MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………….....…………………
I. Lí do chọn đề tài…………………………..……......……………….
II. Mục đích chọn đề tài……………………………….....…….………
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu……………………...…….………
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………….………..
I. Cơ sở lí luận của vấn đề…………………………….....…..…………
II. Thực trạng của vấn đề………………………………...…..………...
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện………………………....………….
IV. Kiểm nghiệm………………………………………….....…………
C. KẾT LUẬN ……………….……………………………………….
Trang
2
2
3
3
4
4
5
6
12
13
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
1.1. Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long” đã từng nói: “Tri âm thực khó
thay. Âm đã khó tri mà người tri cũng khó gặp, họ hồn gặp được nghìn năm có
một”. Điều ấy có nghĩa là: Người sáng tác nào, dù tâm hồn có bay bổng đến đâu
nhưng khi sáng tác cũng muốn tìm đến những bạn đọc tri âm, tri kỉ, những
người muốn cùng tác giả đi đến cùng những miền sâu kín nhất của cuộc đời, của
trái tim. Bởi vì: Văn chương bao giờ cũng là sản phẩm của một tâm hồn, một tấc
lòng nghệ sĩ rung động trước cuộc đời.
Và bạn đọc cũng vậy, đọc văn chương họ cũng muốn tìm nơi để gửi gắm
tấc lịng, để thể nghiệm, nếm trải. Song không phải bao giờ tác giả và bạn đọc
cũng gặp nhau trong văn bản. Muốn bạn đọc và tác giả cùng gặp nhau trong văn
bản, phải tùy thuộc vào nhiều yếu tố: trình độ văn hóa, vốn sống, trình độ nhận
thức, thẩm mĩ… Để làm được điều này, nhà trường chính là mơi trường văn hóa
thuận lợi nhất. Ở đó, những tác giả nào mà tác phẩm của họ được chọn vào
chương trình sách giáo khoa để dạy và học, thì họ sẽ tìm được lớp bạn đọc lí
tưởng (giáo viên văn và học sinh) .
1.2. Vì vậy, nhiệm vụ vơ cùng quan trọng của người giáo viên dạy văn
trong trường phổ thông là phải hướng dẫn học sinh đi khám phá cái đẹp đang
tìm ẩn đằng sau câu chữ.
1.3. Năm học 2006 -2007, Bộ giáo dục và Đào Tạo đã quyết định thực đổi
chương trình sách giáo khoa mới với mục tiêu hàng đầu là nâng cao tính độc lập,
sáng tạo của học sinh, coi học sinh là chủ thể của quá trình dạy học. Trong
chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ
– BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã nêu: “Phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sính phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo đó,
mỗi thầy cơ giáo khi đứng trên bục giảng luôn sát sao với từng động thái của
học sinh, trăn trở với từng hoạt động trong mỗi giờ dạy – học. Trong đó, việc tạo
2
mối quan hệ bình đẳng giữ thầy – trị để tạo bầu khơng khí văn chương cho giờ
dạy – học văn là một cơng việc vơ cùng quan trọng.
1.4. Có nhiều phương pháp dạy học tích cực giúp người giáo viên và học
sinh trên hành trình khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương,trong đó:
phương pháp dạy học vấn đáp, đàm thoại hay nói một cách khác: xây dựng hệ
thống câu hỏi nhằm từng bước tạo ra bầu không khí văn chương trong giờ học
văn là vơ cùng quan trọng, nhằm thúc đẩy quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học
ở mỗi học sinh. Phương pháp dạy học tích cực trên không chỉ là một biện pháp
nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Với những lí do nêu trên, tơi đã chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp dạy
học vấn đáp, đàm thoại để tạo bầu khơng khí văn chương trong giờ dạy – học
văn”
II. Mục đích của đề tài:
Thực hiện đề tài “Sử dụng phương pháp dạy học vấn đáp, đàm thoại để
tạo bầu khơng khí văn chương trong giờ dạy – học văn”, tơi hướng tới mục
đích:
- Đưa ra một phương pháp học tích cực góp phần phát triển năng lực tự
khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương.
