Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn vận dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực vào dạy môn gdcd lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.77 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO
DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
Người thực hiện: Nguyễn Thị Liên
Chức vụ : Giáo Viên
SKKN môn : Giáo dục công dân
THANH HOÁ NĂM 2013
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trang 1
II. GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ Trang 2
1. Giới thiệu một số kĩ thuật dạy học tích
cực Trang 2
1.1 Kĩ thuật khăn trải
bàn Trang 2
1.2 Kĩ thuật các mảnh
ghép Trang 5
1.3. Kĩ thuật
KWL Trang 6
2. Thực trạng của việc vận dụng các kĩ thuật dạy học vào dạy môn
giáo dục công
dân
Trang 8
3. Một số ví dụ cụ thể áp dụng kĩ thuật dạy học tích
cực Trang 9
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN
NGHỊ Trang 15
1. Kết


luận Trang
15
2. Kiến nghị và đề
xuất Trang 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên GDCD 10. NXB Giáo Dục – Hà Nội
2. Tài liệu BDTX Giáo viên THPT chu kỳ III (2004 – 2007) -
Nhiều tác giả - NXB Giáo Dục - Quyển I lớp 10.
3. Đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD – Lưu Thị Thuỷ -
NXB Giáo Dục.
4. Những vấn đề chung về đổi mới Giáo Dục THCS môn GDCD.
NXB Giáo dục – 2007. Nguyễn Hải Châu.
5. Sách Giáo khoa môn GDCD 10 – NXB Giáo dục - Nhiều tác
giả.
6. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD trung
học phổ thông – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
7. Bài tập tình huống GDCD 10. NXB Giáo dục nhiều tác giả.
8. Tài liêu tập huấn các kĩ thuật dạy học tích cực - Bộ giáo dục và
đào tạo 2011
9. Tài liệu thống kê về ô nhiễm môi trường năm 2012 của Bộ Tài
Nguyên và Môi Trường Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
10. Trang Web: www.cac ky thuat day hoc tich cuc.com.vn
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy học là một môn nghệ thuật. Nghệ thuật ấy không phải ai
cũng thể hiện giống nhau. Vì vậy “ Đổi mới phương pháp dạy học” để
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm từng lớp học, từng môn học là nhiệm vụ “ Sống còn” của
mỗi người giáo viên.
Môn GDCD ở trường THPT có vị trí hành đầu trong việc định
hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ

thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức- nhân văn, đường lối chính
sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế thừa các truyền thống
đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và CNXH; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời
đại.
Với vị trí và vai trò quan trọng như vậy. Tuy nhiên, môn GDCD
vẫn bị coi là môn học khó, khô và khổ. Nhiều giáo viên chỉ dạy qua
loa, chiếu lệ; còn học sinh thì coi thường môn học. Vì vậy, đòi hỏi mỗi
giáo viên dạy bộ môn phải có những phương pháp thích hợp để tạo
hứng thú cho học sinh trong các giờ học. Để mỗi giờ học không còn là
“nỗi khổ” cho cả thầy và trò.
Xuất phát từ vai trò của bộ môn, thời gian qua bộ giáo dục và
đào tạo cũng đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học bộ môn. Ban hành hưỡng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức – kĩ năng,
đưa ra một số kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng trong dạy- học
môn GDCD ở trường THPT Qua việc áp dụng những kĩ thuật dạy
học tích cực vào bài dạy, tôi thấy có hiệu quả, tạo được hứng thú cho
học sinh trong các bài học. VÌ vậy tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Vận
dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy GDCD lớp 10 ”
làm sáng kiến kinh nghiệm với hi vọng được chia sẻ những hiểu biết
của mình với đồng nghiệp đồng thời cùng nhau vận dụng vào thực tiễn
để nâng cao chất lượng môn GDCD

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phương pháp và hình thức dạy học môn GDCD rất phong phú,
đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện đại: (thảo luận nhóm, đóng
vai, giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, trò chơi, dự
án, động não…)và các phương pháp truyền thống:(thuyết trình, đàm
thoại, kể chuyện…). Bên cạnh những phương pháp dạy học lại có các
kĩ thuật dạy học hỗ trợ. Mỗi phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học

