Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

skkn phân luồng học sinh khối 12 nhằm nâng cao chất lượng điểm bình quân thi đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.03 KB, 12 trang )

ĐỀ TÀI: " PHÂN LUỒNG HỌC SINH KHỐI 12 NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐIỂM BÌNH QUÂN THI ĐẠI HỌC ”
Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HOÁ 4 - HUYỆN HOẰNG HOÁ - TỈNH
THANH HOÁ.
A. Đặt vấn đề:
Trường THPT Hoằng Hóa 4 - là ngôi trường công lập thứ 4 của huyện
Hoằng Hóa được thành lập theo QĐ số 884/TC- UBTH ngày 24/06/1989 của
Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Địa bàn tuyển sinh của nhà trường là các xã
vùng Đông Nam của huyện trong đó có hai xã bãi ngang Hoằng Châu, Hoằng
Phong được hưởng chương trình 135 - chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo đến năm 2015. Có nhiều xã bên trong đê sông Mã là rốn nước của huyện
Hoằng Hóa - chưa mưa đã ngập, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.
Một bộ phận trẻ em, trung niên phải tha phương cầu thực ra Hà Nội bán báo,
làm thuê không còn tha thiết với việc học hành. Nhân dân trong vùng không biết
tự bao giờ đã lưu truyền câu ca: “Chữ nghĩa văn chương không bằng xương con
cá rô, cá lẹp, không bằng cật dọc của lá thuốc lào, không bằng đánh chao mớ
ngao, mớ hến”. Song trong vùng này vẫn còn có một số xã, số thôn có truyền
thống hiếu học, lấy việc học làm mưu sinh, bố mẹ ngồi dệt vải làm nghề thủ
công, đan lát thâu canh để lấy tiền nuôi con ăn học nên danh như Hoằng Lộc,
Hoằng Quang, Hoằng Phong và một vài thôn ở Hoằng Thịnh. Chất lượng giáo
dục đào tạo 10 năm trước đây của trường THPT Hoằng Hóa 4 ít ai biết đến, kết
quả thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh khối 12 thi đậu Đại học - Cao đẳng xếp thứ
tự hàng năm nằm tốp cuối của tỉnh, tên tuổi tiếng tăm của trường THPT Hoằng
Hóa 4 trong phong trào thi đua hai tốt “dạy tốt - học tốt” của ngành mờ nhạt, ít
trường THPT trong tỉnh nhắc đến. Nhưng trong những năm gần đây với vai trò
lãnh đạo của Ban giám hiệu, cùng với sự nỗ lực hết mình của tập thể sư phạm
nhà trường, bằng quyết tâm với lòng yêu nghề say sưa với nghề, với tinh thần tự
học, tự bồi dưỡng để nâng cao chất lượng, đội ngũ giáo viên nhà trường đã đáp
ứng yêu cầu đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, đáp ứng đòi hỏi
mong muốn của người học, phụ huynh nhân dân trong vùng. Cùng với chính
sách khen thưởng, động viên kịp thời nên chất lượng đào tạo giáo dục của nhà


trường mà nhất là chất lượng mũi nhọn thi học sinh giỏi Tỉnh, Quốc gia, học
sinh khối 12 thi đậu Đại học - Cao đẳng năm sau cao hơn năm trước. Trong năm
học 2011 - 2012 vừa qua, nhà trường đã đạt điểm bình quân thi Đại học - Cao
đẳng là 13,48 điểm xếp thứ 231 cả nước và đứng thứ 7 toàn tỉnh.
Có được kết quả to lớn trên là nhờ sự nỗ lực của tập thể sư phạm nhà
trường, đặc biệt là sự trăn trở của người đứng đầu trong công tác quản lý giáo
dục cần phải đưa ra những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục trong nhà trường. Một trong những biện pháp mà tôi đã áp dụng trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục ở nhà trường đó là:“Phân luồng học sinh khối 12
nhằm nâng cao chất lượng điểm bình quân thi đại học”. Với những trăn trở
băn khoăn của một nhà giáo yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục của quê

1
hương, cùng với vai trò của người lãnh đạo đứng đầu trong nhà trường và được
sự đồng thuận, ủng hộ của tập thể sư phạm nhà trường. Tôi đã từng bước thay
đổi phương thức quản lý giáo dục trong nhà trường và đã đưa chất lượng giáo
dục của nhà trường ngày càng đi lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần khẳng định vị thế của
nhà trường trong huyện, trong tỉnh, tạo được niềm tin sự tín nhiệm của phụ
huynh và học sinh các xã vùng Đông Nam của Huyên Hoằng Hóa. Từ thực tế và
kinh nghiệm quản lý nhiều năm, tôi đưa vào sáng kiến kinh nghiệm cả mình hy
vọng các nhà trường có thể tham khảo và bổ sung hoàn thiện nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh.
B. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
-Lâu nay Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Sở nói nhiều đến việc phân luồng
học sinh, vấn đề “thừa thầy, thiếu thợ” đang trở thành một “vấn nạn” mà cả xã
hội đang quan tâm và tìm biện pháp để giải quyết. Hàng năm, cứ đến mùa tuyển
sinh đã có sự vào cuộc của rất nhiều ngành, nhiều bộ và sự quan tâm của các
báo, đài truyền hình trung ương và địa phương. Các chương trình: “tư vấn mùa