- Với hình thức đàm thoại, vấn đáp qua hệ thống câu hỏi có vấn đề, góp
phần tạo sự bùng nổ kiến thức văn chương, tạo bầu khơng khí văn chương cho
giờ dạy – học văn.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
1. Những vấn đề chung về đổi mới Giáo dục THPT môn Ngữ Văn ( Nhà
xuất bản Giáo dục 2007 ).
2. Tài liệu bồi dưỡng Giáo viên môn Ngữ văn ( Nhà xuất bản Giáo dục
2007 ).
3. Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học ở trường THPT ( Nguyễn Thị
Thanh Hương – Nhà xuất bản Giáo dục 1998 ).
3
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
1.1 Theo quan điểm truyền thống, khi nói đến nhà trường, người ta chỉ
chú trọng đến vai trò của người thầy. Thầy giáo là tất cả, là nguồn kiến thức. Do
vậy người Giáo viên thường che lấp tài liệu học tập, người học sinh trở thành
đối tượng, thành khách thể của quá trình nhận thức, thành đối tượng, thành
“bình chứa” để giáo viên rót kiến thức. Vì thế, tài liệu học tập dường như không
được chú ý. Theo quan niệm này thì phương pháp dạy học theo kiểu thông tin –
tái hiện và diễn giải là phương pháp chủ đạo. Trên lớp, Thầy trở thành người
diễn thuyết, người thuyết giảng. Và như thê, người học trò được đào tạo trở nên
ít sáng tạo, trở nên thụ động trong cơng việc bởi từ trong nhà trường các em đã
có thói quen học vẹt, học theo điệu sáo.
1.2 Trong những năm gần đây, do yêu cầu mới mà xã hội đặt ra cho nhà
trường, buộc những người làm công tác nghiên cứu lí luận dạy – học phải suy
nghĩ, tìm tòi những con đường, cách thức đổi mới phương pháp dạy – học, buộc
người Giáo viên phải thay đổi cách dạy. Trong đổi mới phương pháp dạy – học
đó, người Giáo viên phải coi học sinh là trung tâm. Và phương pháp dạy học
vấn đáp, đàm thoại là phương pháp tối ưu để phát huy vai trò của học sinh trong
giờ văn. Vì có phát huy được vai trị tích cực của học sinh thì mới tạo được bầu
khơng khí văn chương sôi nổi trong giờ dạy – học văn.
1.3 Vấn đáp, đàm thoại là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra những
câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả Giáo viên,
qua đó Học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
Mục đích của phương pháp này là nâng cao chất lượng của giờ dạy – học
bằng cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa Giáo viên và Học sinh,
rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể.
Muốn thực hiện điều đó, địi hỏi Giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi
phù hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn, sát đối tượng, xác định được vai trị, chức
năng của từng câu hỏi, mục đích hỏi, các yếu tố kết nối các câu hỏi, thứ tự hỏi.
Giáo viên cũng cần dự kiến các phương án trả lời của Học sinh để có thể chủ
động thay đổi hình thức, cách thức, mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi
phụ tránh đơn điệu, nhàm chán, nặng nề, bế tắc, tạo hứng thú học tập của học
sinh và tăng hấp dẫn cho giờ học.
4
1.4 Cái khó đối với người giáo viên dạy văn là làm sao trong giờ học có
thể tạo ra bầu khơng khí văn chương. Sẽ tẻ nhạt nếu giờ học văn chỉ là giờ
truyền đạt kiến thức đơn thuần: thầy nói, trị ghi, khơng khác gì giờ học chính
trị, lịch sử, đạo đức… Nhưng như thế nào là bầu không khí văn chương ? Làm
thế nào để tạo ra bầu khơng khí văn chương ? Có thể giờ văn nào cũng tạo được
bầu khơng khí văn chương.
Bầu khơng khí văn chương là bầu khơng khí trong đó Giáo viên và Học
sinh cùng bình đẳng, cùng thảo luận về một vấn đề, một hiện tượng văn học hay
một nhân vật nào đó trong một tác phẩm cụ thể. Trong q trình thảo luận, thầy
– trị khơng chỉ khẳng định xng những kết luận quen thuộc mà đẩy suy luận
theo một hướng mới, biến nó thành một cuộc tìm kiếm chân lí. Trong bầu khơng
khí đó, học sinh hoặc cố gắng tự khẳng định những suy nghĩ có tính chất phát
hiện, độc đáo và phù hợp với nội dung bài học, hoặc có thể hình thành những
cảm xúc mới, đạt tới mức trí tuệ và thay đổi cách nghĩ cũ.
