I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây và đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành cuộc cách mạng toàn diện
trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới giáo dục là một trong những trọng
tâm của công cuộc đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, báo cáo chính trị của
đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ”.
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương,
biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực
hiện các cuộc vận động lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một
tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá
nhiều về giáo dục nói chung, trong có bộ môn Vật lý nói riêng.
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về
trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để tất cả
các đối tượng học sinh này có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài
giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu là vấn đề đặt ra cho mỗi giáo
viên. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách
nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Cần xem xét những
học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những
biện pháp nhằm dẫn dắt các em thu được kết quả cao nhất, tránh cho các
em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là
điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng
nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được cả xã hội quan tâm và
tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà
phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn
phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn
1
với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp
phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương
pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc
lĩnh hội kiến thức.
Môn Vật lý trung học phổ thông là một môn học có thể nói là khó học,
khó hiểu với nhiều học sinh nhất là học sinh yừ mức trung bình trở
xuống nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và
phát triển tư duy của học sinh trong học tập, trong đời sống thực tiễn và
khoa học kĩ thuật với kiến thức bộ môn. Trong quá trình giảng dạy bộ
môn Vật lý, người thầy không những phải hướng tới mục tiêu là giúp
học sinh nắm được kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kĩ năng,
kĩ xảo, thái độ và động cơ học tập đúng đắn để cho học sinh có khả năng
tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới, khắc sâu thêm
kiến thức cũ đã được học mà còn giúp học sinh biết đưa kiến thức Vật lý
đã học vào đời sống, vào thực tiễn.
Từ thực tế dạy môn Vật lý ở Trường THPT Đinh Chương Dương–
Huyện Hậu lộc- là trường bán công được thành lập năm 1998 và mới
được chuyển sang hệ công lập từ năm 2010: Tỷ lệ học sinh yếu kém rất
cao, thậm chí có những lớp số học sinh này chiếm từ 50% dến 70%. Vì
vậy, Bản thân tôi và các đồng chí trong Vật lý cũng như trong trường
thường xuyên phải dạy các lớp có rất nhiều học sinh yếu kém. Kết quả là
có rất nhiều học sinh không những không tiến bộ mà còn yếu hơn, phải
tji lại, phải lưu ban và nhiều em phải chịu cảnh rời xa mái trường.Vì thế,
Tôi thiết nghĩ việc tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp giúp đỡ
những đối tượng học sinh này để các em tiến lên mức đạt yêu cầu và có
kết quả cao hơn nữa trong học tập nói chung và môn Vật lý nói riêng là
việc làm rất cần thiết. Nếu làm được điều này chúng ta sẽ nâng dần được
chất lượng giảng dạy nói chung và bộ môn Vật lý nói riêng, đồng thời sẽ
làm cho các em thích học, thích đến trường, yêu trường yêu lớp hơn và
đặc biệt sẽ giảm được số lượng học sinh bỏ học hơn.
Trong năm qua tôi luôn suy nghĩ tìm các nguyênnhân và các giải pháp
khắc phục, tôi đã vận dụng vào thực tiễn giảng day của bản thân và
truyền đạt thảo luận trong tổ chuyên môn để các đồng chí khác học tập.
Trong năm học 2012 – 2013, tôi được phân công dạy môn Vật lý ở các
lớp, 10A1, 12B2, 12B4, đây là hai trong các lớp có số học sinh yếu kém
2
nhiều nhất khối 12, có nhiều học sinh trong lớp nằm trong diện lưu ban
lại, đa số các học sinh này yếu ở tất cả các môn, trong đó có bộ môn Vật
lý.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học bắt dầu từ giai đoạn tổ chức
lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân tôi luôn nuôi một niềm hy vọng là
làm sao đề số học sinh yếu kém có hứng thú trong học tập, yêu học tập
và đặc biệt là thích học môn Vật lý. Và đây cũng chính là lí do năm nay
tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm trong công tác phụ đạo học sinh yếu
kém ” để viết.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung do Bộ GD &
ĐT phát động, trong đó có nội dung “Chống bệnh thành tích trong giáo
dục” là một trong những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và
nhà nước ta hiện nay nhằm đánh giá thực chất chất lượng học sinh. Bên
cạnh đó cũng phản ánh được chất lượng và hiệu quả giảng dạy của giáo
viên. Những học sinh lên lớp là những học sinh có kiến thức thực sự,
xứng đáng đựơc lên lớp. Những học sinh không đảm bảo được yêu cầu
sẽ không được lên lớp. Xuất phát từ vấn đề này, chúng ta không thể hiểu
theo hướng là vô tư để học sinh yếu kém “ở lại lớp” mà không có trách
nhiệm của giáo viên trong đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh
học yếu kém gồm có chủ quan và khách quan mà nếu giáo viên kịp thời
quan tâm, giáo dục sẽ giúp cho nhiều học sinh yếu kém tiến bộ và thoát
khỏi tình trạng yếu kém.
Những học sinh học tập yếu, kém vẫn luôn luôn tồn tại trong giáo
dục, tuy nhiên về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít là tùy ở từng
nhà trường và từng bộ môn. Mức độ tiến bộ của học sinh yếu, kém
nhanh hay chậm trong quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều
đáng quan tâm của riêng mỗi nhà trường, mỗi nhà quản lý giáo dục và
mỗi Thầy Cô giáo. Giúp đỡ học sinh yếu kém được gắn với cuộc vận
động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và “Mỗi thầy
cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Thực hiện
nghiêm túc cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD-ĐT phát động, cương
3
quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các lần tổ
chức kiểm tra - thi cử trong toàn ngành.
Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn có mục
đích nhằm giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức cơ bản, trọng
tâm đã tìm hiểu một cách chính xác mà trong giờ học vì một lí do nào đó
học sinh chưa nắm bắt được. Khi học sinh đã tiếp thu và vận dụng được
kiến thức trong bài học thì sẽ hình thành được sự hứng thú, say mê với
môn học. Từ đó các em sẽ xác định cho mình kế hoạch học tập, phương
pháp tự học, tự nghiên cứu, có tính độc lập cao trong tư duy nhận thức sẽ
thúc đẩy học sinh học tập tiến bộ…
Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải tìm cách
để bổ sung được những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là
những kiến thức cơ bản và trọng tâm trong mỗi bài học có trong sách
giáo khoa Vật lý ). Muốn làm tốt nhiệm vụ này thì bản thân giáo viên
cần phải nắm bắt chính xác và đánh giá được mức độ kiến thức đọng lại
ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để lên được kế hoạch phụ đạo, thiết kế
nội dụng tiết học phụ đạo sao cho có hiệu quả nhất.
Điều quan trọng ở đây là học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong
suy nghĩ và hành động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân
nhắc kĩ lưỡng những thông tin nhận được để “ lấp lại lỗ hổng kiến thức”
và phải luôn có hành động phản hồi lại kiến thức một cách chính xác,
khoa học nhất.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin được trình bày một số
nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía các Thầy Cô giáo giảng
dạy bộ môn làm đã làm tăng tỉ lệ học sinh yếu kém và một số giải pháp
cụ thể đối với bản thân người giáo viên trực tiếp giảng dạy để giảm bớt tỉ
lệ học sinh yếu kém môn Vật lý ở trường THPT hiện nay.
2. Thực trạng của vấn đề
Qua những năm công tác giảng dạy bộ môn Vật lý ở một trường bán
công, bản thân tôi xin đưa ra và phân tích những thực trạng và những
nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến chất lượng học tập của học
sinh yếu kém ở Trường THPT Đinh Chương Dương-Hậu lộc nói riêng
và các trường THPT nói chung sau đây:
a. Về phía nhà trường
4
Trường THPT Đinh Chương Dương được thành lập năm 1998, khi
mới thành lập là một trường bán công của Huyện Hậu lộc, đến năm 2010
trường mới được chuyển sang hệ công lập. Do đó, trong hơn 10 năm đầu
trường chỉ được xét tuyển các học sinh do các trường công lập trong
Huyện loại ra nên số học sinh này chỉ đảm bảo cho nhà trường về mặt số
lượng, còn về chất lượng 2 mặt là học lực và đạo đức thì rất thấp nên số
học sinh yếu kém chiếm từ 70-80%. Từ năm 2010 đến 2013 nhà trường
được chính thức thi tuyển học sinh nhưng vì lâu nay nhà trường không
có chất lượng học sinh, không tạo được uy tín trong lòng phụ huynh học
sinh nên chất lượng học sinh tuyển vào vẫn còn thấp, khoảng 50-60% là
yếu kém. Bên cạnh đó, Trường đóng trên địa bàn Thị trấn Huyện Hậu
lộc, là trung tâm phát triển kinh tế và cũng là nơi có nhiều trò chơi gải
trí, quán xá nên làm ảnh hưởng nhiều đến sự tu dưỡng và phấn đấu học
tập của học sinh.
b. Về phía học sinh
- Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết
tâm học tập, mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh
đuối sức trong học tập, không theo kịp các bạn, thiếu kiến thức, kỹ năng,
khả năng để học tập lớp đang học (ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ
học (hội chứng sợ học). Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn
chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa
chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo
viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ
tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy
khả năng của mình. Nhiều học sinh chưa biết đổi đơn vị, chưa biết làm
tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết.
- Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ
động, lệ thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng
không hiểu gì cả ), học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong
thi cử thì quay cóp và tài liệu.
- Học sinh lười học: Đa số các em không có thời gian cho việc tự học,
không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài,
không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ
5
phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các
em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những
nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được
nội dung đó nói lên điều gì.
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể
phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói
đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học
sinh.
- Một số học sinh đi học thất thường, đến trường nhưng không vào lớp
học, đặc biệt học sinh vắng nhiều vào các buổi chiều, ham chơi, la cà
quán xá.
c. Về phía gia đình học sinh
- Đa số Gia đình học sinh làm nghề nông nghiệp hoặc nghề biển nên
gặp nhiều khó khăn về kinh tế khiến trẻ không chú tâm vào học tập, cũng
như Bố mẹ lo làm lụng suất ngày không có thời gian quan tâm chú ý đến
việc học tập của các em; một số ít phụ huynh trong vùng đi làm ăn xa để
con ở nhà một mình hoặc với ông bà già lâu lâu mới về nên việc quan
tâm chú ý đến việc học tập của các em và phối hợp giáo dục với nhà
trường, với Thầy Cô giáo là rất hạn chế. Bên cạnh đó, có một bộ phận
lớn phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình
học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô Một số gia đình
không hạnh phúc ảnh hưởng đến học tập của học sinh. Người lớn chưa
làm gương về chuyện học.
- Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên
học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng cha mẹ cũng đồng ý cho
phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học,
mất dần căn bản và rồi yếu kém dần đi
d. Về phía giáo viên
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà
một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Người ta thường
nói “ có Thầy hay thì mới có trò giỏi ”. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt
trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải
6
giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt
mà điều quan trọng nhất ở đây là người giáo viên phải phân loại và nắm
rõ được các nhóm đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để từ đó
biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng
học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân
nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến
các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém. Chưa chịu khó tìm
tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động
của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình và
tâm tư tình cảm cũng như những khúc mắc ưu phiền, những lo âu bên
trong đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của từng học sinh đưa các
em đến tình trạng yếu kém.
e. Môi trường xã hội:
- Tình hình kinh tế xã hội của địa phương nhìn chung có đi lên nhưng
không ổn định, theo mùa vụ. Thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào
các cây trồng nông nghiệp, các giống vật nuôi, nhiều gia đình phải đi làm
ăn xa hoặc có người thân đi xuất khẩu lao động…điếu này đã gây tâm lí
buồn chán, lo lắng cho miếng ăn hoặc ỷ lại ở học sinh, nhiều khi còn tạo
cho học sinh suy nghĩ rằng không cần học cũng có cuộc sống thoải mái,
sung túc.
- Môi trường xung quanh của nhà trường ngày càng phức tạp, ngày
càng nhiều các hàng quánăn uống, các tụ điểm giải trí như: quán Internet,
quán Bi a tạo nên những cám dỗ lôi cuốn học sinh ăn chơi rồi bỏ học
nhiều, tiêu xài tiền bạc dẫn đến trộm cắp tài sản và đánh nhau, xin đểu
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
a. Các nguyên nhân từ phía người giáo viên trực tiếp giảng dạy
môn học
Qua việc thực tiễn công tác, cũng như qua quá trình điều hành quản lí
chuyên môn của một người tổ trưởng, bản thân tôi xin đưa ra một số
nguyên nhân từ phía người giáo viên giảng dạy bộ môn đã góp phần làm
tăng tỉ lệ học sinh yếu kém là:
7
- Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng
cũng có nhiều giáo viên trong tổ chuyên môn chỉ quen với việc dạy các
đối tượng học sinh Khá giỏi nhưng lại được phân công vào giảng dạy các
lớp có tỉ lệ học sinh yếu kém cao nên phương pháp lên lớp không phù
hợp dãn đến chất lượng bộ môn của lớp ngày càng đi xuống.
- Không thường xuyên đổi mới phương pháp mà vẫn sử dụng chủ yếu
là phương pháp cũ truyền thống, phương pháp giảng giải nêu vấn đề
thường là phương pháp chủ đạo làm cho học sinh tiếp nhận kiến thức
một cách thụ động nên rất dễ quên kiến thức nếu không học thuộc lòng,
học bài thường xuyên. Nhiều giáo viên còn đọc cho học sinh chép đã tạo
cho các em thói quen không tự rèn luyện được tính làm việc độc lập, tự
nghiên cứu có hiệu quả, thậm chí học sinh không quan tâm giáo viên
giảng bài như thế nào mà khi đọc cho ghi thì mới ghi vào vở, kiến thức
ghi có thể không chính xác do nghe lộn dẫn đến hiểu sai lệch kiến thức,
lâu dần sẽ mất căn bản môn học.
- Còn một số giáo viên chưa nắm chắc những những yêu cầu kiến thức
của từng bài dạy nên nhiều giáo viên còn “tham” kiến thức trong các tiết
dạy nên việc dạy học còn dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy
tiện, dạy cả những phần chỉ dành đọc thêm, đặc biệt với các giáo viên
mới ra trường mang tâm lí thể hiện bản thân, chưa chú trong đến đối
tượng học sinh.
- Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng
đối tượng; có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc
sâu kiến thức trọng tâm nên khi giáo viên đưa ra câu hỏi thì lập tức học
sinh không tự suy nghĩ trả lời mà lập tức cắm cúi vào sách giáo khoa,
vào tài liệu, có khi còn sợ bị gọi trả lời, làm tiết học trở nên trầm trầm rời
rạc. Kết quả là giáo viên thường xuyên bị “ cháy” giáo án, học sinh nắm
bài hời hợt trở thành yếu kém làm hiệu quả tiết dạy chưa cao .
- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo
nhóm đối tượng còn hạn chế, việc tổ chức các hoạt động còn mang tính
hình thức chưa phù hợp.
- Môn Vật lý là một môn học thực nghiệm nhưng một lượng lớn giáo
viên sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn
hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của đồ dùng dạy học; một số giáo
viên thì ngại sử dụng nên đã làm cho việc tiếp thu kiến thức của học
8
sinh trở nên thụ động, không tạo được hứng thú và kích thích niềm say
mê môn học của học sinh.
- Còn một số giáo viên phân loại học sinh chưa tốt, chưa thực sự chú ý
đúng mức đến đối tượng học sinh yếu, kém nên tốc độ giảng dạy kiến
thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho các em không theo kịp. Một
số giáo viên chưa thật sự chịu khó, tâm quyết với nghề, chưa thật sự
“giúp đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Từ đó các em cam chịu, dần dần
chấp nhận với sự yếu kém của chính mình và nhục chí không tự vươn
lên Đồng thời chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa
sút của học sinh
- Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hoá học sinh yếu kém,
không gây hứng thú cho học sinh thích học môn mình Chưa xử lý hết
các tình huống trong tiết dạy, chưa động viên tuyên dương kịp thời khi
học sinh có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn
đề chất lượng học tập của học sinh, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp
trên.Tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích,
không đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.
b. Phân loại học sinh yếu kém môn Vật lý
- Căn cứ 1: Điểm bộ môn năm học qua, tham khảo thêm điểm một số
môn học có liên quan hoặc gần gũi cùng khối như Toán, Hóa.