đều có mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài và đòi
hỏi những điều kiện thực hiện riêng. Vì vậy, giáo viên không nên phủ
định hoặc lạm dụng phương pháp nào. Điều quan trọng là căn cứ vào
nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ nhận thức của học
sinh và năng lực, sở trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và sử dụng phối hợp các
phương pháp dạy học một cách hợp lý.Trong dạy học môn GDCD, có
thể vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường hiệu quả học tập
- Tăng cường trách nhiệm cá nhân
- Yêu cầu áp dụng nhiều năng lực khác nhau
- Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, chia sẻ kinh nghiệm
1. Giới thiệu một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học môn
GDCD
1.1. Kĩ thuật “khăn trải bàn”
1.1.1. Thế nào là kĩ thuật “ khăn trải bàn”?
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa
hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS và HS
1.1.2. Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác
nhau
- Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề
- Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác
- Sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ tạo
cơ hội nhiều hơn cho học tập có sự phân hóa
- Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác,

giao tiếp, học cách chia sẽ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau.
- Nâng cao hiệu quả học tập
1.1.3. Cách tiến hành
- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ
giấy A0
- Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các
phần xung quanh. Phân xung quanh được chia theo số thành viên của
nhóm (ví dụ nhóm 4 người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với
từng phần xung quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung
suy nghĩ trả lời câu hỏi/nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của
mỗi cá nhân và viết vào phân giấy của mình trên tờ A0.
- Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận
nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0
“khăn phủ bàn”.
1.1.4. Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật khăn phủ bàn
- Câu hỏi thảo luận là câu hỏi mở
- Trong trường hợp số học sinh trong nhóm quá đông, không đủ
chỗ trên “khăn phủ bàn”, có thể phát cho học sinh những mảnh giấy
Viết ý kiến Cá nhân
Viết ý kiến Cá nhân
V
i
ế
t

ý

k
i

ế
n

C
á

n
h
â
n
Viết ý
kiến Cá
nhân
Ý kiến chung của
nhóm
nhỏ để học sinh ghi ý kiến cá nhân, sau đó đính vào phần xung quanh
“khăn phủ bàn”.
- Trong quá trình thảo luận thống nhất ý kiến, đính những ý kiến
thống nhất vào giữa “khăn phủ bàn”. Những ý kiến trung nhau có thể
đính chồng lên nhau.
- Những ý kiến không thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và
được giữ lại ở phần xung quanh của “khăn phủ bàn”.
Tóm lại:
Kĩ thuật khăn phủ bàn là một kĩ thuật dạy học đơn giản, dễ thực
hiện, có thể tổ chức trong tất cả các bài học, môn học, cấp học giống
như học theo nhóm. Tuy nhiên kĩ thuật khăn phủ bàn khắc phục được
những hạn chế của học theo nhóm. Trong học theo nhóm, nếu tổ chức
không tốt, đôi khi chỉ có các thành viên tích cực làm việc, các thành
viên thụ động thường hay ỷ lại, trông chờ, “nghỉ ngơi” như người
ngoài cuộc hoặc như một quan sát viên. Do đó dẫn đến mất nhiều thời

gian và hiệu quả học tập không cao.
Trong kĩ thuật khăn phủ bàn đòi hỏi tất cả các thành viên phải
làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận
nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động
nhóm. Từ đó, các cuộc thảo luận thường có sự tham gia của tất cả các
thành viên và các thành viên có cơ hội chia sẽ ý kiến, kinh nghiệm của
mình, tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực.
Nhờ vậy hiệu quả học tập được đảm bảo và không mất thời gian cũng
như giữ được trật tự trong lớp.
1.2. Kĩ thuật “các mảnh ghép”
1.2.1. Kỹ thuật “các mảnh ghép” là kĩ thuật dạy học mang tính hợp
tác, kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải
quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia tích cực cũng
như nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác.
1.2.2. Cách tiến hành:
Vòng 1: Nhóm chuyên sâu
Lớp học sẽ được chia thành các nhóm (khoảng từ 3- 6 người).
Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ với những nội dung học tập khác
nhau. Ví dụ:
+ Nhóm 1: Nhiệm vụ A
+ Nhóm 2: Nhiệm vụ B
+ Nhóm 3: Nhiệm vụ C
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về
câu hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình.
Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm
đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở
thành chuyên gia của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại
câu trả lời của nhóm ở vòng 2.
Vòng 2: Nhóm mảnh ghép
Hình thành nhóm mới khoảng từ 3-6 người (bao gồm 1-2 người