II. Thực trạng của vấn đề
2.1 Một nhược điểm cũng là khuyết điểm khá nghiêm trọng kéo dài và
phổ biến trong giảng dạy văn học hiện nay là lối dạy văn theo thuyết trình tràn
lan, dàn trải những điều giáo viên cảm thụ, suy nghĩ. Học sinh chỉ ngồi nghe
một cách thụ động, ghi chép rồi học thuộc lịng. Lối “sáo”, hình thức ấy thực tế
đến nay vẫn còn tồn tại. Những nhược điểm của kiểu tư duy máy móc, chủ nghĩa
sơ lược, những khái niệm sai về phản ánh, về nội dung tác phẩm, về cơ chế hoạt
động của cảm thụ nghệ thuật đã dẫn tới những lối dạy nông cạn, liên hệ máy
móc, gị bó, thơ thiển.
2.2 Trong những năm trở lại đây, theo xu thế của xã hội, đại bộ phận học
sinh không học khối C, chỉ chạy theo những môn khoa học tự nhiên để sau này
dễ chọn ngành, trường, cơng ăn việc làm. Vì vậy, học sinh trong trường Phổ
thông gần như không chú ý học môn Văn, chỉ coi môn Văn như là một môn điều
kiện.
Từ những thực trạng trên, khiến cho học sinh chán những giờ Văn dẫn
đến những giờ dạy – học Văn tẻ nhạt, nhàm chán, trôi qua một cách vô vị. Từ
chỗ môn Văn là một môn nghệ thuật, hướng học sinh tới “chân, thiện, mĩ”, đã
trở thành một môn học bị coi nhẹ trong nhà trường. Đây là những lí do khiến
5
cho giờ dạy học Văn thực sự mất chất văn, khơng cịn bầu khơng khí văn
chương như thưở xưa nữa.
Để có một giờ dạy – học Văn tốt, người Giáo viên Văn ngày nay cần phải
luôn luôn ý thức được vai trị, trách nhiệm và đặc thù bộ mơn. Ln luôn xây
dựng được một kế hoạch day – học đúng đắn, trong đó phương pháp “Sử dụng
phương pháp dạy học vấn đáp, đàm thoại để tạo bầu khơng khí văn chương
trong giờ dạy – học văn” là vô cùng quan trọng.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
3.1. Giải pháp
- Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực trạng của vấn đề về dạy – học Văn
trong nhà trường như đã trình bày ở trên. Bản thân tơi đã mạnh dạn áp dụng
phương pháp “Sử dụng phương pháp dạy học vấn đáp, đàm thoại để tạo bầu
khơng khí văn chương trong giờ dạy – học văn” vào các giờ Văn ở trường
THPT Hoằng Hóa 4. Để có được những giờ dạy – học Văn có hiệu quả, tơi
thường phải đầu tư thời gian, cơng sức cho việc tìm hiểu, xây dựng hệ thống câu
hỏi đàm thoại.
- Thường tôi phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi cho một bài giảng trước đó
cả một tuần (thơng qua việc: đọc sách, thu thập tư liệu trên mạng, Internet, tiếp
thu từ đồng nghiệp, kết hợp với tư duy khoa học của bản thân).
- Về phía học sinh: để hướng dẫn học sinh chuẩn bị soạn bài ở nhà, ngoài
hệ thống câu hỏi trong Sách giáo khoa, tôi thường hướng dẫn các em đọc tài liệu
tham khảo mà trong các tài liệu đó có đề cập đến nội dung các câu hỏi tôi sẽ sử
dụng trong bài giảng của mình. Tơi tuyệt đối khơng tung hệ thống câu hỏi trước
để học sinh chuẩn bị, vì như thế vơ hình trung sẽ tạo sự đơn điệu của giờ học khi
các em đã chuẩn bị sẵn, đứng lên đọc như một cái máy. Và như thế sẽ không tạo
được những mâu thuẫn giữa các ý kiến của học sinh trong lớp, sự bùng nổ
khơng khí văn chương sẽ bị tiêu diệt.
