SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"VẬN DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG
GIẢNG DẠY GDCD LỚP 10"
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy học là một môn nghệ thuật. Nghệ thuật ấy không phải ai cũng thể hiện giống nhau.
Vì vậy “ Đổi mới phương pháp dạy học” để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học là nhiệm vụ “ Sống
còn” của mỗi người giáo viên.
Môn GDCD ở trường THPT có vị trí hành đầu trong việc định hướng phát triển nhân
cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức-
nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế thừa các truyền
thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và
CNXH; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại.
Với vị trí và vai trò quan trọng như vậy. Tuy nhiên, môn GDCD vẫn bị coi là môn học
khó, khô và khổ. Nhiều giáo viên chỉ dạy qua loa, chiếu lệ; còn học sinh thì coi thường
môn học. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên dạy bộ môn phải có những phương pháp thích
hợp để tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học. Để mỗi giờ học không còn là “nỗi
khổ” cho cả thầy và trò.
Xuất phát từ vai trò của bộ môn, thời gian qua bộ giáo dục và đào tạo cũng đã có
nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Ban hành hưỡng dẫn thực
hiện chuẩn kiến thức – kĩ năng, đưa ra một số kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng
trong dạy- học môn GDCD ở trường THPT Qua việc áp dụng những kĩ thuật dạy học
tích cực vào bài dạy, tôi thấy có hiệu quả, tạo được hứng thú cho học sinh trong các bài
học. VÌ vậy tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực
trong giảng dạy GDCD lớp 10 ” làm sáng kiến kinh nghiệm với hi vọng được chia sẻ
những hiểu biết của mình với đồng nghiệp đồng thời cùng nhau vận dụng vào thực tiễn
để nâng cao chất lượng môn GDCD
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phương pháp và hình thức dạy học môn GDCD rất phong phú, đa dạng, bao gồm các
phương pháp hiện đại: (thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường
hợp điển hình, trò chơi, dự án, động não…)và các phương pháp truyền thống:(thuyết
trình, đàm thoại, kể chuyện…). Bên cạnh những phương pháp dạy học lại có các kĩ thuật
dạy học hỗ trợ. Mỗi phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học đều có mặt tích cực và hạn
chế riêng, phù hợp với từng loại bài và đòi hỏi những điều kiện thực hiện riêng. Vì vậy,
giáo viên không nên phủ định hoặc lạm dụng phương pháp nào. Điều quan trọng là căn
cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và
năng lực, sở trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của
trường mà lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học một cách hợp
lý.Trong dạy học môn GDCD, có thể vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường hiệu quả học tập
- Tăng cường trách nhiệm cá nhân
- Yêu cầu áp dụng nhiều năng lực khác nhau
- Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, chia sẻ kinh nghiệm
1. Giới thiệu một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học môn GDCD
1.1. Kĩ thuật “khăn trải bàn”
1.1.1. Thế nào là kĩ thuật “ khăn trải bàn”?
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và
hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS và HS
1.1.2. Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau
- Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề
- Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác
- Sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ tạo cơ hội nhiều hơn cho học
tập có sự phân hóa
- Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, học cách chia sẽ
kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau.
- Nâng cao hiệu quả học tập
1.1.3. Cách tiến hành
- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0
- Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phân
xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ nhóm 4 người). Mỗi người
ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu
hỏi/nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phân giấy của
mình trên tờ A0.
- Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến
và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn”.
1.1.4. Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật khăn phủ bàn
- Câu hỏi thảo luận là câu hỏi mở
- Trong trường hợp số học sinh trong nhóm quá đông, không đủ chỗ trên “khăn phủ bàn”,
có thể phát cho học sinh những mảnh giấy nhỏ để học sinh ghi ý kiến cá nhân, sau đó
đính vào phần xung quanh “khăn phủ bàn”.
- Trong quá trình thảo luận thống nhất ý kiến, đính những ý kiến thống nhất vào giữa
“khăn phủ bàn”. Những ý kiến trung nhau có thể đính chồng lên nhau.
- Những ý kiến không thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và được giữ lại ở phần xung
quanh của “khăn phủ bàn”.
Tóm lại:
Kĩ thuật khăn phủ bàn là một kĩ thuật dạy học đơn giản, dễ thực hiện, có thể tổ chức
trong tất cả các bài học, môn học, cấp học giống như học theo nhóm. Tuy nhiên kĩ thuật
Viết ý kiến Cá nhân
Viết ý kiến Cá nhân
V
i
ế
t
ý
k
i
ế
n
C
á
n
h
â
n
Viết ý
kiến Cá
nhân
Ý kiến chung của
nhóm
khăn phủ bàn khắc phục được những hạn chế của học theo nhóm. Trong học theo nhóm,
nếu tổ chức không tốt, đôi khi chỉ có các thành viên tích cực làm việc, các thành viên thụ
động thường hay ỷ lại, trông chờ, “nghỉ ngơi” như người ngoài cuộc hoặc như một quan
sát viên. Do đó dẫn đến mất nhiều thời gian và hiệu quả học tập không cao.
