Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Đề tài cách khai thác và tổ chức dạy học phần tiểu dẫn trong giờ đọc hiểu văn bản ở trường THPT đạt hiệu quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.58 KB, 17 trang )

TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lâu nay trong giờ đọc hiểu văn bản (VB) ở THPT, GV và HS chủ yếu tập trung vào văn
bản mà ít quan tâm đến những yếu tố ngoài văn bản. Song chính những yếu tố ngoài văn bản lại
là những yếu tố quan trọng giúp GV và HS tiếp nhận, giải mã văn bản, đồng thời phát triển tư
duy, phát huy tính tích cực chủ động và hứng thú học tập của HS.
Chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện nay được kết cấu, biên soạn theo hướng dạy học
tích hợp nên phần tri thức đọc hiểu và những gì thể hiện ở phần Tiểu dẫn trở nên quan trọng. Để
giúp HS tìm hiểu và khám phá TPVH thì những yếu tố ngoài văn bản trong Tiểu dẫn là những
định hướng rất cần thiết giúp các em từng bước tìm hiểu, khám phá nội dung bài học, gián tiếp
định hướng cho HS tiếp cận bài học.
Phần Tiểu dẫn giới thiệu những tri thức đọc hiểu cần thiết nhằm giúp HS có được những
định hướng ban đầu khi tiếp nhận văn bản. Phần này được thể hiện rõ trong các phần, các mục
biên soạn của SGK văn học, song tôi nhận thấy rất ít tài liệu cũng như công trình nghiên cứu đề
cập đến những cách thức cụ thể và phương pháp triển khai để hướng dẫn HS chiếm lĩnh phần
nội dung kiến thức này một cách hiệu quả, giờ học phát huy được vai trò tích cực của HS.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đế tài: Cách khai thác
và tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn trong giờ đọc hiểu văn bản ở trường THPT đạt hiệu quả
cao, để góp phần nâng cao năng lực tiếp nhận THVH và tạo hứng thú học tập cho HS.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Xác định những nội dung cơ bản trong phần Tiểu dẫn cần khai thác nhằm định hướng
để tiếp nhận TPVC một cách dễ dàng, thấu đáo và có chiều sâu.
- Thiết lập những cách tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn, tạo nên tính tích cực, hứng thú,
hấp dẫn đối với người học.
- Thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính thực tiễn và tính khả thi của đề tài.
3. Phương pháp tiến hành
- Phương pháp quan sát, điều tra: Dùng phương pháp này để nắm được thực trạng dạy


học phần Tiểu dẫn
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dùng phương pháp này để phân tích các tài liệu liên
quan đến vấn đề khai thác phần Tiểu dẫn từ đó xác lập các lý thuyết liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Dùng phương pháp này để kiểm chứng tính hợp lý
và tính khả thi của các cách khai thác phần Tiểu dẫn.
4. Cơ sở và thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài
- Dựa trên những tài liệu về chương trình và phương pháp dạy học Ngữ văn mà Bộ giáo
dục biên soạn, đồng thời dựa trên thực tế giảng dạy nhiều năm qua tại trường, cũng như việc dự
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
2

giờ góp ý cho các đồng nghiệp trong nhóm bộ môn tôi đã đúc kết được những kinh nghiệm khai
thác phần Tiểu dẫn có hiệu quả.
- Đề tài này được tiến hành nghiên cứu trong ba năm qua (2008 - 2011).

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Những vấn đề lý luận liên quan đến khai thác phần Tiểu dẫn
1.1. Quan niệm “Đọc hiểu văn bản” trong dạy học Ngữ văn
Lâu nay trong dạy học văn, người ta thường dùng thuật ngữ là “Giảng văn”, “Phân tích
văn”…thì SGK cải cách đã thay bằng thuật ngữ “Đọc- hiểu văn bản”. Đây không chỉ là sự thay
đổi về tên gọi mà thực chất là sự thay đổi thay đổi quan niệm về bản chất của môn Văn, cả về
phương pháp dạy học Văn và các hoạt động khi tiếp nhận TPVH cũng có những thay đổi.
Theo Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hùng “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ
mức độ cao nhất của hoạt động đọc; đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn của người đọc”.
“Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa văn bản”. Với Giáo sư Trần Đình Sử “Đọc-
hiểu văn bản như một khâu đột phá trong việc đổi mới dạy học và thi môn Ngữ văn, là yêu cầu
bức thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến”.
Như vậy, đọc hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua
khả năng tiếp nhận của HS. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa

hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông hiểu các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết
và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Với quan điểm phát huy vai trò chủ thể của HS,
xuất phát từ đặc thù của văn chương (nghệ thuật ngôn từ), mà phương pháp dạy học Văn thay
bằng khái niệm “Đọc hiểu văn bản”.
1.2. Những định hướng khi khai thác phần Tiểu dẫn trong SGK
* Định hướng của SGK trong dạy học
Để khai thác phần Tiểu dẫn có hiệu quả cao, ta phải căn cứ vào những nội dung chung và
phương pháp giảng dạy mà người soạn SGK đã định hướng.
SGK là công cụ cơ bản không thể thiếu bên cạnh những công cụ nghề nghiệp khác của
người GV. Nó xác định mức độ, khối lượng kiến thức, kĩ năng tư duy cần truyền đạt cho HS,
đồng thời nó còn có tác dụng gợi ý phương pháp giảng dạy và giáo dục mà không hạn chế sự
sáng tạo, giúp GV nâng cao hiệu quả giờ lên lớp.
SGK có chức năng chuyển tải những thông tin về tri thức khoa học những kĩ năng, kĩ
xảo, kích thích hứng thú học tập cho HS, giáo dục thẩm mĩ và chỉ đạo HS học tập.
Người biên soạn SGK ngoài việc cung cấp thông tin thì phải “tính đến công việc học tập,
phương thức, hoàn cảnh tiếp cận thông tin của SGK”. Điều đó có nghĩa là người biên soạn SGK
phải quan tâm từ nội dung đến phương pháp học tập của HS.
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
3

Để HS có thể phân tích, đánh giá tìm ra cái hay, cái đẹp của các TPVC, SGK đã đưa vào
phần Tiểu dẫn mang tính chất, chức năng dẫn dắt, gợi mở để HS dựa vào đó mà tìm hiểu bài,
học bài; GV soạn bài dựa vào đó mà lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. Trong dạy học,
chúng ta ý thức rằng, ngoài chương trình được xem là chuẩn thì SGK là một căn cứ quan trọng
để xây dựng và tiến hành các hoạt động giáo dục nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
* Nhiệm vụ của phần Tiểu dẫn trong SGK Ngữ văn THPT
- Nhiệm vụ cung cấp các thông tin liên quan đến đọc hiểu văn bản cho HS
Phần Tiểu dẫn trong SGK Ngữ văn cung cấp cho HS tri thức về văn học sử như kiến thức
về đặc điểm thời đại, hoàn cảnh ra đời của văn bản văn học, cuộc đời và sự nghiệp văn chương

