, công thức chung của chất béo. GV nên nhấn mạnh: Chất
béo không phải là hợp chất mà là hỗn hợp nhiều este, các este này do glixerol
và các axit béo tạo nên.
● Với phương pháp như trên tôi khảo sát trắc nghiệm ngẫu nhiên 5 HS/
lớp, kết quả 100% các em nêu đúng các công thức: glixerol, các axit béo, chất
béo. So với phương pháp trước đây, phương pháp này đã giúp cho HS không
những hiểu được kiến thức mới (công thức glixerol, chất béo) mà còn khắc sâu
kiến thức cũ (công thức rượu etylic, axitaxetic, este), điều đó giúp HS phát huy
được tính tự học, tự nhận thức, tự tìm ra tri thức của bài học một cách chủ động,
tích cực dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của GV.
Hoạt động 4: IV. Chất béo có những tính chất hóa học quan trọng nào?
(10 phút)
16
H
2
SO
4
đ, t
o
Axit, t
o
Axit, t
o
Phương pháp: nêu vấn đề, đàm thoại gợi mở, thông báo, tái hiện kiến thức
cũ, so sánh.
Vì các thí nghiệm thủy phân chất béo trong môi trường kiềm hoặc axit xảy
ra rất chậm, không có hiện tượng rõ ràng và khó nhận biết nên không tiến hành
các thí nghiệm này trên lớp được.
Khi dạy phần: Phản ứng thủy phân chất béo trong axit GV tiến hành:
Bước 1: GV nêu vấn đề: Cơ thể chúng ta hấp thụ chất béo như thế nào?
(Điều này đã được học trong môn sinh học)
Bước 2: GV cho HS đọc thông tin SGK để tìm hiểu phản ứng thủy phân
chất béo trong môi trường axit, đồng thời hướng dẫn HS ghi phương trình chữ
của phản ứng: Chất béo+ nước → glixerol + các axit béo.
Bước 3: Từ sơ đồ trên, yêu cầu HS lên bảng hoàn thành phương trình phản
ứng bằng công thức của các chất vừa học:
(R-COO)
3
C
3
H
5
+ 3H
2
O C
3
H
5
(OH)
3
+ 3 R-COOH
GV hướng dẫn HS thấy được phản ứng trên làm cho este bị phân tích bởi
nước nên có tên là phản ứng thủy phân.
Cho HS so sánh phản ứng thủy phân với phản ứng este hoá?
(HS: Phản ứng giữa este với nước taọ ra axit và rượu (glixerol là rượu đa
chức) là phản ứng thủy phân, nó ngược với phản ứng este hóa).
Khi dạy: Phản ứng thủy phân chất béo trong môi trường kiềm ta tiến hành:
Bước 1: GV thông báo: Phản ứng thủy phân chất béo còn xảy ra khi đun
nóng với dung dịch kiềm:
Chất béo + dung dịch kiềm → glixerol + muối của các axit béo
Bước 2: Tương tự HS cũng dựa vào công thức của các chất, hóa trị của các
gốc axit đã học mà hoàn thành phương trình hóa học:
(R-COO)
3
C
3
H
5
+ 3NaOH C
3
H
5
(OH)
3
+ 3 R-COONa
GV thông báo hỗn hợp muối natri của các axit béo là thành phần chính của
xà phòng (xà phòng bánh),vì vậy phản ứng thủy phân chất béo trong môi trường
kiềm còn gọi là phản ứng xà phòng hóa.(Cần nhấn mạnh phản ứng xà phòng
hóa cũng là phản ứng thủy phân).
17
Axit, t
o
t
o
GV nên dự kiến tình huống HS thắc mắc: Tại sao nhìn trên phương trình
hóa học ta chỉ thấy có một muối (hoặc một axit) nhưng thực tế đó là một hỗn
hợp muối (hoặc một hỗn hợp axit)?
GV chỉ cần giải thích dưới dạng đơn giản nhất để HS dễ hiểu: “Vì chất béo
là một hỗn hợp nhiều este và ngay cả trong một phân tử este cũng có nhiều gốc
axit khác nhau nên khi thủy phân sẽ tạo ra một hỗn hợp muối (hoặc một hỗn hợp
axit)”.