từ nhóm 1; 1-2 từ nhóm 2; 1-2 người từ nhóm 3…), gọi là nhóm mảnh
ghép.
Các câu hỏi và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm
mới chia sẻ đầy đủ với nhau.
Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu, được tất cả nội dung ở
vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết (lưu
ý nhiệm vụ mới này phải gắn liền với kiến thức thu được ở vòng 1)
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ trình bày và chia sẻ kết quả.
1.2.3. Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kỹ thuật các mảnh
ghép:
- Đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép lại với nhau có thể
hiểu được bức tranh toàn cảnh của một vấn đề và là cơ sở để giải quyết
một nhiệm vụ phức hợp ở vòng 2.
- Các chuyên gia ở vòng 1 có thể có trình độ khác nhau, nên cần
xác định yếu tố hỗ trợ kịp thời để tất cả mọi chuyên gia có thể hoàn
thành nhiệm vụ ở vòng 1, chuẩn bị cho vòng 2.
- Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để đảm bảo các thành
viên có thể truyền đạt lại kiến thức cho nhau.
- Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ phức
hợp và chỉ có thể giải quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến
thức đã có ở vòng 1. Do đó cần xác định rõ những yếu tố cần thiết về
kiến thức, kĩ năng, thông tin,…cũng như các yếu tố hỗ trợ cần thiết để
giải quyết nhiệm vụ phức hợp này.
1.3. Kĩ thuật KWL
1.3.1. Kỹ thuật KWL: là sơ đồ liên hệ các kiến thức đã biết liên quan
đến bài học, các kiến thức muốn biết và các kiến thức học được sau bài
học.
Trong đó K(Know) - điều đã biết; W (Want to know) – điều muốn
biết; L (Learned) – điều đã học được.
1.3.2. Mục tiêu:

- Học sinh xác định động cơ, nhiệm vụ học tập và tự đánh giá kết
quả học tập sau nội dung/bài học thông qua việc xác định những hiểu
biết, kinh nghiệm và kiến thức đã có liên quan đến bài học, xác định
nhu cầu về kiến thức mới và đánh giá kết quả học tập của mình sau bài
học. Trên cơ sở kết quả thu được học sinh tự điều chỉnh cách học của
mình.
- Tăng cường tính độc lập của học sinh.
- Giáo viên có thể đánh giá được kết quả của giờ học thông qua
tự đánh giá, thu hoạch của học sinh. Trên cơ sở đó có thể điều chỉnh
cách dạy của mình cho phù hợp.
Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh xác định được nhiệm vụ học tập, nhu cầu, mong muốn
được trang bị thêm hiểu biết, kiến thức, kỹ năng qua bài học. Qua việc
nhìn lại những gì đã học được sau bài học, học sinh phân tích, đánh giá
những thong tin mới được hình thành và nhận thức được sự tiến bộ của
mình sau bài học.
1.3.3. Cách tiến hành:
Bước 1:
Sau khi giới thiệu bài học, mục tiêu cần đạt của bài học, Giáo viên
phát phiếu học tập “KWL” (Kỹ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân
hoặc nhóm học sinh).
Bước 2:
Hướng dẫn học sinh điền các thông tin vào phiếu học tập.
Bước 3:
Học sinh điền các thông tin trên phiếu như sau:
Tên bài học (hoặc chủ đề):…………………….
Tên học sinh (hoặc nhóm học sinh): …………………….
Lớp:………Trường:………………………
K W L
(Điều đã biết) (Điều muốn biết) (Điều đã học được