của nhà văn, phong cách nghệ thuật của tác giả; cung cấp tri thức lí luận văn học ở dạng trực
tiếp như thể loại. Đó chính là những phương tiện để khám phá văn bản theo quan điểm tiếp cận
đồng bộ, giúp HS hiểu sâu sắc kiến thức văn học và tự các em có thể thẩm định, đánh giá kiến
thức văn học ở một mức độ nào đó.
- Nhiệm vụ định hướng tiếp nhận văn bản
+ Kiến thức về bối cảnh xã hội và văn hoá cũng như những hiểu biết về tác giả với
nét tiểu sử, đặc trưng tư duy và phong cách nghệ thuật… là những thông tin vô cùng quan
trọng hỗ trợ quá trình tiếp cận và khám phá thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Giáo sư Phan
Trọng Luận cho rằng: “Tất cả những gì nhà văn sáng tác đều có cội nguồn trực tiếp ở những sự
kiện trong cuộc sống riêng tư của anh ta, ở tâm tư tình cảm của nhà văn đó”. Phần Tiểu dẫn
trong SGK khi giới thiệu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn đã đặc
biệt chú ý đến những sự kiện, những vấn đề liên quan đến văn bản sắp học.
Những thông tin về cuộc đời tác giả như năm sinh, quê quán, gia đình, việc học hành, tư
tưởng, tình cảm, những thăng trầm trong cuộc đời là điều kiện cần thiết để hiểu căn kẽ, thấu đáo
về văn bản sẽ học. Không biết về tác giả cũng như những nét phong cách nghệ thuật của nhà văn
thì khó lí giải được nội dung của VB một cách sâu sắc.
Khi giới thiệu về cuộc đời Hồ Xuân Hương ta phải chú ý đến thông tin trích dẫn “Cuộc
đời tình duyên của Hồ Xuân Hương có nhiều éo le, ngang trái”, vì đây là một thông tin quan
trọng giúp ta tiếp nhận văn bản Tự tình II của Hồ Xuân Hương, cảm nhận hết tâm trạng đau
buồn, phẫn uất trước duyên tình của nữ sĩ.
Dạy bài Tây Tiến của Quang Dũng, phần Tiểu dẫn trong SGK 12 viết: “Quang Dũng
trước hết là một nhà thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa…. Tây Tiến là bài thơ tiêu
biểu cho đời thơ, cho phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng”. Đây là thông tin quan trọng để
đọc hiểu văn bản Tây Tiến. Bởi vì, nó sẽ là những định hướng cần thiết để người học cảm được
hồn thơ yêu đời đến si mê và hào hoa đến khôn cùng khi miêu tả bức tranh thiên nhiên miền Tây
hùng vĩ, thơ mộng, người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
4


Mối quan hệ giữa tác phẩm với hoàn cảnh lịch sử xã hội, với văn hoá thời đại là vấn đề
cần xem xét trong tiến trình đọc hiểu văn bản. Cần nắm vững thời đại của tác giả để trên cơ sở
ấy lí giải hiện tượng sáng tác và đặc biệt là nhờ đó đánh giá đúng những đóng góp của họ vào
tiến trình văn học nước nhà. Hiểu được thời đại ra đời của văn bản văn học, thời đại nhà văn
sinh sống sẽ có cơ sở nhìn nhận, đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Đặc
điểm lịch sử văn hoá của thời đại soi sáng cho tư tưởng của VB, nên phải đặt văn bản được học
vào đúng thời điểm trong cuộc đời sáng tác của nhà văn, liên hệ các sự kiện xảy ra lúc ấy để
hiểu văn bản thấu đáo hơn.
+ Tri thức về thể loại văn học vốn được xem là tri thức công cụ để tiếp nhận TPVH,
đồng thời là tri thức mang tính chất định hướng phương pháp tiếp cận văn bản theo đặc trưng
thể loại. Giáo sư Trần Thanh Đạm nhận xét “Nhà văn sáng tác theo thể loại thì người giảng dạy
cũng dạy theo thể loại. Phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác quy
định phương pháp cảm thụ hình tượng đó của người đọc và từ đó cũng quy định phương thức
giảng dạy của chúng ta”. Từ việc trang bị cho HS những tri thức về thể loại, GV dạy cho HS
cách tiếp cận thể loại ở một số tác phẩm tiêu biểu cho thể loại đó, giúp HS biết cách đọc, cách
phân tích và tiếp cận một tác phẩm nào đó cùng thể loại mà mình đã được hướng dẫn tìm hiểu.
Chẳng hạn, muốn đọc hiểu Văn học dân gian, văn học trung đại hay văn học hiện đại, HS
cần nắm được một số khái niệm thể hiện rõ đặc trưng thể loại, ngôn ngữ. Dạy truyện cổ tích thì
phải hướng dẫn HS tìm hiểu đặc điểm của thể loại này về kết cấu tác phẩm, hệ thống nhân vật,
yếu tồ thần kì, thi pháp xây dựng nhân vật… để hiểu đúng chủ đề tác phẩm, hiểu tính cách nhân
vật, quan niệm đạo đức thẩm mĩ trong tác phẩm.
+ Khai thác phần Tiểu dẫn, giáo viên phải giúp học sinh có cái nhìn sơ lược về nội
dung nghệ thuật của văn bản. Điều này được xem là định hướng ban đầu để tiếp cận văn bản.
Thông tin khái quát về nội dung của tác phẩm giúp cho hoạt động đọc hiểu văn bản không đi
chệch quỹ đạo, giúp người tiếp nhận hiểu một cách đúng đắn về văn bản. Đặc biệt, đối với văn
bản chỉ là đoạn trích thì phần tóm tắt nội dung tác phẩm giúp cho HS nắm bắt một cách đầy đủ
về tác phẩm như cốt truyện, tình tiết, nhân vật trong tác phẩm. Phần tóm tắt nội dung của tác
phẩm là những câu chuyện có tác dụng khơi gợi hứng thú cho HS trước khi đi vào đọc hiểu văn
bản. Hơn thế nó còn có tác dụng khơi gợi giúp HS tìm đọc trọn vẹn tác phẩm, tạo cho HS sở
thích đọc sách. Điều này có ý nghĩa tốt cho việc học văn của học sinh.

1.3. Khai thác phần Tiểu dẫn cần vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ
1.3.1. Chương trình Ngữ văn với hai định hướng dạy học là tích hợp và tích
cực hóa người học
Hướng tích hợp chú ý đến vấn đề phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc từng phân môn để
đi đến kết quả chung là hình thành các kĩ năng và năng lực tích hợp các phân môn trong môn
Ngữ văn.
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
5

Hướng tích cực hóa hoạt động của người học buộc người học phải tư duy để đề ra cách
khai thác thông tin chứ không phải học thuộc kiến thức đã được khẳng định trong tài liệu.
Chương trình và SGK không chỉ chú ý cung cấp kiến thức mà còn phải chú ý hình thành kĩ năng
tự học, tự tìm hiểu và giải quyết vấn đề, khuyến khích sáng tạo và phân hóa trình độ HS, tích
cực hóa hoạt động người học. Theo đó, SGK coi trọng việc trang bị cho HS những công cụ và
phương pháp đọc hiểu văn bản.
1.3.2 Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ để khai thác phần Tiểu dẫn
* Chương trình Ngữ văn với hai định hướng dạy học là tích hợp và tích cực hóa
người học
Hướng tích hợp chú ý đến vấn đề phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc từng phân môn để
đi đến kết quả chung là hình thành các kĩ năng và năng lực tích hợp các phân môn trong môn
Ngữ văn.
Hướng tích cực hóa hoạt động của người học buộc người học phải tư duy để đề ra cách
khai thác thông tin chứ không phải học thuộc kiến thức đã được khẳng định trong tài liệu.
Chương trình và SGK không chỉ chú ý cung cấp kiến thức mà còn phải chú ý hình thành kĩ năng
tự học, tự tìm hiểu và giải quyết vấn đề, khuyến khích sáng tạo và phân hóa trình độ HS, tích
cực hóa hoạt động người học. Theo đó, SGK coi trọng việc trang bị cho HS những công cụ và
phương pháp đọc hiểu văn bản.
* Phần Tiểu dẫn đưa vào SGK làm cơ sở tiếp cận văn bản đã định hướng cho giờ
đọc hiểu văn bản, vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ vào việc giải mã văn bản. Đây là