- Căn cứ 2: Điểm khảo sát chất lượng học sinh đầu năm.
- Căn cứ 3: Những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm
hiện tại.
Căn cứ vào những khía cạnh trên, tôi chia học sinh yếu kém môn Vật lý
thành những nhóm sau:
Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có hoặc có khả
năng tiếp thu bài rất thấp.
Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng chậm so
với học sinh bình thường.
Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa có phương
pháp học tập đúng đắn
Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
c. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém
9
* Các biện pháp chung
- Giáo dục ý thức học tập, hình thành lòng ham thích và say mê môn
học cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh
tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh
ham học, có ý thức vươn lên trong học tập, bằng cách:
+ Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế
để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong
thực tiễn.
+ GV phải tăng cường sử dụng triệt để các thí bị thí nghiệm, ĐDDH
sẵn có và tự làm trong các bài học, tăng cường cho học sinh làm các thí
nghiệm thực hành. Đồng thời, giáo viên dịnh hướng và giao nhiệm vụ
cho các nhóm học sinh (đặc biệt là nhóm các học sinh yếu kém) tự làm
các thí nghiệm đơn giản và các ĐDDH có trong chương trình học.
+ Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về
hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ
học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý
thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy
tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình
giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, đa số các phụ huynh
thiếu sự quan tâm đến con cái, bản thân phụ huynh cũng chưa hiểu được
tầm quan trọng của việc học tập. Giáo viên cần phân tích để các bậc phụ
huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia
đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
- Giáo viên xây dựng một môi trường học tập thân thiện trong từng
tiết dạy của mình: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những
biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ
cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em
bày tỏ những tâm tư tình cảm, những suy nghĩ trong cuộc sống và đặc
biệt là những khó khăn trong học tập của bản thân mình.
+ Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng,
không la mắng nặng lời hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng
10
để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương
yêu và tôn trọng mình.
+ Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản
hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo
viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để
khen ngợi các em. Giáo viên cần có sự quan tâm, đối với những học sinh
có tiến bộ, giáo viên phải nhận ra và động viên kịp thời, có thể nhận xét
trực tiếp vào bài làm hoặc khen ngợi trực tiếp trước lớp sau mỗi bài kiểm
tra.
+ Giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh một cuốn sách hay như:
“Bách khoa toàn thư về những học trò lười”; Sách kể về những tên tuổi
như Einstein, Disney, Darwin và Picasso…được thế giới biết đến như
những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ từng là những học sinh
lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng họ đã để
lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Qua những mẩu
chuyện này giáo viên muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh,
quí thầy cô, những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm
tàng chứ không đơn thuần chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật
trong lớp.
+ Tuy nhiên không phải trong bất kỳ trường hợp nào giáo viên cũng
thân thiện, mềm dẻo mà đối với một số đối tượng học sinh, ở một số tình
huống cụ thể nào đó, giáo viên cũng cần thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe
để đưa các em vào nề nếp, khuôn khổ. Điều quan trọng là giáo viên phải
tác động được vào ý thức của học sinh, học sinh hiểu rằng sự nghiêm
khắc ấy nhằm mục đích giáo dục, vì bản thân các em, không có sự trù
dập hay phân biệt đối xử với học sinh.
- Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh: Trong thực tế người ta
nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức.
Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các
chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua
đặc trưng này.
Do đó, để các biện pháp và phương pháp đưa ra đạt được hiệu quả thì
người Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với
những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù
11
hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường
hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu
tự tin, nhút nhát…
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu
đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện
tập phù hợp hơn.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động,
dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo
điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp
các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể.
Ví dụ yêu cầu luyện tập của một tiết là 5 bài tập, các em này có thể
dành cho 2-3 bài, còn 2-3 bài mức độ cao hơn dành cho các dối tượng
học sinh khá hơn.
Ngoài ra, giáo viên có thể đề nghị với nhà trường tổ chức phụ đạo cho
những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại
hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 3 tiết trong một tuần. Tuy
nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải được giáo viên chuẩn bị kỹ, làm sao
cho học sinh đi học phụ đạo thấy được rằng việc đi học này có tác dụng,
bổ ích, học sinh có khả năng tiếp thu và tiến bộ trong học tập thì công tác
phụ đạo mới thu hút được học sinh và phát huy được tác dụng của nó.
- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng
bài giảng, từng đơn vị kiến thức cho từng nhóm đối tượng học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học tức là thay đổi từ phương pháp học
sinh tiép nhận kiến thức thụ động từ giáo viên sang phương pháp học
sinh tự tìm ra kiến thức. Điều đó, yêu cầu học sinh phải tự nghiên cứu, tự
tìm tòm, tự khám phá theo sự định hướng, dẫn dắt của giáo viên, tức là
học sinh phải hoạt động nhiều hơn. Trước vấn đề đó, người giáo viên
phải thương xuyên tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận
dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với
từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng
phát huy chủ động, sáng tạo.
12
Tuy nhiên đối với học sinh yếu kém, đôi khi trong quá trình triển khai
các hoạt động, tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm, thảo luận lại
phản tác dụng .