Trong kĩ thuật khăn phủ bàn đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ,
viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa hoạt động
cá nhân và hoạt động nhóm. Từ đó, các cuộc thảo luận thường có sự tham gia của tất cả
các thành viên và các thành viên có cơ hội chia sẽ ý kiến, kinh nghiệm của mình, tự đánh
giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy hiệu quả học tập được
đảm bảo và không mất thời gian cũng như giữ được trật tự trong lớp.
1.2. Kĩ thuật “các mảnh ghép”
1.2.1. Kỹ thuật “các mảnh ghép” là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác, kết hợp giữa cá
nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích
thích sự tham gia tích cực cũng như nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác.
1.2.2. Cách tiến hành:
Vòng 1: Nhóm chuyên sâu
Lớp học sẽ được chia thành các nhóm (khoảng từ 3- 6 người). Mỗi nhóm được giao một
nhiệm vụ với những nội dung học tập khác nhau. Ví dụ:
+ Nhóm 1: Nhiệm vụ A
+ Nhóm 2: Nhiệm vụ B
+ Nhóm 3: Nhiệm vụ C
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi
lại những ý kiến của mình.
Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả
các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành chuyên gia của lĩnh vực đã tìm hiểu và
có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2.
Vòng 2: Nhóm mảnh ghép
Hình thành nhóm mới khoảng từ 3-6 người (bao gồm 1-2 người từ nhóm 1; 1-2 từ nhóm
2; 1-2 người từ nhóm 3…), gọi là nhóm mảnh ghép.
Các câu hỏi và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy đủ
với nhau.
Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu, được tất cả nội dung ở vòng 1 thì nhiệm vụ
mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết (lưu ý nhiệm vụ mới này phải gắn liền với
kiến thức thu được ở vòng 1)
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ trình bày và chia sẻ kết quả.
1.2.3. Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kỹ thuật các mảnh ghép:
- Đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép lại với nhau có thể hiểu được bức tranh
toàn cảnh của một vấn đề và là cơ sở để giải quyết một nhiệm vụ phức hợp ở vòng 2.
- Các chuyên gia ở vòng 1 có thể có trình độ khác nhau, nên cần xác định yếu tố hỗ trợ
kịp thời để tất cả mọi chuyên gia có thể hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1, chuẩn bị cho
vòng 2.
- Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để đảm bảo các thành viên có thể truyền
đạt lại kiến thức cho nhau.
- Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ phức hợp và chỉ có thể giải
quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến thức đã có ở vòng 1. Do đó cần xác định rõ
những yếu tố cần thiết về kiến thức, kĩ năng, thông tin,…cũng như các yếu tố hỗ trợ cần
thiết để giải quyết nhiệm vụ phức hợp này.
1.3. Kĩ thuật KWL
1.3.1. Kỹ thuật KWL: là sơ đồ liên hệ các kiến thức đã biết liên quan đến bài học, các
kiến thức muốn biết và các kiến thức học được sau bài học.
Trong đó K(Know) - điều đã biết; W (Want to know) – điều muốn biết; L (Learned) –
điều đã học được.
1.3.2. Mục tiêu:
- Học sinh xác định động cơ, nhiệm vụ học tập và tự đánh giá kết quả học tập sau
nội dung/bài học thông qua việc xác định những hiểu biết, kinh nghiệm và kiến thức đã
có liên quan đến bài học, xác định nhu cầu về kiến thức mới và đánh giá kết quả học tập
của mình sau bài học. Trên cơ sở kết quả thu được học sinh tự điều chỉnh cách học của
mình.
- Tăng cường tính độc lập của học sinh.
- Giáo viên có thể đánh giá được kết quả của giờ học thông qua tự đánh giá, thu
hoạch của học sinh. Trên cơ sở đó có thể điều chỉnh cách dạy của mình cho phù hợp.
Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh xác định được nhiệm vụ học tập, nhu cầu, mong muốn được trang bị
thêm hiểu biết, kiến thức, kỹ năng qua bài học. Qua việc nhìn lại những gì đã học được
sau bài học, học sinh phân tích, đánh giá những thong tin mới được hình thành và nhận
thức được sự tiến bộ của mình sau bài học.