nguyên tắc dạy học TPVC thể hiện quan điểm đúng đắn của tư tưởng lí luận dạy học hiện đại.
Tiếp cận đồng bộ là “sự vận dụng hài hoà các phương pháp lịch sử phát sinh, lịch sử
chức năng và cấu trúc văn bản khi tiếp cận TPVC” (GS Phan Trọng Luận)
- Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh định hướng phân tích tác phẩm từ các yếu tố
ngoài văn bản nhưng có liên quan trực tiếp đến sự ra đời của tác phẩm như hoàn cảnh xã hội,
tiểu sử tác giả, xu hướng thẩm mỹ của thời đại. Những yếu tố này giúp chúng ta có cơ sở giải
mã văn bản có chiều sâu hơn.
- Hướng tiếp cận lịch sử chức năng coi trọng tâm lý cảm thụ của HS khi tiếp nhận văn
bản. Nó khơi dậy hoạt động nhận thức bên trong của người học. Văn học phản ánh cuộc sống
bằng tư duy hình tượng và đến lượt nó được khẳng định bằng sự “đồng sáng tạo”của công chúng
và bạn đọc.
- Hướng tiếp cận theo cấu trúc bản thể văn bản được hiểu như sau: TPVH là một thực
thể gồm nhiều bộ phận, nhiều phần tử mà giữa chúng có mối quan hệ và tác động qua lại với
nhau. Có nghĩa TPVH là một chỉnh thể, một cấu trúc. Vì vậy khi khai thác văn bản phải đi vào
tìm hiểu các bộ phận của chỉnh thể văn bản nghệ thuật, mà cụ thể là khai thác nội dung và hình
thức đặt trong mối quan hệ chỉnh thể để hiểu sâu giá trị của tác phẩm.
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
6

Tóm lại: Tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn theo hướng tiếp cận đồng bộ là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại bởi vì nó vận dụng hài hoà, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố
bên ngoài văn bản (Lịch sử phát sinh); yếu tố nội tại (Cấu trúc bản thể văn bản) và tâm lý tiếp
nhận của người đọc (Lịch sử chức năng). Đó là những định hướng quan trọng để đi sâu giải mã
văn bản.
II. Thực trạng khai thác phần Tiểu dẫn trong dạy đọc hiểu văn bản
Với những cơ sở lí luận và định hướng sư phạm khi dạy phần tiểu dẫn, khai thác những
yếu tố ngoài văn bản trong phần Tiểu dẫn là những nội dung quan trọng, là cơ sở, là tiền đề để đi
vào nội dung văn bản. Thế nhưng, thực tế khai thác phần Tiểu dẫn vẫn còn nhiều bất ổn.
- GV thường chú trọng việc cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm nhưng chưa có sự

quan tâm đến việc hướng dẫn HS vận dụng nó để giải mã văn bản. GV đã không đặt nó trong
mối quan hệ với văn bản đọc hiểu.
- Thông tin về thể loại của văn bản cũng không được GV vận dụng thường xuyên để tiếp
cận văn bản. Không ít GV còn lúng túng do không nắm chắc đặc trưng thể loại nên tiếp cận và
phân tích không đúng hướng.
- Qua tìm hiểu tôi nhận thấy nhiều GV chưa thực sự quan tâm tới phần Tiểu dẫn trong
các đề kiểm tra thường xuyên và kiểm tra trong học kì nên khi tìm hiểu về Tiểu dẫn thì GV và
HS thường lướt qua phần này nên HS không nắm được những thông tin quan trọng. Vì vậy mà
việc tiếp nhận TPVC ở HS bị hạn chế.
- Hơn nữa, cách khai thác phần Tiểu dẫn của GV hiện nay còn đơn điệu, qua loa không
gợi được hứng thú học tập cho HS.
Từ những thực trạng trên tôi đã xây dựng và khai thác phần Tiểu dẫn trong giờ đọc hiểu
văn bản để giúp HS có cái nhìn sâu sắc hơn về băn bản sẽ học đồng thời tôi đưa ra những cách
thức tổ chức dạy học phần tiểu dẫn tạo nên những hứng thú và hiệu quả cao khi tiếp nhận
TPVC.
III. Cách thức khai thác phần Tiểu dẫn trong giờ Đọc hiểu văn bản
3.1. Những nội dung và định hướng khai thác phần Tiểu dẫn
+ Nội dung chủ yếu trong phần Tiểu dẫn là những thông tin xoay quanh tiểu sử, sự
nghiệp sáng tác văn học của tác giả và những thông tin khái quát về văn bản đọc hiểu. Tuy nhiên
mức độ thể hiện những nội dung ấy trong mỗi bài học không giống nhau, vì vậy cách khai thác
phần Tiểu dẫn phải dựa trên sự thể hiện của những thông tin này.
+ Hơn nữa định hướng dạy học Ngữ văn hiện nay là dạy học tích hợp và tích cực, vì vậy
GV cần có những định hướng phương pháp, phương tiện kĩ thuật thật linh hoạt để khai thác
phần Tiểu dẫn trong giờ đọc hiểu văn bản đạt hiệu quả cao nhất.
3.2. Cách khai thác phần Tiểu dẫn
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
7

3.2.1. Khai thác tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của tác giả

Việc giới thiệu tiểu sử được coi là phần dẫn luận, mở đầu cho quá trình phân tích tác
phẩm, cung cấp kiến thức cần thiết liên quan đến việc phân tích tác phẩm đồng thời định hướng
cho sự cảm thụ tác phẩm của học sinh.
* Khi khai thác phần tiểu sử nhà văn, GV phải chú ý đến việc vận dụng những thông tin
về tác giả trong tiếp nhận văn bản. Cần tìm hiểu những chi tiết về hoàn cảnh xuất thân, gia đình,
sở thích, cá tính của nhà văn. Khi khai thác phần cuộc đời thì chú ý đến những bước ngoặt trong
cuộc đời có ý nghĩa hình thành cá tính, bản lĩnh của nhà văn có ảnh hưởng đậm nét đến quá trình
hình thành văn bản. Thông tin về tiểu sử của tác giả khi đưa vào SGK đều có dụng ý soi sáng
cho văn bản. Việc giới thiệu tên tuổi, quê hương nhà văn đều có ý nghĩa nhất định mà GV cần
khai thác. Chẳng hạn trong tiểu dẫn về tác giả Tố Hữu, ta chú ý: Tại sao tác giả có bút danh
Nguyễn Trung Thành? Quê hương có ảnh hưởng gì đến sáng tác của nhà thơ?
* Tìm hiểu về tiểu sử tác giả, ta chú ý đến mối quan hệ giữa tác giả và thời đại mà nhà
văn sống và sáng tác, với môi trường văn học, với chặng đường sáng tác, ảnh hưởng của giáo
dục thời đại … là những kiến thức công cụ để tiếp cận văn bản. Các giai đoạn trong cuộc đời
nhà văn là những mốc thời điểm quan trọng có ảnh hưởng đến sự chuyển biến về tư tưởng trong
sáng tác của nhà văn. Vì vậy khi giới thiệu về tác giả cần chú ý đến đặc điểm này.
Ví dụ: Nói về Nguyễn Minh Châu, SGK viết “Hành trình sáng tác của ông chia làm hai
giai đọan rõ rệt: trước thập kỷ 80, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn; từ đầu
thập kỷ 80 đến khi mất, ông chuyển hẳn sang cảm hứng đời tư - thế sự với những vấn đề đạo
đức và triết l ý nhân sinh”. Khai thác nội dung này để thấy văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa”
nằm trong giai đoạn sáng tác nào và tư tưởng chi phối của giai đoạn sáng tác sau 1980: đó là cái
nhìn đa chiều về cuộc sống và con người trong thời kỳ hội nhập.
* Khi giới thiệu tác giả chúng ta chú ý đến việc khái quát là phong cách nghệ thuật của
nhà văn bởi dây là một nội dung quan trọng để vận dụng giải mã văn bản. Nếu biết được phong
cách của một tác giả thì người đọc sẽ dễ dàng có một hướng tiếp cận đúng đắn tác phẩm của tác
giả đó, giúp học sinh hình dung những nét khái quát về phong cách nghệ thuật của tác giả. Đó là
một nội dung gợi dẫn cần thiết để học sinh có hướng tiếp nhận tác phẩm chính xác hơn, nhất là
những nét phong cách được thể hiện trong văn bản đọc hiểu.
Ví dụ: Giới thiệu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân “uyên bác, tài hoa, không
quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm ra