3.2. Tổ chức thực hiện:
a. Những hướng thiết lập bầu khơng khí văn chương qua việc xây dựng hệ
thống câu hỏi:
* Xây dựng những câu hỏi chủ đạo:
- Câu hỏi loại này là sự mở đầu cũng là động lực để hình thành bầu khơng
khí văn chương. Yêu cầu đặt ra ở đây là: Câu hỏi có thể đi từ đơn giản đến phức
6
tạp, mỗi câu hỏi phải tìm ẩn trong nó khả năng đa dạng hóa câu trả lời để châm
ngịi cho sự bùng nổ của cuộc tranh luận. Như vậy, bầu khơng khí văn chương
được hình thành từ chính nhu cầu tìm ra lời giải đáp đúng đắn cho câu hỏi một
cách tự nhiên, thoải mái. Học sinh được phép phát biểu những ý kiến khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, từ đó các em có thể đào sâu, khám phá ra những cách giải
quyết mới và tự các em so sánh những phương án trả lờ để đi tới kết luận thống
nhất. Từ đó trí tuệ mới được hình thành cho cả lớp.
- Các câu hỏi để tạo bầu không khí văn chương khác các câu hỏi bình
thường ở chỗ :
+ Các câu hỏi này luôn luôn phải chứa đựng tính phức tạp, đơi khi có
dạng mâu thuẫn, làm cho học sinh không dễ trả lời (trên nền nội dung của tác
phẩm, cần tìm ra những ý ngầm của tác phẩm đó ).
+ Câu hỏi phải làm nhiệm vụ thu hút, lôi cuốn học sinh, phải đáp ứng nhu
cầu và có khả năng xâu chuỗi các phạm vi hiểu biết của các em, đồng thời phải
tương ứng với bản chất của văn chương, với lôgic khoa học về văn học.
+ Câu hỏi phải có khả năng bao qt khơng chỉ những sự kiện cụ thể mà
còn bao quát một hệ thống các dữ liệu.
Ví dụ minh họa:
1. Bài giảng “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu):
Khi dạy phần: Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Giáo viên cần sử dụng những câu hỏi sau để đưa học sinh đi từ đơn
giản đến phức tạp, đến tình huống có vấn đề, tạo sự bùng nổ để đốt lên
khơng khí văn chương trong giờ học. Những câu hỏi đó là:
Câu hỏi 1: Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ nhiếp ảnh tại vùng biển
nọ là “một cảnh đắt trời cho”. Anh (chị) hiểu một “cảnh đắt trời cho” ở đây
nghĩa là thế nào? Và vì sao người nghệ sĩ lại gọi cái cảnh tượng ấy như vậy?
Câu hỏi 2: Cảm nhận của người nghệ sĩ khi được chiêm ngưỡng “bức
ảnh nghệ thuật của tạo hóa” là thế nào? Vì sao trong lúc cảm nhận vẻ đẹp của
bức tranh, anh lại nghĩ đến lời đúc kết của một ai đó “bản thân cái đẹp chính là
đạo đức” ?
Câu hỏi 3: “Bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, suy nghĩ của nghệ sĩ
Phùng giúp anh (chị) liên tưởng tới quan niệm nghệ thuật của những ai trong
trào lưu Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945.
7
Câu hỏi 4: Tuy nhiên ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những xúc
cảm thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì
người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì tiếp theo ngay sau
bức tranh? Vì sao anh lại kinh ngạc đến mức như vậy ?
Câu hỏi 5: Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu
muốn người đọc nhận thức gì về cuộc đời?
Câu hỏi 6: (Câu hỏi nêu tình huống có vấn đề) Giả sử có ai đó muốn
can thiệp vào tác phẩm của nhà văn bằng cách đảo vị trí hai phát hiện này, tức
là để cho người nghệ sĩ chứng kiến bi kịch của gia đình hàng chài hơm trước rồi
sáng hơm sau mới phát hiện vẻ đpẹ của cảnh biển mờ sương. theo anh (chị),
điều đó có được khơng ? Vì sao ? Từ đó anh (chị) hãy đọc ra ý tưởng nghệ thuật
của nhà văn về cách nhìn nhận và đánh giá con người vào mọi sự vật, hiện
tượng trong đời sống.