GV liên hệ thực tế: Hiện nay bên cạnh xà phòng sản xuất từ chất béo người
ta còn sản xuất các chất giặt rửa tổng hợp dạng bột gọi là “bột giặt” hay xà
phòng bột, xà phòng kem, …chúng xuất phát từ dầu mỏ và một số nguyên liệu
khác.
Để củng cố phần này GV cho HS hoạt động nhóm (1’).
Bài tập: Hoàn thành các phương trình sau:
(C
17
H
35
COO)
3
C
3
H
5
+ H
2
O
,
o
axit t
→
? + ?
(C
17
H
33
COO)
3
C
3
H
5
+ NaOH
o
t
→
? + ?
Hoạt động 5: V. Chất béo có những ứng dụng gì? (4 phút)
Phương pháp: nêu vấn đề, trực quan, quan sát, so sánh, đàm thoại.
GV nêu vấn đề: Chất béo có vai trò như thế nào đối với cơ thể người và động
vật?
Bước 1: GV treo tranh vẽ biểu đồ so sánh năng lượng tỏa ra khi oxi hóa
chất đạm, chất béo, chất bột.
Bước 2: HS quan sát tranh và phát biểu.
Bước 3: HS rút ra kết luận: Chất béo là thành phần cơ bản trong thức ăn
của người và động vật.
Bước 4: GV chốt lại kiến thức, kết hợp giáo dục HS biết cách bảo vệ sức
khỏe. Ngoài những ứng dụng trên, GV yêu cầu HS: Dựa vào những tính chất
hóa học của chất béo nêu ứng dụng của chất béo trong công nghiệp (HS: điều
chế glixerol và xà phòng) và cho biết cách bảo quản chất béo.
Thứ năm: GV ra bài tập để HS tự đánh giá và vận dụng tri thức.
18
Sau khi dạy xong kiến thức của bài, tôi tổ chức cho HS tham gia trò
chơi: “Đi tìm chìa khóa vàng” bằng cách chia lớp thành 2 đội: A và B (GV phổ
biến luật chơi).
GV treo bảng phụ: “ ĐI TÌM CHÌA KHÓA VÀNG”
Hàng dọc của từ: “Chìa khóa vàng”
* Nội dung gợi ý từ hàng ngang:
1/ Hạt lạc còn có tên gọi là hạt gì?
2/ Một trong các dung môi dễ tìm hòa tan được chất béo (sản phẩm của dầu
mỏ).
3/ Đây là tên của phản ứng dùng để sản xuất xà phòng.
4/ Thịt, cá, trứng, sữa, đậu que gọi chung là gì?
5/ Đây là từ chỉ một trong các biện pháp để bảo quản thực phẩm.
6/ Tên gọi của một loại este được tạo ra từ axit axetic và rượu etylic.
ĐÁP ÁN
19
1
3
Hàng dọc: Từ “Chìa khóa vàng”
T H U Y P H A N
● Thông qua trò chơi “Đi tìm chìa khóa vàng”, tôi thấy các em rất hào
hứng, sôi nổi, tham gia rất nhiệt tình, hăng hái và đa số các em hiểu bài, tiếp thu
bài nhanh, trả lời rất chính xác các kết quả trò chơi.
● Với phương pháp giảng dạy trên, tôi đã khảo sát thực tế ngẫu nhiên của 2
lớp (9
1
,
9
2
) bằng cách kiểm tra 15 phút vào đầu giờ học của tiết sau cũng với
nội dung như năm học 2010 -2011: Hãy trình bày tính chất hóa học của chất
béo, viết phương trình hóa học minh họa?
Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ điểm kiểm tra 15 phút của HS 9
1
,9
2
(năm học
2011 -2012) như sau:
Năm học Lớp
TS
HS
ĐIỂM KIỂM TRA 15 PHÚT
Giỏi Khá TB Yếu Kém
T
S
%
T
S
%
T
S
%
T
S
%
T
S
%
2010-2011 9
1
, 9
2
70 7 10 10 14,3 27
38,
6
20
28,
6
6 8,5
2011 -2012 9
1
,9
2
84 14
16,
7
19 22,6 42 50 9
10,
7
0 0
20
1 Đ A U P H O N G
X A N G
3 X A P H O N G H O A
T H U C P H A M
N H I Ê T Đ O T H A P
E T Y L A X E T A T
So với kết quả năm trước, kết quả kiểm tra 15 phút năm nay đạt tỉ tệ HS
giỏi là tăng 7 (6,7%), HS khá là tăng 9(8,3%), HS yếu là giảm 11(giảm 17,9%),
không có HS bị điểm kém.
2. Kết quả thực hiện.
Trong từng tiết dạy, tôi thấy với phương pháp dạy học theo hướng giáo
viên tổ chức để HS tích cực,chủ động tìm tòi, phát hiện xây dựng kiến thức mới,
như :Nêu và giải quyết vấn đề,sử dụng phương tiện dạy học Hóa học, sử dụng
thí nghiệm hóa học,sử dụng bài tập Hóa học… đã giúp các em nắm vững nội
dung kiến thức lý thuyết, kĩ năng hoá học, giải quyết được bài tập Hóa học. Điều
đó đã tạo cho HS yêu thích bộ môn qua từng tiết học dẫn đến chất lượng giáo
dục ngày càng được nâng cao, với kết quả bài kiểm tra 1 tiết (tiết PPCT: 59) của
HS khối 9 như sau:
Năm học TS
HS
ĐIỂM KIỂM TRA 1 TIẾT (Hóa hữu cơ)
Giỏi Khá TB Yếu Kém
TS % TS % TS % TS % TS %
2010-2011 70 5 7,1 9 12,9 29 41,4 22 31,5 5 7,1
2011 -2012 84 15 17,9 22 26,2 37 44 10 11,9 0 0
So với chất lượng năm 2010 - 2011 thì chất lượng bài kiểm tra 1 tiết năm
học 2011 - 2012 của bộ môn đạt tỉ lệ HS giỏi tăng 10,8 %, tỉ lệ học sinh khá tăng
13,3 %, tỉ lệ HS yếu giảm 19,6 %, không có HS bị điểm kém.
IV. KẾT LUẬN.
1. Bài học kinh nghiệm.
Để nâng cao chất lượng bộ môn hóa học nói riêng và chất lượng giáo dục
nói chung, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra
đánh giá, là một giáo viên thì phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, nhệt tình trong
công tác giảng dạy. Luôn phải tích cực học hỏi, trao dồi kiến thức chuyên môn
để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
21
Qua thực tế giảng dạy bộ môn hóa học nói chung và phương pháp dạy bài:
“Chất béo” nói riêng tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên phải thực sự có tâm huyết với nghề nghiệp, có tinh thần trách
nhiệm trong công tác, nhiệt tình giảng dạy.
- Giáo viên cần quán triệt tư tưởng: Đổi mới phương pháp dạy học là sử
dụng một cách hợp lý tổng hợp các phương pháp dạy học vốn có kết hợp với
một số kĩ thuật thiết kế, tổ chức hoạt động học tập của HS theo đúng mục tiêu
mỗi bài học, nhằm mục đích phát huy cao độ tính tích cực, tự giác của HS trong
học tập bộ môn Hóa học. HS không chỉ nắm được các tri thức, kĩ năng cần lĩnh
hội mà điều quan trọng hơn là có kĩ năng hoạt động thực tiễn để tìm tòi, phát
hiện ra các tri thức, có kĩ năng hoạt động tích cực để giải quyết các vấn đề một
cách linh hoạt và sáng tạo.
- Giáo viên phải biết phân loại từng kiểu bài mà lựa chọn phương pháp,
phương tiện kỹ thuật, sao cho phù hợp.
- Giáo viên phải biết tích hợp một số nội dung môn học khác, giáo dục
môi trường vào chương trình Hóa học.