những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động lòng người đọc nhiều nhất”. Thông
tin này sẽ giúp ta tiếp nhận tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân rất hiểu quả.
* Giới thiệu về các tác phẩm của tác ta phải gắn tác phẩm ấy với cuộc đời và sự nghiệp
sáng tác của tác giả. Khi khai thác nội dung trong phần Tiểu dẫn cũng cần chú ý đến những nhận
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
8

định về đặc điểm nổi bật trong sáng tác của tác giả. Đây chính là những nhận định ngắn gọn
nhưng có ý nghĩa liên quan nhiều nhất đến VBĐH.
Chẳn hạn, khi chúng ta tiếp cận đọan trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cần lưu ý
đến nhận định trong SGK: “Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư
sâu lắng của người trí thức về đất nước con người Việt Nam”. Từ thông tin có được ở nhận định
trên mà khi đọc - hiểu chúng ta sẽ có hướng tiếp nhận văn bản một cách đúng đắn để cảm nhận
được cái nhìn, cảm xúc của chủ thể trữ tình biểu hiện ở hình ảnh thơ, ở những chi tiết về đất
nước gắn liền với nhân dân được miêu tả, gợi ra trong đọan trích.
3.2.2. Khai thác những thông tin khái quát chung về văn bản đọc - hiểu
Trong phần giới thiệu về tác giả thì hoàn cảnh sáng tác là nội dung không thể bỏ qua
trong hoạt động đọc hiểu văn bản. Hoàn cảnh sáng tác cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của thời đại,
cuộc sống của tác giả đối với tác phẩm. Trong giờ đọc – hiểu văn bản, GV không chỉ làm công
việc giản đơn là cung cấp thông tin về hoàn cảnh sáng tác mà điều cần thiết là nêu bật vai trò
của hoàn cảnh sáng tác chi phối toàn bộ tác phẩm văn học.
* Thời đại tác phẩm ra đời, nhà văn sinh sống sẽ chi phối cái nhìn của nhà văn trong tác
phẩm, là tiền đề tạo nên chiều sâu trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Tìm hiểu hoàn cảnh
sáng tác nghĩa là l ý giải sự ảnh hưởng của âm hưởng thời đại đến cảm hứng sáng tạo của tác
phẩm như thế nào? Bởi lẽ, “Một trào lưu văn học xuất hiện bao giờ cũng trên cơ sở của một
hoàn cảnh xã hội, văn hóa cụ thể và phản ánh những đòi hỏi nhất định của con người thời đại
sản sinh ra nó”. Đối chiếu tác phẩm với thời đại đẻ ra nó để tìm “giá trị”, “tìm nghĩa”, “triết lý
thẩm mỹ” của tác phẩm. Tư tưởng thời đại mà tác giả sống với những biến cố lịch sử căn bản và
ảnh hưởng của chúng đối với đời sống văn hóa, tình hình phát triển của văn học mà từ đó tác

phẩm ra đời cũng như những chuẩn mực xã hội mà thời đại đặt ra có liên quan đến tâm lý sáng
tác, quan điểm sáng tác, phong cách sáng tác của tác giả. Tất cả các yếu tố trên đều tác động trực
tiếp đến tác phẩm.
Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm là hoàn cảnh nhỏ, hoàn cảnh cảm hứng chi phối trực
tiếp sự xuất hiện của tác phẩm. Liên quan đến phần giới thiệu tác phẩm phải kể đến xuất xứ, vị
trí của văn bản đọc hiểu. Nếu văn bản đọc hiểu là một đoạn trích thì Tiểu dẫn sẽ giới thiệu về vị
trí đoạn trích trong tác phẩm. Với thông tin về vị trí đọan trích người đọc sẽ theo dõi được mạch
cảm xúc trong tác phẩm nếu nó là thơ, nắm được diễn biến của cốt truyện nếu nó là truyện. Bài
học trong SGK thường chỉ lấy một đoạn trích làm nội dung học tập. Để hiểu đoạn trích, việc đọc
toàn bộ tác phẩm là cần thiết nhưng khó thực hiện trong phạm vi nhà trường. Vì vậy, tìm hiểu
xuất xứ, vị trí đoạn trích là một cách để biết chung về tác phẩm. Từ đó có cơ sở để cảm nhận nội
dung và ý nghĩa đoạn trích. Biết về xuất xứ của văn bản, HS đồng thời cũng biết được đôi nét về
nội dung, nghệ thuật của văn bản. Bởi vì, TPVH là một hệ thống chỉnh thể được cấu tạo bằng
ngôn ngữ nghệ thuật, được cấu kết chặt chẽ trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, giữa
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
9

bộ phận và chỉnh thể… nên có tính tổ chức cao và có một sự ràng buộc lẫn nhau giữa các bộ
phận. Giáo viên cần cho học sinh thấy được nội dung của toàn bộ tác phẩm và mối liên hệ của
đoạn trích. Đặt đọan trích trong chỉnh thể tác phẩm người đọc mới hiểu đúng vẻ đẹp của nó.
Ví dụ: Dạy đọc – hiểu đọan trích “Hạnh phúc của một tang gia” cần phải đặt trong mối
quan hệ với nội dung tác phẩm “Số đỏ”, từ đó mới dễ dàng tiếp cận, đi sâu phân tích, lý giải,
bình giá được nội dung nghệ thuật của đọan trích. Giáo viên phải cho HS hiểu được nội dung
của “Số đỏ” là sự “đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố nhăn
đồi bại đương thời”. Dùng tiếng cười làm vũ khí, tác phẩm vạch trần thực chất thối nát của các
phong trào “văn minh”, “Âu hóa”, “thể thao” ….vào những năm 30 của thế kỶ XX. Đặt đoạn
trích trong tác phẩm ta mới thấy được một phần của bức tranh hiện thực nhố nhăn, lố bịch qua
bút pháp châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng.
Có thể nói, TPVH cũng chính là sản phẩm của thời đại, mang dấu ấn thời đại, nghiên cứu