thi”, “hướng nghiệp cho học sinh khối 12”,“việc chọn trường, khối thi ” đã đề
cập rất nhiều đến việc tuyển sinh và phân luồng cho học sinh 12 nhằm giảm tải
sức ép vào mùa thi, nhưng hiệu quả thực tế như thế nào thì chưa ai có thể khẳng
định được.
-Với đối tượng học sinh khối 12: Các em tốt nghiệp ra trường khi vừa
tròn 18 tuổi nhận thức cuộc sống, nhận thức xã hội hết sức hạn chế. Mỗi em có
những mơ ước riêng của mình mà không cần quan tâm đến khả năng, năng lực
của mình có đáp ứng được hay không? Trên thực tế nhiều nhiều em có lực học
trung bình đã làm hồ sơ đăng ký thi vào các trường ở tốp đầu của khối kinh tế,
kỹ thuật rất khó đạt kết quả. Có nhiều em chỉ nên đăng ký vào các trường cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề nhưng các em vẫn làm hồ sơ thi
vào đại học và xem kỳ thi đại học như một lần thăm quan du lịch mà không cần
biết kết quả thi của mình như thế nào?
Đứng trước thực trạng xã hội trên tôi xác định đây là trách nhiệm của ba
đối tượng: Bản thân học sinh - thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy - phụ huynh. Để
kết nối giữa ba đối tượng trên đó chính là vai trò của người quản lý trong việc
định hướng, chỉ đạo:
+ Người học (học sinh) năng lực tiếp thu và ý thức học tập:
Như chúng ta đã biết trong một lớp với sĩ số 45 học sinh, lớp có chất
lượng có khoảng 30 – 40% học sinh có khả năng tiếp thu kiến thức nâng cao,
lớp trung bình có khoảng 15 – 20% học sinh có khả năng tiếp thu kiến thức nâng
cao. Còn lại các em chỉ có thể tiếp thu kiến thức cơ bản và không có khả năng
tiếp thu kiến thức cơ bản. Do vậy, trong quá trình giảng dạy giáo viên phải chú ý
động viên ý thức tự học, tạo niềm tin cho học sinh ngay từ khi giảng dạy ở lớp
10. Hơn nữa giáo viên chủ nhiệm và các tổ chức đoàn thể giáo dục trong nhà

2
trường cần giáo dục và trang bị cho các em ý thức tự học vì ngày mai lập thân
lập nghiệp: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng
định mình”. Học để được tuyên dương khen thưởng trước toàn trường, học để

được ghi tên vào sổ vàng truyền thống của nhà trường, làm rạng rỡ gia đình,
dòng họ. Từ đó đã tác động tích cực đến ý thức tự học, sự say mê trong học tập
của học sinh: “Thua thầy một vạn không bằng kém bạn một ly”.
+ Người dạy (giáo viên) trang bị kiến thức, phương pháp, trách nhiệm
giảng dạy:
Cần phải đánh giá rút kinh nghiệm qua giảng dạy sau từng năm học, sau
ba năm đối với mỗi khóa học sinh được thể hiện qua điểm thi, điểm tổng kết xếp
loại học lực, xếp loại thi cử trong trường trong tỉnh mà đặc biệt thông qua kỳ thi
tuyển sinh vào đại học - cao đẳng hàng năm được phản ánh một cách trung thực,
khách quan. Hiệu trưởng cần đánh giá, khen thưởng đúng người thông qua
chính sách kích cầu tăng lương sớm, thưởng hiện vật, tạo ra những cú hích đánh
vào lòng tự trọng, tự tôn của cán bộ giáo viên, thôi thúc mỗi giáo viên lao động
hết mình, không ngừng tự học, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm hết mình vì học sinh thân yêu. Như vậy kết quả giảng
dạy, thi cử đạt - vượt chỉ tiêu nhà trường giao cho.
+ Phụ huynh học sinh: Phụ huynh học sinh của trường THPT Hoằng Hóa
4 đa số là nông dân. Một bộ phận rất nhỏ phụ huynh định hướng nghề nghiệp
cho con một cách rõ ràng, còn đa số chỉ biết lao động kiếm tiền nuôi con ăn học.
Không có thời gian theo dõi việc học hàng ngày của con, càng không có thời
gian đánh giá mức độ tiến bộ của con theo từng năm học. Việc nhận thức xã hội,
nhận thức thời cuộc, nhu cầu việc làm của xã hội lại càng trở nên xa lạ. Cá biệt
có một bộ phận phụ huynh đi làm ăn xa, đi xuất khẩu lao động nước ngoài nên
việc học của con là nhờ vào ông bà và phó mặc hoàn toàn cho các em tự quyết
định. Do đó khi các em học đến lớp 12, phần lớn các phụ huynh nghe theo sự
mong muốn của con và để con tự quyết định thi trường nào, khối nào. Phụ
huynh không đủ hiểu biết để có quyết định chính xác cho việc chọn trường thi
của con em mình dẫn đến kết quả thi đại học – cao đẳng không cao. Đứng trước
thực trạng này vai trò định hướng của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên dạy môn
khối là vô cùng quan trọng quyết định đến tương lai của các em sau này.
Từ ba đối tượng trên vai trò của người ở giữa, đó chính là người quản lý