sau bài học)
-Yêu cầu HS viết vào cột K những gì đã biết liên quan đến nội
dung bài học hoặc chủ đề.
-Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung
bài học hoặc chủ đề.
Bước 4:
- Sau khi kết thúc bài học hoặc chủ đề, học sinh điền vào cột L
của phiếu những gì vừa học được. Lúc này, HS xác nhận về những
điều các em đã học được qua bài học đối chiếu với điều muốn biết, đã
biết để đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học.
2. Thực trạng của vấn đề
Tại Hội thảo “Đánh giá hiệu quả dạy học môn GDCD tháng
04/2009”, Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã có nhận định sau:
“Giáo viên dạy môn GDCD đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới
phương pháp dạy học.Tuy nhiên, hiện tượng dạy học lệ thuộc vào sách
giáo khoa và sách giáo viên còn phổ biến.Việc rèn luyện kỹ năng, giáo
dục thái độ và hành vi của học sinh trong dạy học môn GDCD thực
hiện chưa đạt được yêu cầu đề ra của chương trình. Nhiều nơi chủ yếu
chỉ sử dụng các thiết bị dạy học môn học tối thiểu do Bộ qui định,
chưa quan tâm đến việc tự làm thiết bị, đồ dùng dạy học. Nhiều cấp
quản lý chưa thực sự quan tâm đến môn GDCD, vẫn xem đó là môn
học phụ, nên chưa tạo điều kiện để giáo viên GDCD nâng cao chất
lượng dạy học…”
Thật vậy, nhận thức của đa số giáo viên về đổi mới phương pháp
dạy học là đúng nhưng chưa đầy đủ vị trí, vai trò môn học, còn xem
nhẹ, cải tiến các phương pháp còn chậm, vận dụng chưa đa dạng, kết
hợp chưa hiệu quả, ngại đổi mới vì không muốn mất nhiều thời gian,
công sức đầu tư cho việc chuẩn bị giờ dạy. Giáo viên giảng dạy vận
dụng phương pháp hiệu quả còn thấp, sử dụng hình thức còn đơn điệu,
chưa phù hợp với bài học,với thực tiễn, với đối tượng học sinh địa

phương.Thực hiện phương pháp dạy theo mô hình lấy học sinh làm
trung tâm chưa rõ ràng.Vận dụng các yếu tố trực quan để kích thích
người học chưa thật sự sinh động. Học sinh lĩnh hội kiến thức còn
nhàm chán.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, Bộ giáo dục
và đào tạo cũng đã ban hành tài liệu và tổ chức tập huấn cho giáo viên
về các kĩ thuật dạy học hiện đại. Từ đó giúp cho giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả của giờ dạy.
Nhà trường ủng hộ việc vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học
tích cực trong dạy học, có máy móc phục cho việc ứng dụng kĩ thuật
dạy học tích cực.
Học sinh nhiệt tình tham gia vào hoạt động để đổi mới phương
pháp học.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất phục vụ cho việc ứng dụng dạy học
còn hạn chế.
Một số học sinh còn yếu, lơ là, chưa tiếp cận tốt với các kĩ thuật
dạy học mới.
3. Một số ví dụ cụ thể áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực
Ví dụ 1: Ứng dụng kĩ thuật “ khăn trải bàn” và kĩ thuật các
mảnh ghép vào dạy bày bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức
Với mục tiêu: Giúp HS hiểu được thế nào là nhận thức, thực tiễn
và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.Nội dung kiến thức có mối
liên hệ với nhau, giáo viên có thể sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn và kĩ
thuật các mảnh ghép để hướng dẫn học sinh
*Sử dụng kĩ thuật “các mảnh ghép”
Trong mục 1 thế nào là nhận thức? Để HS hiểu được về hai giai
đoạn của quá trình nhận thức và rút ra ưu điểm và nhược điểm của
nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Giáo viên tổ chức cho HS
thảo luận theo kĩ thuật các mảnh ghép

Vòng 1: Giáo viên chia lớp thành hai nhóm lớn tương ứng với
hai dãy bàn là nhóm A và nhóm B. Trong mỗi nhóm A, B thì chia
thành các nhóm nhỏ ( mỗi bàn 1 nhóm nhỏ tương ứng với 4 HS). Số
lượng nhóm nhỏ tùy thuộc vào số lượng học sinh trong lớp.
Yêu cầu mỗi nhóm làm nhiệm vụ:
Nhóm A: Thế nào là nhận thức cảm tính? Nêu ví dụ minh họa?
Nhóm B: Thế nào là nhận thức lí tính? Nêu ví dụ minh họa?
HS trong mỗi nhóm tiến hành thảo luận trong 5 phút. Đảm bảo
tất cả các thành viên trong nhóm đều trả lời được, trình bày được kết
quả thảo luận của nhóm.
Hết thời gian thảo luận, HS sẽ chuyển nhóm.
Vòng 2: các nhóm mới được hình thành bằng cách sát nhập
thành viên của ½ HS của nhóm A với ½ thành viên của nhóm B. Như
vậy lúc này nhóm mới sẽ có thành viên của cả nhóm A và nhóm B.
Nội dung thảo luận của nhóm mới: Nêu ưu điểm và nhược điểm
của nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính?
Thời gian thảo luận của nhóm là 3 phút
Sau khi hết thời gian thảo luận. Giáo viên sẽ gọi bất kì học sinh
trong nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác bổ sung. Giáo viên sẽ
nhận xét và đưa ra kết luận
*Sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn
AA
A
BB B
A
A
B
B
B
B