Ví dụ: Học sinh đã học yếu, khả năng tiếp thu, phân tích, kết luận hạn
chế mà khi được giáo viên phân công vào nhóm có các học sinh khá hơn
thì học sinh yếu sẽ thụ động hẳn đi, không tự tin nêu ra ý kiến của mình,
ỷ lại vào các bạn học khá hơn sẽ đại diện cho nhóm nên học sinh yếu
không muốn hoạt động và sẽ càng yếu hơn. Bên cạnh đó việc đổi mới
phương pháp này đòi hỏi học sinh phải tự giác, tự học rất cao, mà đối
tượng học sinh yếu kém lại rất hạn chế ở khả năng này.
Vì thế theo ý kiến của cá nhân tôi thì đổi mới phương pháp, đặc biệt là
phương pháp hoật động và thảo luận nhóm thì không phải bài nào cũng
áp dụng được mà chỉ nên vận dụng vào các bài đơn giản dễ hiểu, tiết bài
tập. Còn đối với các bài quan trọng, có tính chất tiền đề cho những bài
học sau thì không nên.
- Giao nhiệm vụ về nhà: Đây là một biện pháp rất quan trọng đối với
học sinh yếu kém
+ Trong mỗi tuần tôi thường giao cho các em các một phần kiến thức
mà các em hổng, các em yếu và một lượng bài tập vừa phải về nhà.Tuy
nhiên cần chú ý là phần kiến thức và hệ thống bài tập giao về nhà phải
phù hợp với các nhóm học sinh yếu kém ở trên.
+ Trong các tiết dạy tôi thường hỏi han việc học và giải bài tập về nhà
của các em, một mặt để tỏ thái độ quan tâm, nhắc nhở và để tạo sự cởi
mở trong giao tiếp làm cho các em không ngần ngại.Mặt khác để các em
có cơ hội hỏi giáo viên những chỗ các em bị vướng mắc, chưa hiểu để về
nhà giải tiệp
+ Đến cuối tuần tôi kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các em, thu
bài lại để chấm và dành thời gian thích hợp để chỉ cho các em các lỗi sai
( Đây là một yếu tố để đưa vào đánh giá học sinh yếu kém)
- Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh
Theo tôi, với đối tượng học sinh này thù việc kiểm tra đánh giá các em
có vai trò rất quan trọng trong việc làm cho các em tiến bộ hay yếu hơn
13
nên trong quá trình dạy các lớp học sinh này khi kiểm tra đánh giá chúng
ta cần chú ý:
Đối với kiểm tra:
+ Hệ thống câu hỏi phải thật đơn giản, dễ hiểu
+ Nội dung câu hỏi phải sát với các kiến thức cơ bản trọng tâm trong
bài học
+ Trong các bài kiểm tra nên kết hợp cả hình thức TNKQ và tự luận,
hệ thống câu hỏi và bài tập đưa ra phải vừa sức với đối tượng này.
+ Phải chấm bài một cách nghiêm túc, tìm ra những chỗ đúng mà các
học sinh này làm được để cho điểm để động viên khích lệ.
+ Lời phê vào bài kiểm tra của những học sinh này rất quan trong nên:
phải khen nhiều chê ít và chỉ rõ cái sai trọng tâm cho học sinh.
+ Khi trả bài phải dành thời gian khen ngợi tuyên dương trước tập thể
lớp và phải sửa cho học sinh này những cái sai cụ thể nhất để các em
khắc phục.
Đối với việc đánh giá kết quả học sinh:
Khi đánh giá đối tượng học sinh này, bản thân tôi luôn kết hợp nhiều
mặt trong quá trình học tập của các em như:
+ Qua các con điểm các em đạt được trong các bài kiểm tra miệng, 15
phút, 45 phút và học kỳ.
+ Qua các biểu hiện học tập bộ môn trong cả học kỳ: thái độ, động cơ
học tập có thay đổi không? Nhiệm vụ giao cho về nhà ( bài tập, ghi
chép ) hoàn thành như thế nào? Ý thức học tập trên lớp như: xây dựng
bài, hoạt động và làm việc theo nhóm
- Giáo viên bộ môn phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường
+ Bản thân tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và các
giáo viên bộ môn khác để có thêm được nhiều thông tin về học sinh,
đồng thời cũng là người cung cấp các thông tin để giáo viên chủ nhiệm
quản lí học sinh chặt chẽ hơn, phát hiện kịp thời các biểu hiện sa sút của
học sinh. Từ đó giáo viên chủ nhiệm liên hệ với phụ huynh, kết hợp giáo
dục học sinh kịp thời.
14
+ Bên cạnh đó tôi thường xin dự giờ các đồng chí trong tổ dạy cùng
khối để học tập và kiểm nghiệm lại phương pháp của mình và qua đó
trao đổi để tìm hiểu thêm về tình hình học tập của các lớp khác nói
chung để kịp thời điều chỉnh các biện pháp, phương pháp của mình cho
phù hợp.
+ Tôi cũng thường xuyên trao đổi với tổ trưởng chuyên môn để đề xuất
với nhà trường tổ chức phụ đạo cho học sinh yếu kém ngoài giờ chính
khoá nhằm tạo điều kiện cho các học sinh này theo kịp chương trình học,
từ từ nâng dần chất lượng học tập của học sinh.