1.3.3. Cách tiến hành:
Bước 1:
Sau khi giới thiệu bài học, mục tiêu cần đạt của bài học, Giáo viên phát phiếu học tập
“KWL” (Kỹ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân hoặc nhóm học sinh).
Bước 2:
Hướng dẫn học sinh điền các thông tin vào phiếu học tập.
Bước 3:
Học sinh điền các thông tin trên phiếu như sau:
Tên bài học (hoặc chủ đề):…………………….
Tên học sinh (hoặc nhóm học sinh): …………………….
Lớp:………Trường:………………………
K W L
(Điều đã biết) (Điều muốn biết) (Điều đã học được
sau bài học)
-Yêu cầu HS viết vào cột K những gì đã biết liên quan đến nội dung bài học hoặc
chủ đề.
-Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học hoặc chủ
đề.
Bước 4:
- Sau khi kết thúc bài học hoặc chủ đề, học sinh điền vào cột L của phiếu những gì
vừa học được. Lúc này, HS xác nhận về những điều các em đã học được qua bài học đối
chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ
học.
2. Thực trạng của vấn đề
Tại Hội thảo “Đánh giá hiệu quả dạy học môn GDCD tháng 04/2009”, Bộ Giáo Dục và
Đào tạo đã có nhận định sau:
“Giáo viên dạy môn GDCD đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học.Tuy nhiên, hiện tượng dạy học lệ thuộc vào sách giáo khoa và sách giáo viên còn phổ
biến.Việc rèn luyện kỹ năng, giáo dục thái độ và hành vi của học sinh trong dạy học môn
GDCD thực hiện chưa đạt được yêu cầu đề ra của chương trình. Nhiều nơi chủ yếu chỉ sử
dụng các thiết bị dạy học môn học tối thiểu do Bộ qui định, chưa quan tâm đến việc tự
làm thiết bị, đồ dùng dạy học. Nhiều cấp quản lý chưa thực sự quan tâm đến môn GDCD,
vẫn xem đó là môn học phụ, nên chưa tạo điều kiện để giáo viên GDCD nâng cao chất
lượng dạy học…”
Thật vậy, nhận thức của đa số giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học là đúng
nhưng chưa đầy đủ vị trí, vai trò môn học, còn xem nhẹ, cải tiến các phương pháp còn
chậm, vận dụng chưa đa dạng, kết hợp chưa hiệu quả, ngại đổi mới vì không muốn mất
nhiều thời gian, công sức đầu tư cho việc chuẩn bị giờ dạy. Giáo viên giảng dạy vận dụng
phương pháp hiệu quả còn thấp, sử dụng hình thức còn đơn điệu, chưa phù hợp với bài
học,với thực tiễn, với đối tượng học sinh địa phương.Thực hiện phương pháp dạy theo
mô hình lấy học sinh làm trung tâm chưa rõ ràng.Vận dụng các yếu tố trực quan để kích
thích người học chưa thật sự sinh động. Học sinh lĩnh hội kiến thức còn nhàm chán.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã
ban hành tài liệu và tổ chức tập huấn cho giáo viên về các kĩ thuật dạy học hiện đại. Từ
đó giúp cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả của giờ dạy.
Nhà trường ủng hộ việc vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy
học, có máy móc phục cho việc ứng dụng kĩ thuật dạy học tích cực.
Học sinh nhiệt tình tham gia vào hoạt động để đổi mới phương pháp học.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất phục vụ cho việc ứng dụng dạy học còn hạn chế.
Một số học sinh còn yếu, lơ là, chưa tiếp cận tốt với các kĩ thuật dạy học mới.
3. Một số ví dụ cụ thể áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực
Ví dụ 1: Ứng dụng kĩ thuật “ khăn trải bàn” và kĩ thuật các mảnh ghép vào dạy bày
bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Với mục tiêu: Giúp HS hiểu được thế nào là nhận thức, thực tiễn và vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức.Nội dung kiến thức có mối liên hệ với nhau, giáo viên có thể sử dụng
kĩ thuật khăn trải bàn và kĩ thuật các mảnh ghép để hướng dẫn học sinh
*Sử dụng kĩ thuật “các mảnh ghép”
Trong mục 1 thế nào là nhận thức? Để HS hiểu được về hai giai đoạn của quá trình nhận
thức và rút ra ưu điểm và nhược điểm của nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Giáo
viên tổ chức cho HS thảo luận theo kĩ thuật các mảnh ghép
Vòng 1: Giáo viên chia lớp thành hai nhóm lớn tương ứng với hai dãy bàn là nhóm A và
nhóm B. Trong mỗi nhóm A, B thì chia thành các nhóm nhỏ ( mỗi bàn 1 nhóm nhỏ tương
ứng với 4 HS). Số lượng nhóm nhỏ tùy thuộc vào số lượng học sinh trong lớp.