(Ban giám hiệu) cần đổi mới việc tổ chức chỉ đạo dạy và học để phân luồng học
sinh khối 12 khi hướng nghiệp làm hồ sơ thi đại học – cao đẳng.
II. Thực trạng của vấn đề:
- Chất lượng văn hóa của nhà trường trong 10 năm trước đây về xếp loại
học lực: Học lực trung bình chiếm khoảng 90%, học lực khá chỉ chiếm khoảng
độ 10%, học lực giỏi chưa năm nào vượt trên 1%; học sinh thi đậu tốt nghiệp
khoảng 90% trong đó bằng khá, giỏi khoảng 15%, học sinh giỏi Tỉnh chỉ đạt 10
– 20 giải xếp thứ hạng từ 35 đến 50 trong tỉnh. Học sinh khối 12 thi đậu đại học
từ 10 -> 15% trong khi đó mặt bằng chung của tỉnh học sinh khối 12 thi đậu đại
học từ 20 -> 25 %. Có thể khẳng định: Thực trạng chất lượng văn hóa nhà

3
trường nằm trong tốp trung bình của tỉnh. Sở dĩ chất lượng của nhà trường mới
đạt được như vậy là do những nguyên nhân sau :
+ Cơ sở vật chất, phòng học của nhà trường còn thiếu thốn, nhà cấp 4,
còn học 2 ca, không có đủ phòng để dạy thêm, học thêm buổi chiều, thiết bị
phục vụ cho dạy học còn còn nghèo nàn, đơn điệu.
+ Đội ngũ: Chất lượng cán bộ giáo viên trung bình, nhiều thầy cô cao
tuổi lại an phận thủ thường không phát huy năng lực chuyên môn, công tác quản
lý của Ban giám hiệu chưa đổi mới lại dập khuôn theo sách vở.
+ Nhà trường chưa có uy tín, thương hiệu, niềm tin trong nhân dân và
phụ huynh nên một bộ phận học sinh học khá giỏi trong vùng đều đầu đơn ra thi
học tại trường THPH Hoằng Hóa I (nay là trường THPT Lương Đắc Bằng), số
học sinh trong vùng học tại trường lại chưa có động cơ học tập đúng đắn, nhà
trường chưa xây dựng được phong trào học tập, phụ huynh, nhân dân, lãnh đạo
địa phương trong vùng còn thờ ơ với việc học tập của con cái, chưa quan tâm
đúng mức đến nhà trường.
- Chất lượng văn hóa của nhà trường trong 10 năm gần đây đã có nhiều
thay đổi:
+ Đội ngũ cán bộ giáo viên có sự thay đổi về chất lượng: Các thầy trong

Ban giám hiệu cũ và các thầy cô cao tuổi đã về hưu, Ban giám hiệu mới và đội
ngũ giáo viên trẻ tốt nghiệp đại học sư phạm chính quy bằng khá, giỏi được bổ
sung đã tạo nên luồng sinh khí mới trong công tác quản lý, trong chất lượng đội
ngũ, trong kỹ cương nề nếp dạy học và các hoạt động toàn diện khác của nhà
trường. Phong trào dạy tốt và học tốt ngày được phát huy, thực trạng giáo dục
nhà trường trong những năm gần đây đã có sự thay đổi kỳ diệu.
+ Về cơ sở vật chất: Nhà trường đã được Tỉnh, Huyện đầu tư xây dựng
các khu nhà học cao tầng có đủ phòng học văn hóa chính khóa một ca, có đủ các
phòng bộ môn, các khu liên hợp, phòng sinh hoạt tổ chuyên môn, các thiết bị,đồ
dùng học tập được cấp ngày càng nhiều; các công trình phụ, sân trường, đường
đi bằng xã hội hóa giá dục có sự đóng góp của phụ huynh và nhân dân trong
vùng, tri ân của học sinh lớp 12 khi ra trường và tiết kiệm chi tiêu trong ngân
sách của nhà trường nên khuôn viên trong nhà trường được xây dựng cải tạo và
đã từng bước tiếp cận với các tiêu chí, tiêu chuẩn của trường chuẩn quốc gia.
Trên cơ sở đó chất lượng văn hóa của nhà trường mà đặc biệt là chất
lượng mũi nhọn: Thi học sinh giỏi Tỉnh, Quốc gia, học sinh khối 12 thi đậu đại
học năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể:
Xếp loại học lực qua 2 năm:
Năm học
Tổng
số HS
Xếp loại học lực
Loại kém Loại yếu Loại TB Loại khá Loại giỏi
SL % SL % SL % SL % SL %
2010-2011 1495 0 0.00 18 1,2 427 28,56 973 65,08 77 5,15
2011-2012 1430 0 0.00 7 0,49 382 26,71 984 68,81 57 3,99
Số giải thi học sinh giỏi tỉnh qua 2 năm:
Năm học Tổng số giải Giải

4

Nhất Nhì Ba
Khuyến
khích
2010- 2011 119 2 22 48 47
2011- 2012 129 13 21 44 51
Điểm bình quân thi đậu đại học các bộ môn và thứ tự do Sở giáo dục xếp
qua hai năm
Năm
học
KQ 3 môn
Môn văn Môn Sử Môn Địa Môn Toán Môn Lý Môn Hóa Môn Sinh
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
ĐBQ Xếp
thứ
2010-
2011
13.50 12 5.5 19 2.8 23 5.3 23 4.3 10 4.4 14 4.4 8 5.4 9