Khi dạy sang phần: Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện.
Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Trước hết, anh (chị) hãy tìm hiểu xem vì sao người đàn bà
hàng chài lại xuất hiện ở Tòa án huyện?
Câu hỏi 2: Người đàn bà hàng chài có làm theo sự gợi ý, đề nghị ấy
khơng? Vì sao?
Câu hỏi 3: Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà vùng biển, thái
độ của chánh án Đẩu là rất cương quyết. Nhưng sau khi nghe những gì mà
người phụ nũ vùng biển giãi bày, Đẩu cảm thấy thế nào ?
Câu hỏi 4: Dù nhà văn không trực tiếp nói ra nhưng theo anh (chị),
chánh án Đẩu đã “vỡ ra” điều gì và đang “suy nghĩ” những gì sau khi nghe
xong câu chuyện của người đàn bà hàng chài? Mỗi người hãy tự đặt mình vào
vị trí của Đẩu và ghi ra những suy nghĩ của mình lúc đó.
Câu hỏi 5: Theo anh (chị), câu chuyện mà người đàn bà kể ở Tòa án đã
giúp Phùng hiểu ra điều gì về người phụ nữ này, và về người bạn của mình –
chánh án Đẩu và về chính mình?
Câu hỏi 6: (Câu hỏi gợi mở) Đến đây, nếu được phép thay mặt nhà văn
chuyển dến người đọc, nhất là người nghệ sĩ, những thông điệp nghệ thuật về
cách nhìn nhận con người và cuộc đời thì anh (chị) sẽ nói những gì?
8
Câu hỏi 7: Trở lại với câu chuyện của người phụ nữ vùng biển, trong câu
chuyện ở Tòa án, người đàn bà ấy đã kể những gì về người chồng vũ phu của
mình? Qua đó có thể nhận thấy thái độ của chị đối với người chồng thế nào?
Câu hỏi 8: Từ nhan vật người đàn ông hàng chài này, có bạn học sinh đã
nghĩ đến một số nhân vật trong sáng tác của Nam Cao (chí Phèo, Hộ). Theo anh
(chị), vì sao bạn học sinh đó lại có liên tưởng như vậy ? Sự liên tưởng này có
giúp anh ( chị) hiểu ra điều gì về giá trị nhân đạo của tác phẩm ?
Khi giảng phần: Tấm ảnh được chọn trong “Bộ lịch năm ấy” ở cuối
tác phẩm.
Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi :
Câu hỏi 1: Mỗi khi ngắm bức ảnh được chọn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh
đều nhìn thấy những gì đằng sau bức tranh? Theo anh (chị), những hình ảnh ấy
tượng trưng cho điều gì?
Câu hỏi 2: Vậy Nguyễn Minh Châu muốn phát biểu điều gì giữa mối
quan hệ về nghệ thuật và cuộc đời qua bức ảnh ấy?
Phần tổng kết, Giáo viên sử dụng những câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Trong phần Tiểu dẫn của bài học, tác giả Sách giáo khoa giới
thiệu: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” kể lại chuyến đi thực tế của một
nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và
cuộc đời. Qua bài học, anh (chị) đã hiểu điều đó như thế nào?
Câu hỏi 2: So với một số tác phẩm của các tác giả khác viết trong 2 cuộc
kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ (Vợ chồng A Phủ, Rừng xà
nu… ), “Chiếc thuyền ngoài xa” đã cho thấy những đổi mới nào của văn học
Việt Nam sau 1975 (về đề tài, bút pháp, cái nhìn nghệ thuật về con người…” ?
2. Bài giảng “Việt Bắc” (Tố Hữu )
Hệ thống câu hỏi để đàm thoại trong giờ dạy – học của bài này như
sau:
Câu hỏi 1. Đọc lại phần Tiểu dẫn và cho biết bài thơ được sáng tác trong
hoàn cảnh nào ? Tâm trạng bao trùm trong đoạn trích bài thơ là gì ?