* Các giải pháp cụ thể
Ngoài các biện pháp chung ở trên, bản thân tôi còn tiến hành tìm hiểu
học sinh bằng phương pháp chủ yếu là tìm hiểu đánh giá thông qua sản
phẩm hoạt động của học sinh kết hợp với một số phương pháp khác
như : trò truyện, kiểm tra bài cũ, kiểmn tra 15 phút, điều tra …Công cụ
đánh giá chính của tôi là tính xác suất học sinh hiểu bài thông qua quá
trình học sinh xây dựng bài học và vận dụng kiến thức ở chính tiết học
đó. Từ đó sàng lọc học sinh thành nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt
được cụ thể các học sinh yếu kém bộ môn này. Sau khi sàng lọc và phân
loại học sinh ( 4 nhóm yếu kém như trên), Tôi dựa trên những biện pháp
chung ở trên để đưa ra các biện pháp cụ thể phù hợp với từng nhóm đối
tượng học sinh yếu kém như sau:
- Đối với nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có
hoặc có khả năng tiếp thu bài rất thấp ( Ta hay nói ngắn gọn là “ Học
sinh mất gốc ” ).
Do Trường THPT Đinh Chương Dương– Huyện Hậu lộc- là trường
bán công được thành lập năm 1998 và mới được chuyển sang hệ công
lập từ năm 2010: Tỷ lệ học sinh yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp
số học sinh này chiếm từ 50% dến 70%. Vì thế mà đối tượng học sinh
yếu kém thuộc nhóm 1 chiếm phần đông.
Qua thưc tiễn giảng dạy, tôi thấy học sinh thuộc nhóm này yếu kém
ở các khâu sau đây:
15
+ Các em thiếu kiến thức cơ bản ở cấp dưới, có tiếp thu được nhưng
không hiểu được nhiều kiến thức bài dạy của Thầy Cô trên lớp và dẫn
đến không nắm được kiến thức cơ bản trọng tâm của các bài học.
+ Các em không nắm được hệ thống đơn vị và không biết đổi đơn vị
của các đại lượng.
+ Các em không hiểu được, không xác định được đề và không tóm tắt
được một bài toán dù đơn giản nhất
+ Các em không giải sử dụng được cũng như không biến đổi được các
biểu thưc, công thức đơn giản nhất.
+ Các em không biết tính toán và cả không biết dùng máy tính để tính
toán các phép tính đơn giản
Một số giải pháp cụ thể sau đây:.
+ Khi triển khai bài mới, xác định rõ kiến thức trọng tâm, kiến thức
nền (những kiến thức cơ bản, có nắm được những kiến thức này mới giải
quyết được những câu hỏi và bài tập) trong tiết dạy cần cung cấp, truyền
đạt cho học sinh. Và sau một phần tôi thường chốt ngắn gọn các kiến
thức này vào một góc bảng, sau tiết học tôi có toàn bộ kiến thức cơ bản
trọng tâm này trên góc bảng để củng cố và khắc sau cho các em, đối với
học sinh yếu tôi chỉ yêu cầu nắm được những ý thật cơ bản này. Đặc
biệt, đối với học sinh yếu kém, tôi thường chỉ coi trọng tính vững chắc
của kiến thức và kỹ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao mở rộng kiến
thức.
+ Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, tôi đặc biệt chú ý đến các điều
sau: Đối với học sinh yếu chỉ nên yêu cầu các em làm các dạng toán thật
cơ bản, tính toán đơn giản, dựa vào tính chất, các công thức đơn giản
nhất, không nên đưa ra các dạng bài phức tạp cần sử dụng các phương
pháp giải nhanh, liên quan đến các định luật, các thuyết vật lý…
Sau đó tôi hưóng dẫn giải mẫu, lúc này nên đặt câu hỏi gợi mở dần để
học sinh xác định được hướng giải và đặc biệt hệ thống câu hỏi phải
nhằm vào những yếu kém của nhóm này ở trên đã trình bày… Đến bài
tập tương tự, cho HS một khoảng thời gian để tự tìm hướng giải, giáo
viên đi quan sát, khi thấy học sinh đi lệch hướng giáo viên phân tích kĩ
cho các em thấy sai chỗ nào. Khi hướng dẫn, chú trọng những “mốc giải
chính” của bài thôi như tóm tắt đúng chưa? Áp dụng đúng công thức
chưa? Nếu đúng rồi thì quay sang hưóng dẫn học sinh khác.
16
+ Sau khi thấy các em cơ bản làm được bài, giáo viên lên bảng yêu cầu
học sinh đứng tại chỗ trình bày, mỗi bước giải là một học sinh đễ tập
trung cả nhóm. Trong quá trình giải, giáo viên nhấn mạnh những chỗ học
sinh hay sai lầm, nên tránh.
+ Khi các em đã làm được bài tôi luôn khen ngợi cá nhân và nhóm học
sinh này, đồng thời phải cho điểm cao để khích lệ. Nên chú ý nêu các em
có làm sai chúng ta cũng không nên che bai trước lớp mà phải tìm những
cái nhỏ nhất mà học sinh làm được để khen hoặc khen về mặt tự giác học
tập của học sinh.
- Đối với Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng
chậm so với học sinh bình thường.
Qua thưc tiễn giảng dạy, tôi thấy học sinh thuộc nhóm này yếu kém ở
các khâu sau đây:
+ Các em kiến thức cơ bản ở cấp dưới, có tiếp thu được kiến thức bài
dạy nhưng với tốc độ chậm
+ Khả năng xử lí kiến thức, xử lí công thức của các em cũng chậm.