2011-
2012
13.48 7 5.9 17 3.7 9 5.9 8 4.7 6 4 14 4.4 5 3.8 27
Thực trạng chất lượng giáo dục - chất lượng văn hóa của trường ngày
một được cải thiện theo chiều hướng đi lên trong những năm gần đây là do đổi
mới về công tác quản lý; “giao khoán chất lượng văn hóa”: xếp học lực - khá; thi
tốt nghiệp lớp 12 - số lượng tốt nghiệp, chất lượng tốt nghiệp; thi học sinh giỏi
tỉnh, quốc gia - số lượng giải, chất lượng giải; học sinh khối 12 thi đại học – tỉ lệ
thi đại học, điểm bình quân của từng lớp, của trường, của môn trong tỉnh. Chỉ
tiêu giao khoán phải có cơ sở khoa học, khách quan, tính khả thi, tính cách mạng
kèm theo là chế độ khen thưởng, động viên, kích cầu thì mới tạo nên sự yên tâm,
tin tưởng cho cán bộ giáo viên giảng dạy, công tác, cống hiến hết mình để làm
nên chất lượng giáo dục cao và thương hiệu cho nhà trường. Mà đặc biệt trong
đó có vai trò của công tác hướng nghiệp phân luồng học sinh khối12 khi làm hồ
sơ thi đại học - cao đẳng đã phần nào làm giảm sức ép của thi cử đồng thời hạn
chế được một phần học sinh yếu kém không tham gia làm hô sơ thi đại học và
lựa chọn việc học nghề sau khi tốt nghiệp THPT.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
1. Tổ chức dạy hướng nghiệp cho học sinh:
Công tác hướng nghiệp cho học sinh khối 12 là một vấn đề vô cùng
quan trọng, liên quan đến việc định hướng nghề nghiệp tương lai cho học sinh,
phù hợp với năng lực của các em và được xem là một vấn đề quan trọng trong
tình hình hiện nay. Giáo dục hướng nghiệp đã trở thành một môn học trong
trường phổ thông gắn liền với vai trò rất lớn của giáo viên chủ nhiệm của.
Hướng nghiệp co học sinh là khâu vô cùng quan trọng trang bị kiến thức ban
đầu cho học sinh ngay từ khi các em bước vào lớp 10, giúp các em định hình:
- Nghề nghiệp là gì? Chọn nghề là gì ?
- Tại sao con người lại phải gắn bó với một nghề nhất định?
- Trang bị những kiến thức ban đầu về một số ngành nghề cụ thể: nghề
giáo, nghề y, các nghề giao thông vận tải, các nghề mang tính dịch vụ Từ đó

các em có thể hiểu mỗi một nghề yêu cầu kiến thức và năng lực cá nhân là gì?
Đó có phải là ngành các em yêu thích không?
- Đến lớp 12 giáo trình hoạt động hướng nghiệp đi sâu vào trang bị kiến
thức tổng thể về hệ thống giáo dục chuyên nghiệp: trung cấp chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học, các em có thể chính thức lựa chọn ngành nghề của mình.

5
Công tác hướng nghiệp cho học sinh được tiến hành theo quy định của
Bộ giáo dục gắn liền với vai trò của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, được tiến hành thường xuyên . Trong quá
trình hướng nghiệp, giáo viên định hình cho học sinh thấy được con đường vào
đời có nhiều cách thức khác nhau, không nhất thiết là bằng con đường vào đại
học. Từ đó học sinh trên cơ sở năng lực của mình để lựa chọn nghành nghề phù
hợp, những em không có khả năng thi đậu đại học thì phân hóa theo hướng chọn
nghề tự do phù hợp với khả năng thực tế.
2. Đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên theo hướng “dạy sát
đối tượng” theo tinh thần chỉ đạo của Bộ giáo dục, Sở giáo dục và thực tiễn
của nhà trường.
- Nhà trường xếp ban – khối – lớp ngay từ khi học sinh trúng tuyển vào
lớp 10 trên cơ sở nguyện vọng và năng lực của học sinh, căn cứ vào năng lực
giáo viên để phân bộ 3 giáo viên dạy cho mỗi khối lớp sao cho đáp ứng nhu cầu
người học và đảm bảo mục tiêu, chỉ tiêu thi đại học sau này của nhà trường.
- Chỉ đạo dạy chính khóa theo chương trình sách giáo khoa nâng cao các
môn khối A, B, C, D và A1. Học thêm buổi chiều theo định hướng số buổi quy
định trong một chu trình 4 tuần/tháng. Số buổi như sau:
Khối A: Toán: 6 ; Lý: 4; Hóa: 4.
Khối B: Toán: 6; Sinh: 4; Hóa: 4.
Khối C: Văn: 6; Sử: 4; Địa: 4.
Khối D: Anh: 6; Toán: 4; Văn: 4.
Ngoài ra còn để lại từ 2 đến 4 buổi/tháng để các lớp đăng ký học thêm