Câu hỏi 2. Nhận xét về cách kết cấu của bài thơ (chú ý cảnh chia tay, lời
hỏi và lời đáp). Cách kết cấu ấy có gì gần gũi với ca dao, dân ca và có tác dụng
như thế nào đối với việc thể hiện tư tưởng, tình cảm trong bài thơ ?
9
Câu hỏi 3. Nhận xét về cách sử dụng hai từ "mình" và "ta" trong bài thơ
("mình", "ta" là ai ?). Sự thống nhất và chuyển hoá của hai "nhân vật" ấy.
"Mình", "ta" trong bài Việt Bắc giống và khác như thế nào với "mình", "ta"
trong ca dao ?
Câu hỏi 4. Trong đoạn thơ từ dòng 25 đến dòng 52, những hình ảnh nào
của thiên nhiên và con người Việt Bắc đã được tái hiện ? Trong không gian và
thời gian nào ? Giữa cảnh và người có sự gắn bó như thế nào ? Nêu cảm nhận
của anh (chị) về tình cảm của người cán bộ miền xi với Việt Bắc qua những
hình ảnh ấy. Nhận xét về bút pháp miêu tả và giọng điệu của đoạn thơ này?
Câu hỏi 5. Trong đoạn thơ từ dòng 53 đến dòng 88, khí thế hào hùng của
cuộc kháng chiến đã được tái hiện qua những hình ảnh, sự việc nào ? Bút pháp
và giọng điệu trong đoạn thơ này có gì khác với đoạn thơ trước (từ dòng 25 đến
dòng 52)
Câu hỏi 6. Phân tích tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn
trích bài thơ Việt Bắc (ở bức tranh đời sống và nội dung tình cảm ; ở các hình
thức nghệ thuật nổi bật như thể thơ, lối kết cấu, hình ảnh, ngơn ngữ, giọng
điệu).
Rõ ràng hệ thống câu hỏi trên còn quá chung, chưa thể hiện được ý đồ
tiếp cận tác phẩm theo hệ thống. Trong khi ở câu 1, câu 2, câu 3 thì yêu cầu HS
tiếp cận đoạn trích theo lối "bổ dọc" đến câu 4, câu 5 thì lại tiếp cận theo lối
"bổ ngang". Hơn thế nữa nhiều câu hỏi quá khó so với trình độ của HS ở vùng
sâu: "Nhận xét về cách kết cấu của bài thơ". Sau đó lại yêu cầu so sánh với kết
cấu của ca dao ([2]). Hoặc nhận xét về cách sử dụng hai từ "mình" và "ta"
trong bài thơ ("mình", "ta" là ai ?). Sự thống nhất và chuyển hố của hai "nhân
vật" ấy. "Mình", "ta" trong bài Việt Bắc giống và khác như thế nào với "mình",
"ta" trong ca dao. Đây là một câu hỏi rất khó, HS phải có một sự am hiểu rất
sâu về đặc điểm sử dụng đại từ nhân xưng trong ca dao mới có thế giải quyết
được vấn đề này. Tuy nhiên qua khảo sát hệ thống văn bản ca dao mà HS được
học trong chương trình Ngữ văn 10 (nâng cao) chúng tơi nhận thấy khơng có
văn bản nào có xuất hiện hai từ "mình", "ta". Như vậy HS lấy kiến thức ở đâu
để hoàn thành được câu hỏi này. Tình hình này cũng khơng khác lắm ở sách
giáo khoa Ngữ văn 12 (chương trình chuẩn).
10
b. Bầu khơng khí văn chương đơi khi hình thành ngay cả ở dạng những
câu hỏi cắt nghĩa một khái niệm, một tiêu đề của tác phẩm hay khi cả giáo viên
và học sinh khám phá ra tính mâu thuẫn của ấn tượng ban đầu. Các câu hỏi được
đặt ra và giả quyết trong bầu khơng khí văn chương.
Ví dụ minh họa:
Khi giảng “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, Giáo viên đưa ra
câu hỏi: Chế Lan Viên viết: “Tây Bắc ư? Người là mẹ của hồn thơ”. Em
hiểu “mẹ của hồn thơ” là gì ?.