+ Do đó, khả năng xử lí và tốc độ giải bài tập cũng chậm
Một số giải pháp cụ thể sau đây:.
+ Giáo viên chia nhỏ nhóm học sinh này ra, các nhóm được chia càng
nhỏ càng tốt, phân công các học sinh khá về học cùng nhóm này để giúp
đỡ các học sinh yếu này. Ban đầu tôi cho học sinh tự chọn nhóm theo
mong muốn cá nhân, sau một thời gian nếu chưa hợp lý thì điều chỉnh.
Tôi ghi lại danh sách các nhóm, theo dõi sát trong quá trình học cũng
như sau mỗi bài kiểm tra, nếu nhóm nào tiến bộ tôi tuyên dương và cộng
điểm thưởng nhóm trưởng.
+ Giáo viên chú ý phân tích cho học sinh những kiến thức thường sai,
việc phân tích này thường xuyên thực hiện kết hợp trong các tiết học bài
mới cũng như các tiết luyện tập để giúp các em lấp lỗ hổng, chỗ yếu
thường xuyên hơn.
+ Học sinh yếu kém khả năng tiếp thu và nắm bắt kiến thức chậm, nên
giáo viên cần giảm tải quá trình nhận thức của học sinh bằng cách giản
lược hóa nội dung bài học, rút gọn lại dưới dạng trọng tâm, truyền tải
súc tích dưới dạng hình ảnh trực quan, dễ hiểu dễ quan sát. Đối với bài
tập, giáo viên cố gắng đưa ra các bước càng cụ thể, rõ ràng càng tốt, với
17
phương châm: “Điều tôi nghe tôi quên. Điều tôi nhìn tôi nhớ. Điều tôi
làm tôi hiểu”.
- Đối với Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa
có phương pháp học tập đúng đắn
+ Học sinh yếu kém này thường biểu hiện ở chỗ là: Về thái độ học sinh
này thể hiện như là một học sinh hiểu kiến thức, hiểu câu hỏi và giải
đuợc bài tập rất nhanh; Rất hay phát biểu xây dựng bài, hay xung phong
giải bài tập những lại hay sai kiến thức cơ bản; Trong bài kiểm tra thì
trình bày sơ sài, thiếu chặt chẽ và sai nhiều.
+ Nguyên nhân ở đây là do các học sinh này nhận thức chưa đúng về
mức độ kiến thức bộ môn vật lý nên thiếu hiểu sâu về hiện tượng vật lý
của các kiến thức, của các bài toán; dẫn đến về nhà học tập không đúng
phương pháp (học qua loa không chú tâm và không đi sâu vào kiến thức,
vào hiện tượng) nên dần dần đi đến yếu kém như vậy.
+ Các giải pháp
Giáo viên tổ chức kèm cặp, phụ đạo thêm cho học sinh. Việc phụ đạo
này có thể thực hiện theo kế hoạch chung của nhà trường hoặc gaío viên
tự tổ chức cho học sinh với thời lượng 2 tuần 1 buổi. Trong các buổi này,
tôi chủ yếu kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp, nếu
thấy các em chưa chắc, hiểu sai lệch kiến thức, sai lệch hiện tượng vật lý,
tôi tiến hành ôn tập củng cố kiến thức để các em nắm vững chắc hơn, nói
chuyện để tìm hiểu thêm những chổ các em chưa hiểu hoặc chưa nắm
chắc để bổ sung, củng cố. Hướng dẫn phương pháp học tập: học bài, làm
bài, việc tự học ở nhà.
Qua việc giải bài tập, qua các bài tập giao về nhà, tôi tập dần cho các
em phân tích, tính chất, hiện tượng vật lý của kiến thức,của bài tập để
giúp các em hình thành kỹ năng này và từ đó sẽ đưa ra được cách giải
bài toán dễ dàng hơn.
Thông qua giáo viên chủ nhiệm thông báo với gia đình học sinh về
việc tổ chức học phụ đạo, phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em
học tập, đôn đốc thực hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà.
- Đối với Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh
lười học.
18
+ Nguyên nhân:
Do các em không có một chút kiến thức nào về môn học nên có đi
học, có đến lớp cũng không hiểu gì.
Do các em ham muốn một trò chơi nào đó hoặc bạn bè hư hỏng lôi
kéo.
Do các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học.
Do gia đình thường xảy ra xung đột, thiếu tình cảm hoặc gia đình,
người thân …thiếu sự quan tâm, nhắc nhở và kiểm tra.
+ Các giải pháp:
Làm thay đổi nhận thực về tầm quan trọng của việc học của các em,
thay đổi sự bi quan chán nản trong tâm của các em khi phải đối mặt với
hoàn cảnh gia đinh…bằng cách: Giáo viên vừa phân tích động viên cho
các em sự cấn thiết của việc học, nêu ra các trường hợp thật cụ thể của
học sinh các năm trước vì không chú tâm học nên không thi đậu tốt
nghiệp trung học phổ thông, sau khi thi trượt hối hận thì không kịp. Nêu
lên những tấm gương các bạn học sinh vượt lên trên hoàn cảnh để đạt
được kết quả cao trong học tập ( Muốn làm tốt giải pháp này giáo viên
bộ môn phải kết hợp với GVCn để tìm hiểu vầ gia đình, về con người
của các học sinh này)
Giúp các em tránh xa các trò chơi vô bổ, tránh xa các bạn bè hư hỏng:
phân tích cho các em về sự tác hại của các trò chơi đến tinh thần, đến sức
khỏe và đến học tập của các em. Đồng thời, tôi làm thay đổi nhận thức
về bộ môn và tăng lòng yêu thích học tập bộ môn để cuốn các em quay
trở về việc học tập: Tôi hay giao cho các nhóm học sinh này đi sưu tầm
các ĐDDH như: máy biến áp nhỏ cũ, các điện mảng điện tử cũ, các loại
Pin ; Giao cho các em vẽ các ĐDDH hoặc làm các ĐDDH tự làm Sau
đó thu lại rồi đem ra hội thảo đánh giá trước lớp, có tuyên dương khen
thưởng và cho điểm.