một tác phẩm văn học, chúng ta phải tìm đến bối cảnh và nhà văn. Việc dạy học tác phẩm phải
đặt tác phẩm trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội ….mà nó ra đời. Điều này
có một ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ ra phương hướng đúng đắn trong việc cắt nghĩa và
đánh giá những hiện tượng văn học và là cơ sở cần thiết để phân tích các giá trị TPVH.
* Một yêu cầu đặt ra trong hoạt động đọc hiểu trong dạy học Ngữ văn theo tinh thần đổi
mới là phải gắn với đặc trưng thể loại. Dạy tác phẩm văn chương theo thể lọai là dựa vào đặc
trưng riêng của từng thể lọai để định hướng tiếp ….phân tích l ý giải bình giá giá trị TPVH trong
nhà trường. Kiến thức về đặc trưng thể loại rất quan trọng để HS hiểu về tác phẩm. Xuất phát từ
mục tiêu và nguyên tắc tích hợp, chương trình SGK hiện nay được biên soạn theo hướng dạy
học tác phẩm là chủ yếu nhưng tập trung lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu cho những thể loại
quen thuộc làm văn bản mẫu cho hoạt động đọc hiểu văn bản. Trên cơ sở đó hướng dẫn cách
thức phân tích TPVH, hướng dẫn cách chiếm lĩnh các tri thức lí luận và lịch sử văn học gắn với
thể loại văn học. Đọc hiểu TPVH nhằm mục đích giúp HS khám phá những cái đẹp cái hay
trong tác phẩm cụ thể và từ đó trang bị cho các em những tri thức đọc- hiểu những tác phẩm
cùng thể lọai. Để hiểu được điều này, SGK đã cung cấp cho HS những kiến thức sơ lược về thể
loại của văn bản đọc hiểu trong phần Tiểu dẫn mà khi tiếp cận văn bản GV và HS phải biết vận
dụng nó để việc đọc hiểu diễn ra một cách thuận lợi.
Ví dụ: Để hướng dẫn cho HS đọc hiểu văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn
Đình Chiểu, GV cần khai thác nội dung về thể loại văn tế mà SGK đã đề cập như: hoàn cảnh sử
dụng, các thể thường dùng trong văn tế (văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú….), bố cục
thường có của văn tế (lung khởi, thích thực, ai vãn, kết). Việc HS cảm nhận và yêu quý một
TPVH ra đời từ rất lâu không phải là chuyện dễ dàng, cho nên việc hướng dẫn các em tiếp nhận
tác phẩm là một việc làm cần thiết và việc này được bắt đầu từ việc trang bị cho các em kiến
thức về thể loại văn tế.
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
10

VI. Cách tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn trong giờ đọc hiểu văn bản có
hiệu quả cao

4.1. Tổ chức cho HS làm việc với SGK để khai thác nội dung phần Tiểu dẫn
* Hướng dẫn học sinh đọc SGK ở nhà và xác định những nội dung cơ bản cần triển khai
trong phần Tiểu dẫn. Sau đó lập dàn ý bài soạn với các thông tin trong SGK. Nếu GV biết cách
định hướng học tập, tạo cho HS những định hướng trong quá trình tự nghiên cứu SGK, tập cho
HS biết gia công, tìm tòi sáng tạo các em sẽ lĩnh hội được nguồn tri thức mới HS có thể chủ
động phát biểu, tranh luận, có thể bổ sung, đồng tình hoặc phản bác để tìm ra phương thức giải
quyết tối ưu. Sự lĩnh hội tri thức theo cách này giúp HS làm chủ quá trình tự học, thoả mãn
những nhu cầu khám phá, tìm hiểu, tin ở năng lực và có khả năng phát triển năng lực tư duy.
* Kiến thức được đề cập trong phần Tiểu dẫn là những kiến thức tương đối vừa sức dễ
hiểu nên HS có thể tự làm việc với SGK để nắm kiến thức. Điều quan trọng là giáo viên phải
định hướng cho HS nên khai thác nội dung gì trong phần Tiểu dẫn, khai thác nhằm mục đích gì
kiến thức này liên quan gì tới bài đọc hiểu.
- Về tác giả:
+ HS phải nắm được những đặc điểm về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, về phong
cách nghệ thuật, những đánh giá vế tác giả đó.
- Về tác phẩm:
+ HS phải nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
+ HS nắm được thể loại của tác phẩm
+ HS nắm được những nhận định về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
HS đều có thể nhận ra tất cả những nội dung cần thiết cho việc giải mã nói trên khi đọc
sách giáo khoa. Tuy nhiên vấn đề không phải là việc phát hiện được những kiến thức trên mà
quan trọng là học sinh phải hiểu được kiến thức đó giúp gì cho việc đọc hiểu văn bản. Ý thức
được điều này, HS sẽ lựa chọn ý cơ bản nhất để vận dụng cho việc làm sáng tỏ văn bản. Như
vậy, HS phải đọc sách một cách nghiêm túc, rèn cho mình năng lực lựa chọn chi tiết, mổ xẻ
phân tích thông tin đặt kiến thức của phần Tiểu dẫn trong quan hệ với văn bản đọc hiểu, tóm tắt
được nội dung cơ bản và tiến tới sơ đồ hóa kiến thức.
* Trong quá trình học làm việc với SGK, GV nên khuyến khích để HS đưa ra những thắc
mắc xoay quanh nội dung mà SGK đề cập. Làm việc với SGK tức là sự lĩnh hội kiến thức ở các
em đã đạt mức độ cao. Những thắc mắc của HS được GV giải đáp sẽ tiếp tục nâng cao trình độ
hiểu biết của các em. Theo đó những kiến thức được HS thu nhận từ phần Tiểu dẫn được HS ghi

nhớ một cách sâu sắc và lâu dài hơn.
Đối với những bài học mà phần Tiểu dẫn còn sơ lược, chưa thể rõ được nội dung cơ bản
cần thiết cho việc đọc hiểu văn bản thì nhiệm vụ của học sinh là phải tìm kiếm tài liệu liên quan
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
11

từ những nguồn khác nhau. Với những trường hợp này, vai trò của GV trở nên cần thiết. Bởi vì
sự gợi dẫn của thầy sẽ tạo hứng thú cho HS đi sâu tìm hiểu những vấn đề về tác giả, về tác phẩm
và tạo cho HS sự hứng thú trong học tập.
Ví dụ: Văn bản “Tựa trích diễm thi tập” của tác giả Hoàng Đức Lương. Thể loại Tựa
tương đối xa lạ với GV và HS, vì vậy phần Tiểu dẫn được xem là định hướng quan trọng để đọc
hiểu văn bản. Những thông tin khái quát về tác giả, tác phẩm, thể loại là những điều chi phối cái
nhìn của tác giả trong tác phẩm, là tiền đề tạo nên chiều sâu nghệ thuật của tác phẩm. Tuy nhiên
trong phần Tiểu dẫn các thông tin cần thiết đã được giới thiệu rất sơ lược: “Hoàng Đức Lương
chưa rõ năm sinh năm mất”, “tuyển tập này bao gồm thơ của các nhà thơ từ thời Trần đến thời
Lê thế kỷ XV cuối tập thơ là thơ của Hoàng Đức Lương”. Với những thông tin mang tính gợi
mở như trên thì việc GV gợi dẫn để học sinh đi sâu tìm hiểu sẽ trở nên hứng thú cho HS trong
quá trình tự học tự nghiên cứu.
4.2. Tổ chức cho học sinh đối thoại để khai thác nội dung trong Tiểu dẫn
Phương pháp đàm thọai, phát vấn được thực hiện bằng cách GV đặt câu hỏi để HS tham
gia trả lời, hoặc HS với HS thảo luận với nhau, HS tranh luận với GV, qua đó HS lĩnh hội được
nội dung bài học. Giờ học sử dụng phương pháp này sẽ góp phần thay đổi cách dạy học “thôi
miên” học trò mà làm cho không khí giờ học sinh động hẳn lên với họat động giải đáp, tranh
luận giữa thầy và trò.
Trên cơ sở những nội dung cơ bản được đề cập trong phần Tiểu dẫn, việc xây dựng câu
hỏi nhằm đạt mục tiêu: Học sinh tiếp cận được kiến thức gì qua phần Tiểu dẫn?, GV sẽ xây
dựng một hệ thống câu hỏi để học sinh lần lượt nắm bắt vấn đề.
* Xây dựng loại câu hỏi tái hiện. Dành cho HS có học lực trung bình, thậm chí yếu kém.
GV khuyến khích động viên để HS trả lời. Loại câu hỏi này chiếm số lượng lớn trong hoạt động