các môn thi tốt nghiệp hoặc những môn thi đại học cần tăng cường đối với từng
lớp như lớp khối A học thêm môn Sinh
- Tổ chức thi tiến ích học kỳ tập trung 5 môn cho từng ban – khối – lớp
trong đó có 3 môn thi đại học, 2 môn thi tốt nghiệp như lớp khối A thi học kỳ
tập trung (Toán, Lý, Hóa, Văn, Anh). Thi như vậy có tác dụng rèn luyện kỹ năng
làm bài thi cho học sinh qua mỗi lần thi. Đồng thời có thể kiểm tra kết quả giảng
dạy của mỗi giáo viên ở trường trong từng thời điểm cụ thể.
- Trong quá trình giảng dạy việc ra đề kiểm tra của giáo viên có sự đổi
mới nhằm phân luồng học sinh. Những em học sinh học khá trở lên, mức độ ra
đề cao hơn để khi thi đại học các em có thể đạt điểm 9 – 10, những em học mức
trung bình cần nắm chắc kiến thức cơ bản có thể làm bài có thể đạt điểm trung
bình: 5 – 6 điểm.
3. Khảo sát kiểm tra kiến thức thi đại học cho học sinh khối 12.
Hàng năm nhà trường thường tổ chức kiểm tra kiến thức đại học 3 lần
cho học sinh lớp 12 vào tháng 12, tháng 3, tháng 5 của năm. Qua việc kiểm tra
để rút kinh nghiệm cho việc dạy và học, ôn luyện và cách làm bài của học sinh
và giáo viên.
Mỗi lần kiểm tra có kết quả là cơ sở để báo cáo kết quả điểm thi đại học
của mỗi em để các em nhận thấy được những thiếu sót trong quá trình làm bài
và nỗ lực hơn trong quá trình học tập.

6
Trên cơ sở điểm thi thử đại học, nhà trường lấy cơ sở để tính điểm bình
quân của từng học sinh, từng lớp và cả trường. Giáo viên chủ nhiệm có cơ sở
định hướng, tư vấn cho học sinh, phụ huynh trong việc quyết định cho các em
nên thi đại học, cao đẳng hay trung học chuyên nghiệp, học nghề để hạn chế
học sinh yếu, kém làm hồ sơ thi đại học sẽ ảnh hưởng đến kết quả điểm bình
quân thi của lớp, của trường.
Hàng năm vào dịp đầu xuân năm mới, cựu học sinh của nhà trường là
các sinh viên đại học các khóa trước thường tổ chức gặp mặt đầu xuân, giao lưu

với học sinh và tư vấn tuyển sinh, chia sẻ kinh nghiệm học và thi đại học, cung
cấp điểm thi vào từng trường để các em có cơ sở đăng ký dự thi. Đồng thời
nhằm giáo dục động cơ học tập vì ngày mai lập thân, lập nghiệp cho học sinh
trong nhà trường.
4. Bồi dưỡng học sinh thi học sinh giỏi Tỉnh, giỏi Quốc gia.
- Nhà trường căn cứ vào năng lực, kinh nghiệm để giao cho giáo viên
đứng đội tuyển họ sinh giỏi tỉnh, quốc gia ngay từ lớp 10 và cho 3 năm sau.
Giáo viên trong quá trình giảng dạy lớp 10, lớp 11 để phát hiện những học sinh
có khả năng học tốt các môn để từng bước định hình đội tuyển và bồi dưỡng
nâng cao ngay trong quá trình dạy.
- Cuối lớp 11 nhà trường tổ chức thi chọn đội tuyển học sinh giỏi tỉnh
các môn văn hóa, giải toán bằng máy tính cá nhân để lập chính thức đội tuyển
thi học sinh giỏi tỉnh, quốc gia cho lớp 12 năm sau được dạy bồi dưỡng ngay từ
hè lớp 11, còn đối với khối10 thi để phát hiện tài năng đến lớp 11 lấy bổ sung
vào đội tuyển lớp 12 nếu có, để các môn không dẫm đạp, chồng chéo, lôi kéo
học sinh vào đội tuyển trên cơ sở thỏa thuận của giáo viên, năng lực và tự
nguyện của học sinh với sự chỉ đạo của nhà trường. Nhà trường đã tạo ra sức
mạnh tổng hợp các giáo viên, các bộ phận tổ chức đoàn thể trong nhà trường tạo
điều kiện động viên các em học đội tuyển để sao cho thi đạt kết quả cao nhất.
Năm học 2011 – 2012 nhà trường tăng cường giáo viên bồi dưỡng thi học sinh
giỏi cho các môn Địa lý, Giáo dục công dân, Sinh học, Hóa học và giải toán
bằng máy tính cá nhân thi quốc gia. Thời gian học bồi dưỡng đội tuyển học sinh
giỏi không được nhiều vì các em phải học đều các môn để thi đại học, do vậy
các thầy cô phải bồi dưỡng học sinh giỏi vào các môn buổi chiều từ 16 giờ đến
17 giờ, 15 phút đầu giờ hoặc các giờ trống.
- Hiệu trưởng trực tiếp làm việc với các giáo viên dạy bồi dưỡng đội
tuyển để yêu cầu giáo viên phân loại chất lượng đội tuyển, dạy sát đối tượng,
những em tiếp thu chậm, chăm chỉ nhưng không thông minh thì giáo viên dạy
bồi dưỡng những kiến thức trọng tâm giúp các em nắm chắc kiến thức cơ bản để
phấn đấu thi đạt các giải khuyến khích hoặc giải ba. Những em học tốt ngoài

việc nắm vững kiến thức trọng tâm, phải dạy cho học sinh những kiến thức nâng
cao, làm thêm những bài tập khó cung cấp các tài liệu, tập san để họ sinh tự đọc,
tự học, phấn đấu để các em đạt giải nhất, nhì và lọt vào đội tuyển Quốc gia.