Bên cạnh đó phải tăng cường kiểm tra bài đầu giờ, cuối giờ; kiểm tra
việc ghi chép bài và làm bài tập ở nhà. Chú trọng kiểm tra bài cũ các em
yếu kém. Đối với những học sinh tiến bộ có học bài, làm bài, giáo viên
động viên, khuyến khích tinh thần của các em, khen ngợi các em trước
lớp. Giáo viên nghiêm túc phê bình những em chưa tiến bộ, giáo viên
cho học sinh thời hạn, sau thời hạn đó giáo viên cho học sinh kiểm tra
bài để học sinh có thể sữa chữa những con điểm xấu, từ đó tạo tâm lí cho
19
học sinh cảm thấy có động lực học và thấy bản thân có khả năng học nên
sẽ cố gắng hơn trong thời gian tới.
Ngoài ra, tôi phải kết hợp với các giáo viên bộ môn khác, giáo viên
chủ nhiệm, các bộ lớp để thường xuyên kiểm tra, đôn đóc, nhắc nhở và
theo dõi sự tiến bộ của các em học sinh này để kịp thời động viên kịp
thời. Đồng thời phải phối hợp với gia đình để tăng hiệu quả của các biện
pháp giáo dục.
4. KIỂM NGHIỆM
Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là trong 2 năm học 2011-2012 và
2012- 2013, tôi đã áp dụng các ý tưởng của đề tài này vào các lớp tôi
dạy. Đồng thời đã đưa ra trao đổi thảo luận và cho các đồng chí giáo viên
trong nhóm chuyên môn vật lý áp dụng, qua một năm thực nghiệm giảng
dạy, tôi đã thấy có sự chuyển biến rõ rệt ở các học sinh yếu kém và thu
được kết quả rõ rệt.
Kết quả của cá nhân tôi
Lớp Sĩ
số
Số học sinh yếu kém
Tỉ lệ
còn
lại
So sánh
2011-
2012
Tỉ lệ
2012-2013
Đầu
năm
Cuối
học kỳ
I
Cuối
năm
10A1 40 17 em 13em 6 em 15%
Giảm
27,5%
12B2 40 21em 52,5% 21em 13 em 6 em 15%
Giảm
37,5%
12B4 46
19
em
41,3% 19 em 11em 5 em 10,9%
Giảm
30,4%
Kết quả bộ môn Vật lý của nhóm
Môn Tổng
HS 3
Số học sinh yếu kém So sánh
Đầu năm Cuối Cuối Tỉ lệ
20
khối học kỳ
I
học kỳ
II
còn
lai
Vật lý 983em
328 em =
33,4%
286
em
105
em
10,7%
Giảm
22,7%
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
- Tuyển dụng đủ giáo viên để mỗi giáo viên chỉ dạy đúng số tiết theo
quy định, giáo viên có thời gian và công sức tập trung cho công tác phụ
đạo học sinh yếu kém.
- Các tổ nhóm chuyên môn cần tổ chức dự giờ của các đồng chí trong
nhóm, đặc biệt là các đồng chí giáo viên trẻ. Từ đó để góp ý cho nhau về
phương pháp giảng dạy, đặc biệt là phương pháp dạy ở các lớp có nhiều
học sinh yếu kém. Đồng thời các nhóm cũng thường xuyên trao đổi đãnh
giá về sự tiến bộ của các lớp có nhiều học sinh yếu kém trong các lần
học ở các tháng qua điểm các bài kiểm tra thường xuyên, định kỳ.
- Nhà trường cũng cần có các cuộc hội thảo về vấn đề này để giúp tất cả
đồng chí giáo viên trong trường trao đổi học tập lẫn nhau để giảm tỉ lệ
học sinh yếu kém ở tất cả các môn học.
- Hội đồng bộ môn của Sở Giáo Dục và Đào Tạo cần tích cực tổ chức
các hội thảo, hội nghị chuyên đề triển khai các kinh nghiệm, cách tổ
chức phụ đạo học sinh yếu kém để giáo viên có điều kiện học hỏi lẫn
nhau đặc biệt là đối với giáo viên mới ra trường còn ít kinh nghiệm trong
công tác giảng dạy.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về các giải pháp giúp đỡ học sinh
yếu kém. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế.
Kính mong quí thầy, cô đóng góp ý kiến một cách chân thành nhất để tôi
sửa chữa, bổ sung để bài viết được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành
cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 05 tháng 05
năm 2013
21
XÁCN NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Mai Văn Hóa
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢM TỈ LỆ HỌC SINH YẾU KÉM
MÔN VẬT LÝ TRONG TRƯỜNG THPT
22
Người thực hiện: Mai Văn Hóa
Chức vụ: Tổ trưởng Tổ Vật lý
SKKN thuộc môn: Vật lý
THANH HÓA NĂM 2013
23