Yêu cầu mỗi nhóm làm nhiệm vụ:
Nhóm A: Thế nào là nhận thức cảm tính? Nêu ví dụ minh họa?
Nhóm B: Thế nào là nhận thức lí tính? Nêu ví dụ minh họa?
HS trong mỗi nhóm tiến hành thảo luận trong 5 phút. Đảm bảo tất cả các thành viên trong
nhóm đều trả lời được, trình bày được kết quả thảo luận của nhóm.
Hết thời gian thảo luận, HS sẽ chuyển nhóm.
Vòng 2: các nhóm mới được hình thành bằng cách sát nhập thành viên của ½ HS của
nhóm A với ½ thành viên của nhóm B. Như vậy lúc này nhóm mới sẽ có thành viên của
cả nhóm A và nhóm B.
Nội dung thảo luận của nhóm mới: Nêu ưu điểm và nhược điểm của nhận thức cảm tính
và nhận thức lí tính?
Thời gian thảo luận của nhóm là 3 phút
Sau khi hết thời gian thảo luận. Giáo viên sẽ gọi bất kì học sinh trong nhóm trình bày kết
quả. Các nhóm khác bổ sung. Giáo viên sẽ nhận xét và đưa ra kết luận
*Sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn
Trong nội dung vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ( mục 3), giáo viên tổ chức cho
HS thảo luận theo kĩ thuật khăn trải bàn.
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm ( tương ứng với các tổ). Giáo viên phát cho mỗi nhóm
một tờ giấy A0. Trên tờ giấy được chia thành nhiều phần, trong đó có phần trung tâm
dành ghi ý kiến thống nhất của cả tổ sau khi đã thảo luận và phần xung quanh ghi ý kiến
của mối cá nhân.
Nội dung thảo luận của các nhóm
Nhóm 1: tại sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? nêu ví dụ minh họa?
Nhóm 2: Tại sao nói thực tiễn là động lực của nhận thức? Nêu ví dụ minh họa?
Nhóm 3: Tại sao nói thực tiễn là mục đích của nhận thức? Nêu ví dụ minh họa?
Nhóm 4: Tại sao nói thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý? Nêu ví dụ minh họa?
Mỗi cá nhân trong nhóm sẽ làm việc độc lập trong 3 phút, tập trung suy nghĩ trả lời cho
câu hỏi của nhóm theo cách nghĩ của cá nhân và ghi ý kiến của mình vào phần của mình
trên tờ giấy A0. Nếu số lượng thành viên trong nhóm đông, không đủ chỗ trên tờ giấy
AA
A
BB B
A
A
B
B
B
B
B
A
A
A
Vòng 1
Vòng 2
A0, giáo viên có thể phát cho HS một tờ giấy A4 để HS ghi ý kiến của mình và gắn vào
phần xung quanh.
Sau đó nhóm thảo luận trong 3 phút để thống nhất ý kiến và ghi ý kiến chung vào phần
chính giữa của tờ giấy.
Hết thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày kết quả thảo luận của
nhóm. Học sinh sẽ cử đại diện trình bày kết quả mà nhóm đã thống nhất. Học sinh các
nhóm khác có thể bổ sung. Giáo viên nhận xét, kết luận, cho điểm các nhóm.
Hình ảnh minh họa
Ví dụ 2: Ứng dụng kĩ thuật “ KWL” vào dạy bài 15 công dân với một số vấn đề cấp
thiết của nhân loại
Bước 1: Giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh hoặc video về ô nhiễm môi trường,
bùng nổ về dân số, các dịch bệnh hiểm nghèo để giới thiệu bài học. Sau đó giáo viên phát
phiếu học tập cho HS theo mẫu:
Tên bài học:……………………………………………
Tên học sinh: …………………………Lớp: ………….Trường: …………
K
(Điều đã biết)
W
(Điều muốn biết)
L
(Điều đã học được sau
bài học)
Bước 2: Hướng dẫn học sinh điền vào phiếu học tập.
Yêu cầu HS viết vào cột K những gì HS biết liên quan đến nội dung bài học.
Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học
Bước 3: Học sinh điền thông tin vào phiếu theo sự hướng dẫn ở bước 2.
Tên bài học: Bài 15 CÔNG DÂN VỚI MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CỦA NHÂN
LOẠI
Tên học sinh: Nguyễn Văn A Lớp: 10 A1 Trường: THPT Đinh Chương Dương
K
(Điều đã biết)
W
(Điều muốn biết)
L
(Điều đã học được sau
bài học)
Ô nhiễm môi trường
đang là vấn đề nóng
bỏng của nhân loại hiện
nay
Thực trạng của ô
nhiễm môi trường như
thế nào?