7
- Các giáo viên đứng đội tuyển phải lập kế hoạch dạy đội tuyển ngay từ
đầu năm học và lên nội dung chương trình giảng dạy đội tuyển trên cơ sở tham
khảo kinh nghiệm của đồng nghiệp.
5. Giao chỉ tiêu điểm bình quân thi đại học cho từng lớp ở khối 12 trên
cơ sở chất lượng đại trà, thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp, thi đại học
- Chất lượng đại trà năm học 2011 – 2012
Số học
sinh toàn
trường
(1430 hs)
Xếp loại học lực
Loại kém Loại yếu Loại TB Loại khá Loại giỏi
SL % SL % SL % SL % SL %
0 0.00 7 0.49 382 26.71 984 68.81 57 3.99
- Học sinh khối 12 tốt nghiệp năm học 2011 – 2012
TT Lớp

số
SL
Đậ
u
T/L
toàn
trường
Tính tỷ lệ Tính tỷ lệ

XLTN
TB
XLHL
TB
XLT
N
giỏi
XLHL
giỏi
Tỷ
lệ
XLTN
khá
XLHL
khá
Tỷ
lệ
1 12A1 55 55 100 1 3 33 35 52 67 19 0
2 12A2 55 55 100 1 2 50 28 38 74 26 15
3 12A3 51 51 100 4 5 80 20 31 65 27 15
4 12A4 52 52 100 0 3 0 24 32 75 28 17
5 12A5 49 49 100 0 1 0 21 28 75 28 20
6 12A6 51 51 100 1 2 50 39 44 89 11 5
7 12A7 49 49 100 3 3 100 27 34 79 19 12
8 12A8 54 54 100 0 0 0 14 26 54 40 28
9 12A9 45 45 100 0 1 0 12 22 55 33 20
10 12A10 44 44 100 0 0 0 10 24 42 34 20
11 TSTD 1 1 100 0 0 0 0 0 0 1 1
Cộng 506 506 100 10 10 50 230 331 69 265 153


Đậu tốt nghiệp đạt tỷ lệ 100% trong đó: Tốt nghiệp loại giỏi: 10/ 506 em = 1,37 %
Tốt nghiệp loại khá: 230/ 506 em = 45,5 %
Trên cơ sở điểm thi, điểm tổng kết lớp 10, lớp 11 để làm cơ sở giao
khoán điểm bình quân thi đại học cho từng lớp 12 theo công thức: (Tổng điểm
bình quân thi tuyển sinh vào lớp 10 không nhân hệ số của lớp + điểm bình quân
văn hóa lớp 11x3) / 2 – sai số ( từ 2 đến 3 điểm cho từng lớp, ban cụ thể).
Cụ thể trong 2 năm học vừa qua nhà trường đã giao chỉ tiêu điểm bình
quân thi đại học cho các lớp 12 của nhà trường như sau:


8
Năm học 2010 - 2011:
Lớp C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10
ĐBQ 19.0 19,0 17,0 15,0 14,0 14,0 13,5 10,0 10,0 10,5
Năm học 2011 - 2012:
Lớp A1 A2 A3 A4 A5 A6 A7 A8 A9 A10
ĐBQ 19,74 18,24 18,52 14,57 14,59 14,79 13,0 13,27 11,4 10,78
- Chất lượng mũi nhọn
+ Học sinh giỏi tỉnh năm học 2011- 2012 đạt 129 giải, trong đó: 13 giải nhất;
21 giải nhì; 44 giải ba; 51 giải khuyến khích. Riêng 10 môn văn hóa đạt 83 giải
trong đó: 6 giải nhất; 13 giải nhì; 30 giải ba; 34 giải khuyến khích, xếp thí nhì
toàn tỉnh, chỉ sau THPT chuyên Lam Sơn.
+ Hội thi tin học trẻ toàn tỉnh năm 2012 do Tỉnh đoàn phối hợp cùng liên Sở,
Ban, ngành tổ chức, nhà trường có em Nguyễn Thanh Hiếu họ sinh lớp 11B1 đạt
giải khuyến khích.
+ Học sinh giỏi quốc gia giải toán bằng máy tính đạt 02 giải trong đó có 01
giải nhất – huy chương vàng môn hóa, 01 giải ba – Huy chương đồng môn Vật
lý.
+ Học sinh lớp 12 thi đại học kết quả cụ thể của các lớp như sau:
T

T
Lớp Sĩ
số
SL
HS
thi
Đại
học
SL
HS
đậu
Đại
học
SL
HS
thi
Cao
đẳng
SL
HS
đậu
Cao
đẳng
Chỉ tiêu nhà
trường giao
Điểm thi
đại họ
tính bình
quân từng
lớp