B
A
A
A
Vòng 1
Vòng 2
Trong nội dung vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ( mục 3),
giáo viên tổ chức cho HS thảo luận theo kĩ thuật khăn trải bàn.
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm ( tương ứng với các tổ). Giáo
viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0. Trên tờ giấy được chia thành
nhiều phần, trong đó có phần trung tâm dành ghi ý kiến thống nhất của
cả tổ sau khi đã thảo luận và phần xung quanh ghi ý kiến của mối cá
nhân.
Nội dung thảo luận của các nhóm
Nhóm 1: tại sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? nêu ví dụ
minh họa?
Nhóm 2: Tại sao nói thực tiễn là động lực của nhận thức? Nêu ví
dụ minh họa?
Nhóm 3: Tại sao nói thực tiễn là mục đích của nhận thức? Nêu ví
dụ minh họa?
Nhóm 4: Tại sao nói thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý?
Nêu ví dụ minh họa?
Mỗi cá nhân trong nhóm sẽ làm việc độc lập trong 3 phút, tập
trung suy nghĩ trả lời cho câu hỏi của nhóm theo cách nghĩ của cá nhân
và ghi ý kiến của mình vào phần của mình trên tờ giấy A0. Nếu số
lượng thành viên trong nhóm đông, không đủ chỗ trên tờ giấy A0, giáo
viên có thể phát cho HS một tờ giấy A4 để HS ghi ý kiến của mình và
gắn vào phần xung quanh.
Sau đó nhóm thảo luận trong 3 phút để thống nhất ý kiến và ghi ý
kiến chung vào phần chính giữa của tờ giấy.

Hết thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày kết
quả thảo luận của nhóm. Học sinh sẽ cử đại diện trình bày kết quả mà
nhóm đã thống nhất. Học sinh các nhóm khác có thể bổ sung. Giáo
viên nhận xét, kết luận, cho điểm các nhóm.
Hình ảnh minh họa
Ví dụ 2: Ứng dụng kĩ thuật “ KWL” vào dạy bài 15 công
dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại
Bước 1: Giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh hoặc video
về ô nhiễm môi trường, bùng nổ về dân số, các dịch bệnh hiểm nghèo
để giới thiệu bài học. Sau đó giáo viên phát phiếu học tập cho HS theo
mẫu:
Tên bài học:……………………………………………
Tên học sinh: …………………………Lớp: ………….Trường:
…………
K
(Điều đã biết)
W
(Điều muốn biết)
L
(Điều đã học được
sau bài học)
Bước 2: Hướng dẫn học sinh điền vào phiếu học tập.
Yêu cầu HS viết vào cột K những gì HS biết liên quan đến nội dung
bài học.
Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học
Bước 3: Học sinh điền thông tin vào phiếu theo sự hướng
dẫn ở bước 2.
Tên bài học: Bài 15 CÔNG DÂN VỚI MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP
THIẾT CỦA NHÂN LOẠI
Tên học sinh: Nguyễn Văn A Lớp: 10 A1 Trường: THPT Đinh

Chương Dương
K
(Điều đã biết)
W
(Điều muốn biết)
L
(Điều đã học được
sau bài học)
Ô nhiễm môi trường
đang là vấn đề nóng
bỏng của nhân loại
hiện nay
Thực trạng của ô
nhiễm môi trường
như thế nào?
Nguyên nhân do
đâu ?
Hậu quả như thế nào?
Công dân cần làm gì
để bảo vệ môi
trường?
-
-
-
-
-
Sự bùng nổ về dân số
đang là vấn đề được
nhiều quốc gia trên thế
giới quan tâm