hướng dẫn HS tìm hiểu phần Tiểu dẫn. Hệ thống câu hỏi đặt ra theo một trình tự hợp lý để khai
thác nội dung trong tiểu dẫn. Tuy là phương pháp truyền thống nhưng sử dụng phương pháp này
để dạy phần Tiểu dẫn lại phát huy hiệu quả cao vì huy động được số đông HS của lớp tham gia
học tập.
GV nêu một câu hỏi chính (có thể kèm theo những câu hỏi gợi mở nếu cần)
Ví dụ: Văn bản “ Cảnh ngày hè”- Nguyễn Trãi.
- Dựa vào SGK anh (chị) hãy nêu một số nét chính về Tiểu sử tác giả? (Chú ý kể về lí do
tác giả về ở ẩn)
- Cho biết những đặc điểm của thể Đường luật thất ngôn bát cú. Biểu hiện cụ thể trong
tác phẩm.
* Xây dựng lọai câu hỏi phát hiện. Quá trình nhận thức được thực hiện từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, tri thức này là điều kiện cho tri thức kia, kết quả này là tiền đề cho kết
quả kia. Câu hỏi hướng dẫn HS tìm hiểu khám phá hoạt động phải tương ứng với các cấp độ
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
12

nhận thức từ thấp đến cao. Đối với phần Tiểu dẫn, yêu cầu đặt ra là HS vừa có khả năng tái hiện
kiến thức, đồng thời phải biết phân tích, tổng hợp, đánh giá để rút ra những nhận thức mới về
vấn đề. Đây là cách để HS nắm kiến thức một cách vững chắc nhất.
* Xây dựng câu hỏi nêu vấn đề
Hứng thú học tập của HS sẽ được kích thích khi buộc chúng phải suy nghĩ bằng các câu
hỏi gợi tư duy. Loại câu hỏi nêu vấn đề có ý nghĩa tích cực trong việc tìm hiểu phần Tiểu dẫn.
Nó bắt buộc học sinh phải có sự suy nghĩ, dựa trên mối quan hệ giữa điều đã biết và chưa biết để
tìm câu trả lời. Nó không chỉ giúp HS tái hiện kíến thức mà còn hướng dẫn HS tự mình vận
dụng kiến thức một cách linh họat sáng tạo trong một tình huống mới. Đặt ra những tình huống
mới và giúp HS giải quyết là cách để HS nắm lấy kiến thức một cách vững chắc nhất. Loại câu
hỏi này phù hợp với đổi mới phương pháp dạy học hiện đại.
Ví dụ 1: Câu hỏi nêu vấn đề cho hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Anh (chị) biết gì về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “ Vợ nhặt” của Kim Lân? Hoàn cảnh ấy

giúp anh (chị) hiểu sâu hơn bài thơ như thế nào? Câu hỏi đặt ra cho HS vấn đề: lí giải mối quan
hệ giữa hoàn cảnh sáng tác và nội dung tác phẩm .
Ví dụ 2: Câu hỏi nêu vấn đề xuất xứ cho tác phẩm
Anh (chị) cho biết đọan trích “Đất nước” (Trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn
Khoa Điềm) nằm ở phần nào trong tác phẩm? Tại sao lại chọn đọan trích này để học?
Ví dụ 3: Câu hỏi nêu vấn đề cho nhan đề của tác phẩm.
Tác phẩm “Chí Phèo” vốn trước đó có nhan đề là “Đôi lứa xứng đôi”, “Cái lò gạch cũ”.
Tại sao tác giả lại đổi tên?
Nhằm mục đích giúp HS có được câu trả lời thỏa đáng khi chưa trải qua quá trình đọc
hiểu văn bản. GV phải có sự định hướng cho HS như yêu cầu các em phải đọc trước văn bản,
nắm các chi tiết nghệ thuật và nêu được nội dung cơ bản của tác phẩm. Trên cơ sở đó, mỗi em
đưa ra ý kiến, lí giải và tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của mình.
4.3. Tổ chức cho học sinh khai thác nội dung phần Tiểu dẫn bằng những hình ảnh
trực quan và hình thức sơ đồ hóa
* Sử dụng phương pháp trực quan
Sử dụng phương pháp trực quan trong giờ học, đòi hỏi HS phải huy động các giác quan
thông qua các họat động như: nghe, nhìn, thực hành (trên các đồ dùng học tập), điều đó giúp học
sinh không chỉ phát hiện năng lực thực hành mà còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy
trừu tượng và trí tưởng tượng.
Trong dạy học văn, nội dung của phương pháp trực quan là đưa ra những tư liệu tài liệu
tham khảo có liên quan đến tác giả như: báo, tranh ảnh, bài bình luận. Những nhận định nổi
tiếng của các nhà nghiên cứu có tính thuyết phục cao… nhằm mục đích hỗ trợ, giúp HS tiếp
nhận những kiến thức về tác giả, tác phẩm văn học. Nó là kiến thức nền để từ đó lí giải nội dung
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
13

văn bản. Cuộc đời, tư tưởng, tình cảm, tác phong của tác giả góp phần soi sáng cho chúng ta khi
tìm hiểu, lí giải những sự kiện phức tạp ghi trong văn bản. Khi trình bày kiến thức về tác giả, tác
phẩm được đề cập trong phần Tiểu dẫn nếu GV biết sử dụng phương pháp này trong giảng dạy

thì bài học sẽ trở nên phong phú, sinh động lôi cuốn hơn nhiều, bởi vì ta đã vẽ ra bức tranh xã
hội, dựng lại cuộc đời tác giả, tạo không khí đi vào văn bản.
Khi tìm hiểu cuộc đời tác giả, GV có thể cho HS xem các bức chân dung của tác giả
tương ứng với những giai đoạn lớn trong cuộc đời hay thời điểm ra đời văn bản đọc hiểu hoặc
giới thiệu với HS về tranh chân dung của tác giả trong SKG. GV yêu cầu HS phát biểu cảm nghĩ
của mình qua bức tranh hay gợi dẫn và phân tích điểm đặc biệt nào đó về tác giả mà SGK muốn
nói đến thông qua bức tranh. Trên cơ sở đó, giáo viên sẽ cô đọng lại nét nổi bật nhất trong đặc
điểm con người, cuộc đời nhà văn, sau đó GV và HS bắt đầu đi vào tìm hiểu nội dung trong
phần Tiểu dẫn thì giờ dạy sẽ sinh động hơn. Thực tế giảng dạy, GV rất ít khi chú ý đến những
bức tranh chân dung về tác giả được giới thiệu trong SGK.
Ví dụ: Trong SGK ngữ văn các tác giả biên soạn đưa vào phần Tiểu dẫn một số bức tranh
chân dung về các tác giả. Các bức chân dung của tác giả thuộc thời kỳ trung đại có điểm khác
biệt với các bức chân dung của tác giả thuộc thời kỳ văn học hiện đại. GV nên hướng dẫn để các
em nhận ra nét đặc biệt ở những bức tranh để qua đó có một cái nhìn ban đầu về nhà văn. Tranh
chân dung của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ, Tản
Đà mang cốt cách của những nhà nho với áo dài khăn đóng khác với tranh chân dung của những
trí thức Tây học như Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… ; hay tranh vẽ Hồ
Xuân Hương thể hiện nét tinh nghịch dí dỏm của nữ sĩ, tranh chân dung của Nguyễn Tuân cho
thấy một con người rất mực uyên bác.
Giáo viên có thể yêu cầu HS tìm những hình ảnh liên quan đến quá trình sống, làm việc
của tác giả từ trên Internet. Qua những hình ảnh này, học sinh sẽ có được những cảm nhận ban
đầu về tác giả để hiểu hơn nhận thức sâu sắc hơn về cuộc đời họ trước khi tiếp cận văn bản.
* Hình thức sơ đồ hoá
Để phần giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả không rơi vào tình trạng
“độc diễn” của thầy; không khô khan, nhàm chán thì giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp với
hình thức sơ đồ hóa. Sơ đồ hóa là một hình thức chuyển hóa thông tin thành dạng sơ đồ, biểu đồ,
hình vẽ, biểu tượng. Với hình thức dạy học này, GV sẽ đưa ra một số câu hỏi để hướng dẫn
thông tin từ phần Tiểu dẫn và đưa vào sơ đồ. Áp dụng hình thức sơ đồ hóa vào phần Tiểu dẫn để
khai thác nội dung về tác giả không những giúp học sinh nắm vững kiến thức một cách hệ thống
mà còn rèn kỹ năng tư duy tổng hợp, khái quát vấn đề.