Tăng
(+),
giảm
(-)
Điểm
TBC
Tỷ lệ %
đậu đại
học
1
12A1 55
55 55 0 89 19,74 80 18,2 -1,54
2
12A2 55
54 41 11 85 18,24 65 15,62 -2,62
3
12A3 51
46 30 18 67 18,52 65 13,90 -4,62
4
12A4 52
44 25 21 69 14,57 50 13,28 -1,29
5
12A5 49
45 15 15 83 14,59 50 12,57 -2,02
6
12A6 51
47 24 12 54 14,79 50 15,08 +0,29
7
12A7 49
34 30 05 34 13,00 50 17,05 +4,05

8
12A8 54
46 22 10 58 13,27 50 12,04 -0,87
9
12A9 45
25 07 11 27 11,40 10 10,74 -0,66
10
12A10 44
29 06 09 31 10,78 10 9,53 -1,25
Cộng
505
425 257 112 597
Học sinh khối 12 toàn trường đậu đại học đạt tỷ lệ 59%; Điểm bình
quân đạt 13,48 điểm xếp thứ 231 của cả nước và đứng thứ 7 toàn tỉnh sau THPT
chuyên Lam Sơn; Hàm Rồng; Bỉm Sơn; Lê Lợi; Hậu Lộc I; Đào Duy Từ (tăng 5
bậc so với năm 2010 – 2011). Nhiều môn điểm bình quân xếp thứ hạng cao
trong tỉnh: Môn Hóa học xếp thứ 5; Môn Toán xếp thứ 6; Môn Địa lý xếp thứ 8;
Môn Lịch sử xếp thứ 9.

9
6. Chính sách thi đua khen thưởng
Thông qua hội nghị công nhân – viên chức đầu năm, nhà trường đã xây
dựng chế độ thi đua khen thưởng.
- Đối với lớp đạt điểm bình quân thi đại học và tỷ lệ học sinh đậu đại học
nhà trường giao: thưởng 1.000.000 đ cho giáo viên dạy khối thi đại học và giáo
viên chủ nhiệm
- Đối với lớp vượt chỉ tiêu: tăng 0,1 điểm (phần trăm điểm làm tròn
thông thường lên phần 10) thưởng 300.000 đ/lớp khối; 400.000 đ/lớp cơ bản cho
giáo viên dạy môn học sinh thi đại học và giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Học sinh thi đại học đạt điểm 10/10 thưởng cho giáo viên và học sinh

mỗi người 200.000 đ, học sinh thi đậu thủ khoa quốc gia thưởng cho học sinh,
giáo viên bộ môn 1.000.000 đ/người, thủ khoa trường đại học thưởng 500.000
đồng/ 1 người.
- Học sinh đạt giải Quốc gia
+ Giải nhất: thưởng cho học sinh và giáo viên 4.000.000 đ/người
+ Giải nhì: thưởng cho học sinh và giáo viên 3.000.000 đ/người
+ Giải ba: thưởng cho học sinh và giáo viên 2.000.000 đ/người
+ Giải khuyến khích: thưởng cho học sinh và giáo viên 1.000.000
đ/người
- Học sinh đạt giải tỉnh
+ Giải nhất: thưởng cho học sinh và giáo viên 400.000 đ/người
+ Giải nhì: thưởng cho học sinh và giáo viên 300.000 đ/người
+ Giải ba: thưởng cho học sinh và giáo viên 150.000 đ/người
+ Giải khuyến khích: thưởng cho học sinh và giáo viên 100.000 đ/người
- Tăng lương sớm cho giáo viên có thành tích xuất sắc trong dạy bồi
dưỡng đội tuyển học sinh giỏi tỉnh, quốc gia, học sinh thi đậu vào các trường đại
học: Giáo viên có học sinh đạt giải quốc gia, dạy bồi dưỡng họ sinh giỏi tỉnh thi
100% đạt giải trong đó có giải nhất hoặc hai lần liên tục có 80% họ sinh đạt giải
trong đó có giải nhì. Giáo viên Chủ nhiệm, giáo viên bộ môn mà có học sinh đậu
thủ khoa quốc gia đại học 30/30, vượt chỉ tiêu điểm bình quân thi đại học, tỷ lệ
học sinh đỗ đại học mà nhà trường giao khoán ngay đầu năm cho các lớp. Các
giáo viên đều được xét tăng lương sớm một lần hay nhiều lần trong thời gian
công tác tại trường. Với chính sách động viên, khen thưởng, kích cầu kịp thời
đã tạo ra động lực để giáo viên làm việc hết mình, say sưa với chuyên môn, đầu
tư thời gian cho chuyên môn, không ngừng tự học để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhà trường là nâng
cao chất lượng giáo dục.
7. Tổ chức các cuộc họp, hội nghị với học sinh, phụ huynh khối 12.
Trên cơ sở năng lực học cụ thể của từng học sinh, sau khi có kết quả thi
thử đại học lần 2 và qua các lần thi thử đại học là cơ sở để Ban giám hiệu chỉ

đạo các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức các hội nghị, tiến hành
họp phụ huynh theo đơn vị lớp và tư vấn cụ thể cho từng học sinh và phụ huynh