Hoặc nhan đề “Tiếng hát con tàu” có ý nghĩa như thế nào?
Lúc này, học sinh sẽ vận dụng, huy động kiến thức về lịch sử, văn học
sử, lí luận văn học và cả vốn sống của mình để giải thích khái niệm “Mẹ của
hồn thơ”. Sự nỗ lực trả lời câu hỏi đã tạo ra bầu khơng khí văn chương sơi
nổi, hiểu quả, gây hứng thú cho giáo viên và học sinh.
11
C. KIỂM NGHIỆM
Trong 3 năm vừa qua, trong quá trình giảng dạy, bản thân tơi đã có thử
nghiệm đối với biện pháp dạy – học tích cực: “dạy học vấn đáp, đàm thoại để
tạo bầu khơng khí văn chương trong giờ dạy – học văn” như đã trình bày ở
trên. Thực tế đã chứng minh, biện pháp trên đưa lại hiệu quả khá khả quan. Số
lượng học sinh tích cực tham gia phát biểu trong các buổi học tăng lên rõ rệt,
khơng khí của các giờ học Văn khơng cịn nặng nề, căng thẳng như trước, mà rất
sôi nổi. Các em đua nhau để trình bày các suy nghĩ của mình, đơi khi mạnh dạn
trình bày cả những suy nghĩ rất mới mẻ chưa từng có trong tài liệu. Điều đó
chứng tỏ đây là một phương pháp ưu việt.
Cụ thể, trong năm học vừa qua 2012- 2013 vừa qua, tôi áp dụng phương
pháp này vào lớp cơ bản tự nhiên, nhưng các em khơng cịn chán học văn như
hồi đầu lớp 10 nữa, mà rất sơi nổi, tích cực, thậm chí có những em tâm sự rằng:
“Chúng em chỉ mong đến giờ học Văn để được sống đúng là mình”.
Và kết quả cuối năm học: Ở 2 lớp ban cơ bản tự nhiên này tỉ lệ học sinh
đtạ điểm khá giỏi chiếm 80%.
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã mạnh dạn đề xuất với tổ chuyên môn áp
dụng vào năm học tới. Hi vọng rằng các bạn đồng nghiệp trong tổ Văn trường
Hoằng Hóa 4 sẽ gặt hái được những thành công như tôi.
12
A.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Văn học có sức tác động sâu sắc đến bạn đọc. Tiếp nhận văn học lại
phụ thuộc vào trình độ, năng lực, thi hiếu của từng người. Việc dạy –học Văn có
những khả năng giáo dục rất quan trọng:
- Làm phong phú hơn kinh nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mĩ ở bạn
đọc.
- Giờ Văn có vai trò quyết định trong việc đào tạo nhân cách và niềm tin
cho học sinh.
- Tạo dựng những tình huống quan trọng cho sự nhận thức sáng tạo nghệ
thuật, xây dựng cho học sinh những tình cảm đẹp đẽ, cao thượng, giúp các em
có những hoạt động và ứng xử cụ thể cho những tình huống nhất định và phát
triển tài năng của các em.
Vì vậy: Nhiệm vụ của người Giáo viên dạy Văn là tận dụng những điều
kiện thuật lợi của bộ môn để làm sao mỗi giờ dạy – học Văn là một giờ các em
được sống thực sự trong bầu khơng khí Văn chương, để các em hồn thiện và
lớn dần lên về nhân cách, trở thành CON NGƯỜI đúng theo ý nghĩa viết hoa mà
Thượng đế ban tặng.
2. Đề tài pháp “Sử dụng phương pháp dạy học vấn đáp, đàm thoại để
tạo bầu khơng khí văn chương trong giờ dạy – học văn” là một đề tài có tính
thực tiễn, có khả năng ứng dụng cao. Chúng tơi sẽ tiếp tục phát triển đề tài, để
hồn thiện hơn nữa một công việc rất quan trọng của người giáo viên là: “hướng
dẫn học sinh tích cực, chủ động, sáng tác trong quá trình thâm nhập tác phẩm
văn học”. Hi vọng đề tài này sẽ nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp trong
Tỉnh.
13
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa ngày 1/6/2013
Tơi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Thị Huệ
14