Hình thức dạy học này đòi hỏi GV phải có một sự chuẩn bị về đồ dùng dạy học hoặc
dùng powerpoint trình chiếu các sơ đồ đó. Trên sơ đồ là những thông tin khái quát về tác giả và
nhiệm vụ của HS là điền thông tin chi tiết vào những chỗ còn trống trên sơ đồ. Để tạo cho giờ
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
14

học không khí sôi nổi, GV có thể chia lớp học thành nhiều nhóm, các nhóm lần lượt nêu đáp án
của mình. Sử dụng hình thức sơ đồ hóa sẽ đem lại hiệu quả cao khi GV có sự linh họat, sáng tạo,
phối hợp với phương pháp thuyết trình, phân tích ….thì bài học sẽ nhẹ nhàn và uyển chuyển
hơn. Có thể làm sơ đồ về cuộc đời của nhà văn; Sơ đồ về sự nghiệp sáng tác của nhà văn; Sơ đồ
kết hợp cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn…
Ví dụ: Dạy đọc hiểu văn bản Vội vàng, ta sử dụng sơ đồ (1) để khai thác phần Tiểu dẫn
Sơ đồ 1: Cuộc đời nhà thơ Xuân Diệu
STT Nội dung Thông tin Ảnh hưởng
1 Thân thế
- Cha là đồ nho
- Mẹ quê Gò Bồi
- Đức tính cần cù, chịu học của
cha- cổ điển
- Vùng đất của thi nhân, khao khát
giao cảm
2 Cuộc đời
- Học trường Tây
- Trong nhóm Tự lực văn đoàn
- Gắn bó với cách mạng
Tự do, phóng khoáng, hồn thơ
mạnh mẽ ; Có nhiều quan niệm
sống mới mẻ
3 Tác phẩm

Thơ: Gửi hương cho gió, Thơ
thơ, Riêng chung, Mũi Cà
Mau
Văn xuôi: Phấn thông vàng
Hướng vào đời sống mang tính thời
sự. Thể hiện quan niệm sống mới
mẻ, những cảm xúc, biến thái tinh
vi, phức tạp của tâm hồn.
4 Phong cách
Tha thiết, rạo rực, băn khoăn …
5 Đánh giá
Ông hoàng thơ tình, nhà thơ
mới nhất trong các nhà thơ mới

(Phần thông tin và ảnh hưởng trong sơ đồ GV có thể để trống cho HS điền vào)
Tuỳ thuộc nội dung được đề cập trong phần Tiểu dẫn và những nội dung cần vận dụng để
giải mã văn bản đọc hiểu, GV sẽ đưa ra những sơ đồ để khai thác nội dung về tác giả sao cho
phù hợp. Giáo viên có thể giới thiệu những sơ đồ trên cho HS biết trước và kiểm tra phần chuẩn
bị của các em, nhận xét và bổ sung cho hoàn chỉnh hoặc giáo viên trình chiếu sơ đồ, HS điền
thông tin. Thời gian dành cho phần Tiểu dẫn không nhiều nên việc sử dụng sơ đồ hoá như thế
này đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn cho HS một cách cặn kẽ ở những bài học đầu tiên để các
em làm quen và tiến tới vận dụng một cách thành thạo, nhanh chóng.
Sử dụng phương pháp trực quan hay sơ đồ hoá kiến thức có thể dùng bảng phụ hoặc sử
dụng PowerPoint trình chiếu thì sẽ tạo được hứng thú, không làm chậm tiến độ giờ dạy và có
hiệu quả rất lớn trong tiếp nhận văn bản.
4.4. Tổ chức cho học sinh khai thác sâu sắc hơn nội dung phần Tiểu dẫn bằng
hình thức kể chuyện để tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
15


Như chúng ta đã biết, trong phần Tiểu dẫn bao giờ cũng cung cấp tri thức cơ bản về tác
giả và tác phẩm. Để gây hứng thú cho HS khi lĩnh hội kiến thức này, GV có thể sử dụng hình
thức kể chuyện có nghệ thuật. Qua hình thức kể chuyện có nghệ thuật, những sự kiện trong cuộc
đời của tác giả sẽ được tái hiện lại một cách sinh động, góp phần làm cho việc truyền đạt kiến
thức về tác giả không rơi vào tình trạng trình bày sự kiện một cách khô khan.
* Phần Tiểu dẫn rất hàm súc. Người soạn sách đã chọn lọc các sự kiện về cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của tác giả để đưa vào, vì vậy kể chuyện về cuộc đời nhà văn, sự nghiệp sáng
tác của nhà văn không có nghĩa là kể lại toàn bộ mà kể lại một quãng đời, một tình huống trong
đời sống… làm nổi bật tính cách, tình cảm, sáng tạo của nhà văn. Câu chuyện kể phải liên quan
tới quá trình nhận thức văn bản. Cách kể chuyện hấp dẫn sẽ có tác động rất lớn trong hoạt động
tâm lý nhận thức của HS, mở ra khả năng tiếp nhận văn bản hiệu quả. GV chọn các mẫu chuyện
trong các tài liệu như: Chuyện làng văn; Giai thoại văn học … liên quan về tác giả, tác phẩm lý
thú, phù hợp nội dung yêu cầu bài dạy kể cho HS, vừa tạo ấn tượng để nhớ kỹ bài học, vừa có
kiến thức văn học và cuộc sống, tạo những đam mê tìm tòi, nghiên cứu, đọc sách báo ở các em.
Chẳng hạn, khi dạy về tác gia Nguyễn Du, GV cần kể một số câu chuyện phong lưu tài tử
khi ông ở cùng anh là Nguyễn Khản trong phủ Chúa Trịnh; về chuyện tình của chàng trai tài tử
đa tình học cần sĩ Nguyễn Du với cô gái Đỗ Thị Nhật. Chuyện kể rằng, lúc Nguyễn Du 17 tuổi,
ông thường sang đò qua Gia Lâm để học, ông thường đi đò của cô gái tên Nhật- một cô gái trẻ,
đẹp, duyên dáng lại biết đôi chút chữ nghĩa, ông đâm mê cô lái đò bèn làm mấy câu thơ gửi cho
cô Nhật: Ai ơi chèo chống tôi sang
Để trởi trưa trật lỡ làng tôi ra
Còn nhiều qua lại lại qua
Giúp cho nhau nữa kẻo mà…
Hai chữ cuối Nguyễn Du bỏ lững. Khi nhận thư, cô gái tủm tỉm cười và điền thêm vào
hai chữ- theo em đó là chữ gì? HS vừa tư duy cách thả thơ độc đáo mà Nguyễn Du “ưỡm ờ” đặt
ra (chữ của cô Nhật là “quen nhau”). Sau đó Nguyễn Du theo lệnh mẹ kế họ Đoàn về lấy vợ ở
Thài Bình. Mười năm sau trở lại bến đò xưa, cô gái họ Đỗ đã lấy chồng, ông bèn ngậm ngùi:
Yêu nhau những muốn gần nhau
Biển sâu muôn trượng, tình sâu muôn đời