Nguyên nhân do đâu ?
Hậu quả như thế nào?
Công dân cần làm gì
để bảo vệ môi trường?
-
-
-
-
-
Sự bùng nổ về dân số Thế nào là bùng nổ về -
đang là vấn đề được
nhiều quốc gia trên thế
giới quan tâm
dân số?
Bùng nổ về dân số sễ
gây ra hậu quả gì?
Cần làm gì để hạn chế
sự bùng nổ về dân số?
-
-
-
-
Hiện nay nhân loại đang
phải đối mặt với nhiều
bệnh, dịch hiểm nghèo:
Cúm gia cầm, lao, sốt
rét, dịch tả, HIV/
AIDS…
Dịch bệnh hiểm nghèo
ảnh hưởng như thế
nào đến con người và
đời sống xã hội?
Cách phòng ngừa, đẩy
lùi những dịch bệnh
hiểm nghèo?
-
-
-
-
Bước 4:
Sau khi kết thúc bài học, học sinh điền vào cột L của phiếu những gì vừa học
được. Lúc này, HS xác nhận về những điều các em đã học được qua bài học đối chiếu với
những điều muốn biết, đã biết để đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ
học.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc sử dụng các kỷ thuật dạy học trong các tiết dạy
đã đem lại kết quả tốt đẹp trong dạy và học . Học sinh rất say mê hứng thú khi tìm hiểu
bài học. Các em hiểu bài nhanh và nắm bài vững. Số học sinh hiểu và nắm được bài ngay
tại lớp ngày càng tốt hơn. Các em yêu thích và say mê bộ môn hơn, số học sinh giỏi và
khá ngày càng tăng, số học sinh yếu cũng giảm dần. Vai trò của bộ môn vì thế cũng được
tăng lên.
Góp phần đổi mới công tác dạy học môn GDCD nó chung và môn GDCD lớp 10 nói
riêng theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Là giáo viên đang đứng trên bục giảng khi nghiên cứu đề tài này nó giúp tôi nắm vững lí
luận, nội dung và yêu cầu của một số kĩ thuật dạy học tích cực có thể áp dụng có hiệu quả
hơn trong quá trình dạy học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua thời gian dài giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ bản thân tôi đã rút ra những kinh nghiệm để có thể sử dụng tốt các kỷ thuật dạy
học và mang lại hiệu quả cao là:
- Cần tích cực nghiên cứu các kĩ thuật dạy học tích cực để vận dụng một cách thành thạo
và có hiệu quả vào quá trình dạy học.
- Cần có sự hỗ trợ tích cực về cơ sở vật chất từ phía nhà trường để hỗ trợ cho việc dạy
học.
- Vận dụng linh hoạt vào từng tiết học. Không làm hình thức, không quá lạm dụng các kĩ
thuật dạy học tích cực.
2. Những kiến nghị , đề xuất :
Để đảm bảo cho việc dạy và học môn GDCD đạt hiệu quả cao, tôi xin có một số kiến
như sau:
- Đối với Bộ GD & ĐT, sở GD & ĐT:
Cần hỗ trợ tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, các phương tiện hỗ trợ dạy học
như: máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt,các phòng chức năng, đồ dùng dạy học, băng đĩa,
các tư liệu tham khảo… Để tạo điều kiện cho giáo viên có thể thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học GDCD đạt hiệu quả hơn
Tổ chức các lớp chuyên đề, tập huấn về kĩ thuật dạy học tích cực cho giáo viên để
triển khai đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ.
- Đối với các trường THPT
Không ngừng yêu cầu GV tự học, tự bồi dưỡng để năng cao năng lực chuyên môn,
đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính độc lập, sáng tạo
của HS.
Tạo điều kiện cho Gv sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong quá trình dạy học.
Những vấn đề trình bày trong đề tài này chỉ theo tính chất chủ quan. Trong thực tế
giảng dạy tùy theo mục tiêu cụ thể của từng bài, vào năng lực, trình độ học sinh , điều
kiện hoàn cảnh cụ thể mà giáo viên có sự lựa chọn kỷ thuật dạy học tương ứng. Vì vậy
khi thực hiện khó tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến
của các cấp lãnh đạo, trao đổi kinh nghiệm của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện
hơn , có hiệu quả cao hơn khi áp dụng vào thực tế giảng dạy ở các bộ môn thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội .
Xin chân thành cảm ơn!