- Tuyệt đối GV phải ghi bảng cẩn thận, chính xác, trình bày bảng khoa
học, phải có sổ tay, bảng thống kê các bài kiểm tra để theo dõi cách ghi công
thức cấu tạo, kĩ năng lập phương trình hóa học, nhận biết các chất hữu cơ, của
mỗi học sinh để từng bước theo dõi mức độ tiến bộ nhằm tuyên dương, thúc đẩy
tinh thần học tập của các em. Đồng thời giáo viên cũng biết được những kiến
thức mà học sinh bị hỏng để kèm cặp, uốn nắn kịp thời, nhằm tạo cho các em
niềm tin trong học tập, không khí lớp học thoải mái hơn.
- Bản thân GV phải có tinh thần học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng
nghiệp nhằm nâng cao tiềm lực về hóa học như kiến thức Hóa học, kĩ năng thí
nghiệm hóa học, kĩ năng sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học và áp dụng
công nghệ thông tin vào bài học.
- Giáo viên biết xác định đúng và nắm vững yêu cầu trọng tâm từng tiết
học, giảm bớt thì giờ dành cho những phần dễ và tương đối đơn giản để có đủ
thời gian tập trung vào những phần trọng tâm của bài; ưu tiên dành thì giờ cho
22
việc sử dụng thí nghiệm hóa học và luyện tập, làm bài tập ở những phần trọng
tâm.
2. Ý nghĩa.
Tóm lại, trong giảng dạy bộ môn Hóa học ở bậc phổ thông cơ sở nói
chung, Hóa học lớp 9 nói riêng, giáo viên định ra hướng dạy giúp học sinh vận
dung kiến thức lí thuyết để giải quyết bài tập và rèn luyện kĩ năng viết phương
trình hóa học là một trong những phương pháp vô cùng quan trọng. Qua thực tế
giảng dạy tôi đã vận dụng có hiệu quả, học sinh chẳng những lĩnh hội được và
đạt kết quả khả quan trong việc học môn Hóa học lớp 9 nói riêng mà còn hứng
thú trong học tập nghiên cứu, tạo tiền đề cho các em phấn đấu và phát huy tính
sáng tạo của mình trong cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nếu làm tốt những điều trên thì bản thân mỗi giáo viên đã đóng góp công
sức đáng kể vào việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường hiện nay.
Góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy và học, đưa trình độ văn hóa nước
ta xích lại gần với trình độ các nước tiên tiến trên thế giới.
3. Kiến nghị.
Chính vì những khó khăn trên, tôi xin phép được kiến nghị đến các cấp
lãnh đạo xem xét:
- Xây dựng phòng thực hành bộ môn cho trường.
- Cung cấp thêm bàn ghế cho HS (đúng quy cách).
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân, tôi mong rằng sẽ đóng góp
một phần kinh nghiệm nhỏ bé của mình trong công tác giáo dục nói chung và
giảng dạy Hóa học nói riêng cho các đồng nghiệp.
Với một bài viết ngắn gọn này, có lẽ vẫn còn một số mặt chưa sâu sắc,
tôi rất mong được sự đóng góp của quý Thầy cô, anh chị đồng nghiệp để việc
thực hiện đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
của ngành.
Xin chân thành cảm ơn!
Rạch giá, ngày 15 tháng 04 năm 2012
Người viết
23
Quách Ngọc Uyển
Ý KIẾN XẾP LOẠI CỦA
HỘI ĐỒNG TĐ- KT TRƯỜNG
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
______________________________
Ý KIẾN XẾP LOẠI CỦA
HỘI ĐỒNG TĐ- KT SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TỈNH KIÊN GIANG
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
______________________________
24
MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Bối cảnh lịch sử 1
2. Lý do chọn đề tài 1
3. Phạm vi và đối tượng của đề tài 2
3.1. Phạm vi đề tài 2
3.2. Đối tượng nghiên cứu 3
4. Mục đích đề tài 3
5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 3
II. PHẦN NỘI DUNG 3
1. Cơ sở lí luận 3
2. Thực trạng vấn đề 4
2.1. Thuận lợi 4
2.2. Khó khăn 5
3. Những hạn chế và khó khăn khi dạy bài: “Chất béo” 5
III. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ 7
1. Giải pháp thực hiện 7
2. Kết quả thực hiện 19
IV. KẾT LUẬN 20
1. Bài học kinh nghiệm 20
2. Ý nghĩa 21
3. Kiến nghị 22
25