Vì đâu xa cách đôi nơi
Bến nay còn đó, đâu người năm xưa
(Câu chuyên kể ghi lại trong bài “Nỗi hận tình của tôi”)
* Một thực tế là hiện nay, HS rất ít khi đọc sách, ngay cả đọc những tác phẩm trong nhà
trường. Thông thường các em chỉ nắm cốt truyện một cách sơ lược. Sử dụng hình thức kể
chuyện có nghệ thuật khi tóm tắt tác phẩm để HS có những hiểu biết cơ bản về tác phẩm, gợi
những đam mê, khao khát tìm đọc tác phẩm. Với những tác phẩm lớn, nhiều nhân vật, nhiều sự
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
16

kiện thì việc vẽ sơ đồ kết hợp với lời kể có tác dụng giúp HS dễ theo dõi cốt truyện. Lời kể phải
dựa trên những sự kiện và tình huống chính trong tác phẩm để hình thành cho người nghe một
dự cảm tiếp nhận thẩm mỹ và bước đầu nhập thân vào tác phẩm, để từ đó xác định được trọng
tâm của vấn đề cần nhận thức.
4.5. Sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ để tạo hứng thú khi dạy Tiểu dẫn
Khi dạy phần tiểu, để đạt hiệu quả cao, GV cần có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin để
tránh việc dùng bảng phụ cồng kềnh. Dùng powerpoint để đưa các hình ảnh về chân dung tác
giả, về quê hương, về hoàn cảnh xã hội; đưa lên màn hình những sơ đồ; hoặc các đoạn phim liên
quan về tác giả, về hoàn cảnh xã hội, hoặc những tri thức khác cần thiết để minh chứng cho
những nội dung cần khai thác. Việc vận dụng công nghệ thông tin sẽ tạo nên tính trực quan, tiết
kiệm được thời gian, hơn nữa nó còn có tác dụng tạo hấp dẫn, hứng thú, sinh động, tránh nhàm
chán, học sinh ghi nhớ tốt kiến thức đã được khai thác.
V. Giáo án minh hoạ (Có đĩa kèm theo)
Khai thác phần tiểu dẫn văn bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh
5.1. Định hướng chung: Bài này gồm 2 tiết
Tiết 5: Phần Tiểu sử tác giả và sự nghiệp văn chương
Tiết 6: Phần tác phẩm
5.2. Cụ thể
Tiết 5, chỉ khai thác minh hoạ phần tiểu sử

- GV kết hợp phát vấn, đàm thoại để khai thác nội dung tiểu sử
- GV kết hợp đưa các hình ảnh trực quan phù hợp với từng nội dung trên.
- GV kết hợp đọc những câu thơ viết về các chặng đường hoạt động của Bác phù hợp với từng
nội dung trên hoặc cho HS làm bài tập ngắn: nối các thời điểm trong cuộc đời của Bác với các
câu thơ tương ứng. (Đưa vào một file nhạc để kết thúc phần giới thiệu về tiểu sử của Bác)
Tiết 6, chỉ khai thác phần khái quát chung về văn bản
- Khi giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác, GV đưa hình ảnh nhà 48 phố Hàng Ngang- nơi Bác viết
Tuyên ngôn độc lập (Kể chuyện về chủ nhân của ngôi nhà là vợ chồng ông bà Trịnh Văn Bô và
Hoàng Thị Minh Hồ ủng hộ 5.000 lượng vàng cho đất nước lúc tình thế khó khăn)
- GV đưa hình ảnh về cảnh kẻ thù muốn xâm lược đất nước lúc ấy (kết hợp lối kể nghệ thuật về
lịch sử ra đời văn bản)
- Đưa đoạn phim Bác Hồ đọc tuyên ngôn, kết hợp gợi cảm xúc bắng cách đọc thơ:
Người đứng trên đài lặng phút giây
Trông đàn con đó vẫy hai tay
Cao cao vầng tráng ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây
- Đưa sơ đồ lập luận minh chứng cho cách viết văn chính luận mẫu mực của Bác Hồ.
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Sáng kiến kinh nghiệm 2010 - 2011
Ths. Lê Huy Hoàng
17

C. KẾT LUẬN
1. Khái quát các kết luận cho đề tài
Phần Tiểu dẫn có một vai trò rất lớn đối với hoạt động đọc hiểu văn bản. Tiếp nhận được
tri thức từ phần Tiểu dẫn là HS có được những tri thức nền tảng để đi vào quá trình tiếp nhận và
giải mã văn bản có hiệu quả cao.
Thực tế thì nhận thức của GV và HS về vai trò của phần Tiểu dẫn chưa cao; sự đơn điệu,
nhàm chán trong cách khai thác phần Tiểu dẫn khiến HS không hứng thú với bộ môn.
Đề xuất cách khai thác và tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn dựa trên quan điểm tiếp cận
đồng bộ trong quá trình tiếp nhận TPVH, vừa kết hợp được nguyên tắc dạy học tích cực, vừa

vận dụng được phương pháp dạy học hiện đại nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của HS.
Các kết quả thể nghiệm đã chứng minh và khẳng định các cách thức đề tài đưa ra là hợp
lý, có hiệu quả, có tính khả thi. Khi dạy phần Tiểu dẫn, GV cần lưu ý phân bố thời gian hợp lý,
phải biết kết hợp các cách dạy học để học sinh lĩnh hội trọn vẹn nội dung của phần Tiểu dẫn.
2. Lợi ích và khả năng vận dụng của đề tài
Việc xác định và tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn có một lợi ích thiết thực bởi vì khi dạy
phần đọc hiểu văn bản, bắt buộc GV phải giới thiệu những thông tin trong phần Tiểu dẫn nhằm
định hướng cho HS tiếp nhận văn bản, tạo khả năng nhập cảm cao, gây được tâm lý hứng thú
khi tiếp nhận những nội dung tiếp theo của văn bản.
Có thể nói đây là những cách tổ chức dạy học có hiệu quả cao và dễ áp dụng. Thế nhưng
hiệu quả của việc sử dụng các cách khai thác phần Tiểu dẫn còn phụ thuộc vào trình độ, sự
nhanh nhạy, năng động sáng tạo của người GV, cũng như sự đầu tư nghiên cứu, xác định những
vấn đề cần khai thác trong văn bản đọc hiểu. Đây là những cách thức tổ chức dạy học cơ bản mà
dựa vào đó GV có thể lựa chọn cách dạy phần Tiểu dẫn phù hợp để giờ đọc hiểu văn bản có hiệu
quả cao.
Bản thân nhận thấy, đề tài này sẽ là một tư liệu tốt phục vụ cho việc giảng dạy của GV
đứng lớp, là cơ sở quan trọng để người dự giờ đánh giá tiết dạy của GV.
Có thể có những cách khác để dạy phần Tiểu dẫn độc đáo, hợp lý hơn vì đây chỉ là những
kinh nghiệm được rút ra từ quá trình dạy học của cá nhân tôi. Rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến chân thành của quý thầy cô để đề tài được phát triển và thực hiện trên diện rộng, nâng cao
hơn nữa giá trị thực tiễn./.

×