Thế nào là bùng nổ
về dân số?
Bùng nổ về dân số sễ
gây ra hậu quả gì?
Cần làm gì để hạn
chế sự bùng nổ về
dân số?
-
-
-
-
-
Hiện nay nhân loại
đang phải đối mặt với
nhiều bệnh, dịch hiểm
nghèo: Cúm gia cầm,
lao, sốt rét, dịch tả,
HIV/ AIDS…
Dịch bệnh hiểm
nghèo ảnh hưởng
như thế nào đến con
người và đời sống xã
hội?
Cách phòng ngừa,
đẩy lùi những dịch
bệnh hiểm nghèo?
-
-
-
-

Bước 4:
Sau khi kết thúc bài học, học sinh điền vào cột L của phiếu
những gì vừa học được. Lúc này, HS xác nhận về những điều các em
đã học được qua bài học đối chiếu với những điều muốn biết, đã biết
để đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc sử dụng các kỷ thuật dạy
học trong các tiết dạy đã đem lại kết quả tốt đẹp trong dạy và học .
Học sinh rất say mê hứng thú khi tìm hiểu bài học. Các em hiểu bài
nhanh và nắm bài vững. Số học sinh hiểu và nắm được bài ngay tại lớp
ngày càng tốt hơn. Các em yêu thích và say mê bộ môn hơn, số học
sinh giỏi và khá ngày càng tăng, số học sinh yếu cũng giảm dần. Vai
trò của bộ môn vì thế cũng được tăng lên.
Góp phần đổi mới công tác dạy học môn GDCD nó chung và
môn GDCD lớp 10 nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh.
Là giáo viên đang đứng trên bục giảng khi nghiên cứu đề tài này
nó giúp tôi nắm vững lí luận, nội dung và yêu cầu của một số kĩ thuật
dạy học tích cực có thể áp dụng có hiệu quả hơn trong quá trình dạy
học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua thời gian dài giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ bản thân tôi đã rút ra những kinh nghiệm
để có thể sử dụng tốt các kỷ thuật dạy học và mang lại hiệu quả cao
là:
- Cần tích cực nghiên cứu các kĩ thuật dạy học tích cực để vận
dụng một cách thành thạo và có hiệu quả vào quá trình dạy học.
- Cần có sự hỗ trợ tích cực về cơ sở vật chất từ phía nhà trường
để hỗ trợ cho việc dạy học.

- Vận dụng linh hoạt vào từng tiết học. Không làm hình thức,
không quá lạm dụng các kĩ thuật dạy học tích cực.
2. Những kiến nghị , đề xuất :
Để đảm bảo cho việc dạy và học môn GDCD đạt hiệu quả cao,
tôi xin có một số kiến như sau:
- Đối với Bộ GD & ĐT, sở GD & ĐT:
Cần hỗ trợ tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, các phương
tiện hỗ trợ dạy học như: máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt,các phòng
chức năng, đồ dùng dạy học, băng đĩa, các tư liệu tham khảo… Để tạo
điều kiện cho giáo viên có thể thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
GDCD đạt hiệu quả hơn
Tổ chức các lớp chuyên đề, tập huấn về kĩ thuật dạy học tích cực
cho giáo viên để triển khai đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ.
- Đối với các trường THPT
Không ngừng yêu cầu GV tự học, tự bồi dưỡng để năng cao năng
lực chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, phát huy tính độc lập, sáng tạo của HS.
Tạo điều kiện cho Gv sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong quá
trình dạy học.
Những vấn đề trình bày trong đề tài này chỉ theo tính chất chủ
quan. Trong thực tế giảng dạy tùy theo mục tiêu cụ thể của từng bài,
vào năng lực, trình độ học sinh , điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà giáo
viên có sự lựa chọn kỷ thuật dạy học tương ứng. Vì vậy khi thực hiện
khó tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự tham gia đóng góp ý
kiến của các cấp lãnh đạo, trao đổi kinh nghiệm của các đồng nghiệp
để đề tài được hoàn thiện hơn , có hiệu quả cao hơn khi áp dụng vào
thực tế giảng dạy ở các bộ môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội .
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 25 tháng 04 năm

2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết:
Nguyễn Thị Liên

×