10
trong việc lựa chọn trường thi, khối thi phù hợp với năng lực, sở trường của các
em.
- Chọn trường thi: trên cơ sở điểm chuẩn vào trường, vào các khoa hàng
năm và đặc biệt là những năm gần đây để học sinh có thể lựa chọn trên cơ sở
căn cứ vào lực học của mình.
- Chọn khối thi: các em đã định hình khối cho mình ngay từ khi vào lớp
10. Do đó chỉ cần tư vấn thêm đối với các em học khối A thì học thêm môn Sinh
học để có thể thi khối B ở đợt 2 hoặc môn tiếng Anh để thi thêm khối A1
- Chọn ngành thi: Phải bắt đầu từ nhu cầu xã hội lúc này cần ngành gì để
sau này các em ra trường có thể lựa chọn được việc làm trên cơ sở khả năng,
năng lực của các em và cần phải tính đến nhu cầu sau 4 năm khi các em tốt
nghiệp ra trường .
Tất cả nội dung tư vấn cho học sinh và phụ huynh trên cần dựa vào
các tài liệu tuyển sinh do Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục, Phòng Lao động các huyện,
các trường nghề trong tỉnh và cả nước.
- Đối với những học sinh có lực học yếu và trung bình giáo viên phân
tích cho phụ huynh và học sinh thấy được mục tiêu của các em là đậu tốt nghiệp
và hướng học nghề hoặc học Trung cấp. Không nên làm hồ sơ thi đại học và cao
đẳng.
8. Số học sinh dăng ký thi Đại học, Cao đẳng. Kết quả điểm bình quân
thi đại học và xếp thứ tự của trường trong 4 năm vừa qua.
TT Năm học
Số lượt HS
dự thi đại
học

Số lượng
học sinh
đậu đại
học
Điểm bình
quân thi đại
học
Xếp thứ
hạng
trong tỉnh
Xếp thứ
hạng trong
cả nước
1 2008-2009 764 345 12,9 17 281
2 2009-2010 739
38
5
12,3 15 280
3 2010-2011 712 356 13,5 12 218
4 2011-2012 595 251 13,48 7 231
Trên cơ sở phân luồng, hướng nghiệp, số lượt học sinh làm hồ sơ dự thi
đại học của nhà trường qua 4 năm đã có sự thay đổi rõ rết. Hầu hết các em học
sinh yếu, trung bình không thi đại học mà lựa chọn việc học nghề sau khi tốt
nghiệp THPT. Số lượng % học sinh đậu học ở các lớp của trường ngày càng
cao. Đặc biệt trong năm học 2011 – 2012 điểm bình quân thi đại học của nhà
trường là 13, 48 xếp thứ 7 toàn tỉnh và 231 trong cả nước.
C. Kết luận và đề xuất
Chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường nói chung và chất
lượng văn hóa nói riêng trong đó phải nói đến chất lượng mũi nhọn: thi học sinh
giỏi tỉnh, quốc gia, học sinh khối 12 thi đậu đại hoc, cao đẳng do đổi mới công

tác quản lý, đổi mới kiểm tra, đánh giá, dạy bồi dưỡng sát đối tượng, khen
thưởng, động viên kịp thời mà đặc biệt là việc: “ Phân luồng học sinh khối 12


11
nhằm nâng cao chất lượng điểm bình quân thi đại học” đã góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục của nhà trường. Đặc biệt trong năm học 2011 – 2012 nhà
trường đã đạt thành tích cao nhất trong 23 năm từ khi thành lập đến nay và dẫn
đầu các trường THPT trong cả huyện về học sinh giỏi tỉnh, học sinh khối 12 thi
đậu đại học đại học, cao đẳng.
Đối với các nhà trường, ngành: Sở - Bộ phải nhìn nhận, đánh giá
xếp loại, thi đua khen thưởng một cách “ động” từng năm học, lấy chất lượng
giáo dục và đào tạo: kết quả xếp loại 2 mặt; kết quả thi tốt nghiệp lớp 12, thi đại
học, thi học sinh giỏi tỉnh, quốc gia làm cốt lõi .
Nhà giáo - người quản lý, thầy cô giáo vốn lao động bền bỉ, âm thầm; để
tăng được 1% về chất lượng, tăng được 0,5 điểm - 1,0 điểm bình quân thi đại
học của lớp của nhà trường, thứ bậc thi học sinh giỏi tỉnh xếp một chữ số chưa
nói là xếp nhất, nhì, ba, có được học sinh lọt vào đội tuyển quốc gia của tỉnh và
thi đạt giải quả là lao động gian truân, kỳ công, vất vả phải đổ mồ hôi và huy
động chất xám đến tối đa của các nhà quản lý, cán bộ giáo viên của các nhà
trường nên rất mong được Ban giám đốc, phòng ban cơ quan chuyên môn, Sở
giáo dục và Đào tạo trân trọng động viên kịp thời.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm quản lý của tôi trong quá trình làm
công tác quản lý ở nhà trường THPT Hoằng Hóa 4, những kinh nghiệm đó đã
được chúng tôi áp dụng thực tiễn và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của
nhà trường mà đặc biệt đã nâng cao chất lượng điểm bình quân thi đại học.
Chúng tôi xem đó là những bài học kinh nghiệm quản lý, rất mong được sự góp
ý của các đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2013

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Nguyễn Ngọc Đô


12

×